Sự Phát Triển Của Cơ Đốc GiáoHội Thánh ban đầu được tổ chức rất lỏng lẻo và thường nhóm họp tại tư gia. Ngày để thờ phượng được chuyển đổi từ ngày Sa-bát của Do Thái giáo (ngày thứ bảy) sang ngày Chủ nhật, là ngày Chúa Jesus từ kẻ chết sống lại. Những người lãnh đạo sinh sống bằng nghề nghiệp riêng của họ và chỉ đôi lúc họ mới nhận sự dâng hiến. Khi thành Giê-ru-sa-lem bị La Mã phá hủy vào năm 70 S.C, các Cơ Đốc Nhân bị tan lạc và cần thiết phải ghi chép lại chuyện tích về cuộc đời Chúa Jesus trước khi tất cả những người đã từng biết Ngài qua đời. Dường như Mác là người đầu tiên viết lời ký thuật. Khi các niềm tin khác nhau bắt đầu phát triển, Phao-lô đã nhanh chóng nhìn thấy mối hiểm họa của những sự sai lầm, nên ông đã giảng dạy và đã viết các bức thư mà chúng đã trở thành những tiêu chuẩn giáo lý cho Hội Thánh. Lúc đầu, những người chống đối chính của ông là những người Do Thái giáo, họ ra sức áp đặt những đòi hỏi của luật pháp trên các tín đồ Cơ Đốc. Phái Trí huệ (Gnosticism) cũng đã xuất hiện và là mối đe dọa cho đức tin Cơ Đốc vào gần cuối thế kỷ thứ nhất. Các thư tín của Giăng đã đặc biệt chỉ giáo chống lại tà thuyết nầy. Cuối cùng các tà thuyết khác nhau đã đưa đến việc lập ra các bản tín điều của Hội Thánh.
Thời Kỳ Bách Hại (năm 60-300)
Sự bắt bớ Hội Thánh đã bắt đầu vào thời Hoàng đế Nê-ron (54-68 S.C) và Phi-e-rơ đã bị ông đóng đinh vào thập tự giá vào năm 68 S.C. Trong hai thế kỷ, có những thời kỳ bách hại và an ổn xen kẽ nhau, nhưng sự bắt bớ đã trở nên lan rộng dưới triều của Diocletian (năm 303-310). Hàng ngàn người Cơ Đốc đã chịu tử đạo một cách cay nghiệt trong thời kỳ nầy.
Thời Kỳ Giáo Hội Hoàng Gia (năm 300-500)
Constantine lên ngôi Hoàng đế vào năm 312 S.C. Ngay trước trận chiến tranh với Maxentius để tranh ngôi Hoàng đế, Constantine tuyên bố rằng đã thấy một giấc mơ. Ông nói rằng ông đã thấy một cây thập tự in trên bầu trời với dòng chữ "In hoc signo vinces" ("Chiến thắng bằng dấu hiệu nầy") và ông hứa sẽ trở thành một người Cơ Đốc nếu ông thắng trận. Ông đã được thắng lợi hoàn toàn và đã công bố dung nạp tôn giáo nầy cho toàn đế quốc. Vào khoảng năm 400 S.C, Cơ Đốc giáo đã trở thành tôn giáo chính thức của đế quốc. Dưới sự hướng dẫn của Constantine, bản tín điều Nicene đã được hình thành, nhưng có lẽ động cơ của ông là để giữ cho đế quốc của mình được đoàn kết. Năm 330, ông dời thủ đô về Constantinople ở phía Đông, nhưng việc nầy đã gây cho các giám mục nắm quyền trên Rô-ma và dẫn đến việc đế quốc La Mã bị tan rã.
Vào thế kỷ thứ tư, một phong trào tu hành đã được đẩy mạnh, và nó đã có tác động lớn cho Hội Thánh. Sử dụng lời của Đấng Christ theo nghĩa đen, họ tự phủ nhận những tiện nghi thuộc thể và sự tiếp xúc với xã hội. Được biết như là những tu sĩ (monk), họ khấn hứa sống khó nghèo, trinh bạch và vâng phục, và họ sinh sống trong các tu viện, dành nhiều thời gian để suy gẫm. Thời kỳ nầy của chủ nghĩa tu hành đã sản sinh ra Jerome (sinh năm 342 S.C) là người đã phiên dịch Kinh Thánh ra tiếng La Tinh. Bản dịch tiếng La Tinh của ông, bản Vulgate, đã trở thành Kinh Thánh tiêu chuẩn cho giáo hội Công giáo La Mã.
Một trong những nhà thần học danh tiếng của thời kỳ nầy là Augustine (năm 354-430 S.C) ở Bắc Phi. Ông được chú ý vì quan điểm của ông về các giáo lý nguyên tội, sự sa ngã của con người và sự tiền định. Quyền hành của các giám mục đã tăng trưởng trong hệ thống hoàng triều cho đến lúc nó trở thành vấn đề: Họ hay là các Hoàng đế nắm quyền cai trị đế quốc? Với sự xâm lăng của các bộ tộc man di từ phương bắc, các giám mục đã cấp những nhượng địa cho họ và đế quốc La Mã đã sụp đổ vào năm 476. Sau khi sụp đổ, đế quốc La Mã Thánh đã giành được phần của mình và ủng hộ chế độ giáo hoàng chống lại các kẻ thù của nó bằng cách cấp cho nó phần đất nó chiếm giữ như một sở hữu tạm thời.
Thời Kỳ Ám Thế (năm 500-900)
Với sự sụp đổ của đế quốc tại Rô-ma, giáo hội tiến vào Châu Âu và Anh quốc ở phía Bắc. Sau đó có những cuộc xâm lăng của người Hồi giáo nhưng họ đã bị chận đứng ở Pháp và bị loại ra khỏi thành Constantinople trong vài trăm năm. Các sử gia xem thời kỳ nầy là "Thời Kỳ Ám Thế" vì nó là một thời kỳ có rất ít hoặc không có sự tiến bộ nào trong học thức cổ điển. Nhiều linh mục, là những người thuộc tầng lớp học thức, đã rút vào các tu viện để trốn lánh sự đời và sự tục hóa (Secularization) đang xảy ra trong giáo hội. Vào các thế kỷ thứ tám và thứ chín, một số vấn đề nảy sinh đã gây một sự chia rẽ lớn giữa giáo hội ở Rô-ma và giáo hội Đông Phương ở Constantinople. Những người Cơ Đốc Đông phương tập trung vào thần học và nhấn mạnh đến thần tánh của Đấng Christ, còn những người Cơ Đốc phương Tây lại nhấn mạnh đến nhân tánh của Ngài. Giáo hội phương Đông trở thành Chính thống giáo và các linh mục của nó được gọi là "Giáo trưởng" (Patriarchs). Giáo hội ở Rô-ma tự gọi mình là Công giáo (Catholic) tức giáo hội "phổ thông". Đông giáo hội công nhận các tranh ảnh về Chúa Jesus, bà Ma-ri và các sứ đồ trong khi Tây giáo hội lại sử dụng tượng chạm. Đông giáo hội cho rằng Chúa Jesus đã ban Đức Thánh Linh xuống còn Tây giáo hội cho rằng cả Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con sai Đức Thánh Linh xuống. Đông giáo hội dùng bánh và nước nho trong tiệc thông công còn Tây giáo hội chỉ dùng bánh mà thôi. Đông giáo hội cho phép giới linh mục được kết hôn và sử dụng tiếng Hi Lạp trong các giờ thờ phượng. Tây giáo hội đòi hỏi linh mục phải sống độc thân và sử dụng tiếng La Tinh trong giờ thờ phượng.
Thời Kỳ Giáo Hội Trung Cổ (năm 950-1500)
Khoảng một trăm năm sau năm 950, Cơ Đốc giáo đã bành trướng mạnh mẽ ở Châu Âu. Giáo hội La Mã sai phái giáo sĩ đi đến tận Ấn Độ và Trung Hoa. Có một thời kỳ Cơ Đốc giáo võ trang khi các đoàn quân viễn chinh Cơ Đốc (Thập tự quân) cố giành lại các vùng bị Hồi giáo chiếm giữ. Năm 1054, Giáo hoàng Leo IX dứt phép thông công Giáo trưởng ở Constantinople, việc nầy gây ra sự tuyệt giao vĩnh viễn giữa Đông giáo hội và Tây giáo hội. Năm 1204, các đoàn thập tự quân trên đường đến Đất Thánh đã dừng chân tại Constantinople và đã cướp phá thành phố nầy. Vài trăm năm sau, thành phố nầy rơi vào tay người Hồi giáo (năm 1453 S.C) và nhà thờ thánh Sophia nổi tiếng đã trở thành một nhà thờ Hồi giáo. Tại phương Tây, có nhiều cuộc tranh chấp giữa các Hoàng đế và các vị giáo hoàng, phía nầy dứt phép thông công và truất phế phía kia. Nhưng vào cuối thế kỷ thứ mười lăm, chế độ Giáo hoàng lại được thành lập ở Rô-ma.
Các Phong Trào Cải Chánh Giáo Hội (năm 1500 đến 1700)
Vào thế kỷ thứ mười sáu, một cuộc cách mạng đã làm rúng động giáo hội La Mã đến tận nền móng của nó. Đó là cuộc Cải Chánh mà đã sản sinh ra giáo hội Tin Lành. Ngoài những tình hình có trong giáo hội La Mã, còn có những bước khác đã đóng góp cho cuộc cải chánh nầy. John Wyclif ở Anh quốc (vào khoảng năm 1328 – 1384) đã phiên dịch bản Kinh Thánh Vulgate tiếng La Tinh ra Anh ngữ vào năm 1382, để giúp cho người dân thường có thể được đọc Kinh Thánh. Ông đã bị giáo hội La Mã kết án và bị ép buộc phải rút về tư thất của ông, nhưng những tư tưởng của ông đã lan khắp Anh quốc. John Huss ở xứ Bohemia (1374 – 1415), là người đã chịu ảnh hưởng của các tác phẩm của Wyclif, đã lãnh đạo phong trào nầy ở Bohemia cho cuộc cải chánh trong giáo hội. Tư tưởng của ông đã được ghi lại trong sách của ông, cuốn "The Ecclesia" (Hội Thánh). Vì tư tưởng của ông đã tạo một sự thách thức nghiêm trọng cho giáo hội ở Rô-ma nên ông đã bị kết án và bị hỏa thiêu trên giàn hỏa.
Martin Luther
Con người nổi bật của cuộc Cải Chánh là Martin Luther (1483 - 1586). Ông đã tham dự vào chức vụ của giáo hội Công giáo, đã tuyên thệ trở thành một tu sĩ và trở thành giáo sư của Đại học đường Wittenberg và đã đậu văn bằng tiến sĩ thần khoa. Giảng thuyết về thư Rô-ma và thư Ga-la-ti, ông đã bị xúc động bởi câu: "Người công bình sống bằng đức tin". Ông lý luận: "Nếu người công bình sống bằng đức tin thì tại sao chúng ta cố gắng kiếm được sự cứu rỗi bằng việc lành?" Ông đã thấy rằng Thánh Kinh, chớ không phải Giáo hoàng, là thẩm quyền cuối cùng cho người Cơ Đốc, và ông đã thấy rằng con người chỉ được cứu bởi đức tin mà thôi. Điều nầy dẫn ông đến việc viết ra một truyền đơn về chức tư tế của mọi tín đồ. Sau việc nầy, ông đã viết ra một tài liệu trong đó ông liệt kê chín mươi lăm điểm dối gạt của hệ thống bùa xá tội nầy. (Bùa xá tội là các tài liệu mà một người có thể mua để được thoát khỏi sự hình phạt những tội lỗi của đời nầy. Về sau, cái bùa nầy còn được mở rộng bao gồm cả việc xá tội cho những người ở trong ngục luyện tội nữa). Ông đã niêm yết bảng danh sách nầy tại cửa giáo đường Wittenberg vào ngày 31 tháng Mười năm 1517. Nó đã tạo ra một sự xúc cảm và Charles V, Hoàng đế của La Mã Thánh đã triệu vời ông đến Hội đồng Worms vào tháng tư, năm 1521 mà ở đó ông bị dứt phép thông công và bị truyền phải chấm dứt việc in ấn các sách của ông.
Luther đã làm việc âm thầm một thời gian, trong thời gian đó ông dịch Kinh Thánh ra tiếng Đức. Tại Đức, một giáo hội cải cách đã mọc lên từ sự phản kháng nầy. Chính dựa trên giáo lý xưng nghĩa bởi đức tin nầy mà giáo hội Cải Chánh (Protestant) đã được khai trương. Ông tiếp tục việc viết sách và viết thánh ca cùng thành lập các cuộc cải chánh khác. Ông khuyến khích các linh mục và các nữ tu lập gia đình và chính ông cũng cưới vợ. Năm 1546 ông qua đời, nhưng cuộc cải chánh đã đâm rễ và trải rộng trên nhiều mảnh đất khác, nhất là đối với các nước vùng Bắc Âu.
John Calvin
Một người khác có ảnh hưởng trong cuộc cải chánh là John Calvin (1509 - 1564 S.C). Khi được 24 tuổi, John Calvin đã tiếp xúc với phong trào cải chánh. Sự tham gia của ông vào phong trào đòi hỏi ông phải rời bỏ giáo hội La Mã. Vào tuổi hai mươi sáu, ông đã viết cuốn "The Institutes Of The Christian Religion" (Những tổ chức của Cơ Đốc giáo), mà nó đã trở thành thần đạo học cổ điển của phái Cải Chánh. Sự dạy dỗ của ông chịu ảnh hưởng của Augustine và quyền tể trị của Đức Chúa Trời. Tại Geneva, ông đã lập ra một hình thức quản trị giáo hội được biết đến như là hệ thống trưởng lão (Presbyterian System), mà nó đã giữ một chỗ nổi bật trong lịch sử.
Cuộc Phản Cải Chánh
Nhận thấy rằng không thể chận đứng phái Cải Chánh, giáo hội La Mã triệu tập các giám mục của mình tại Hội Nghị Trent vào năm 1545 S.C. Tại cuộc hội nghị nầy họ khăng khăng cho rằng giáo hội bình đẳng với Kinh Thánh và là người thông giải duy nhất về Thánh Kinh. Hội nghị tái khẳng định bảy bí tích truyền thống và vẫn giữ việc tôn thờ các thánh và các ảnh tượng. Do đó, giáo hội La Mã động viên các tài nguyên để dùng sức mạnh khôi phục lại những gì đã mất. Phản ứng chiến đấu nầy của nó được biết dưới tên cuộc phản cải chánh. Kết quả là hàng ngàn người đã thiệt mạng tại Âu Châu và nó có tác dụng đến nỗi vào khoảng năm 1572, cuộc cải chánh đã hoàn toàn bị trừ khử tại nước Ý. Nhưng tại những vùng thuộc Anh Quốc và phía bắc Âu Châu, phái Cải Chánh đã gia tăng nhiều về số lượng.
Thời Kỳ Giáo Hội Cận Đại (năm 1700 đến Thế Kỷ 20)
Sự tự do mới tìm được của tín đồ trong phái Cải chánh đã dẫn đến các niềm tin và các phong trào khác nhau. Giáo hội Anh Quốc là phái Cải Chánh nhưng vẫn giữ nguyên nhiều hình thức thờ phượng của Công giáo. Những nhóm người tách biệt nhau bao gồm giáo hội Hội Chúng (Congregational Church); rồi sau đó phái Ana Báp-tít là những người làm báp-tem lại cho những người thành nhân, vì họ không nhìn nhận việc làm phép báp-tem cho trẻ em. Trong thế kỷ mười tám John Wesley bắt đầu hội Giám Lý (Methodism) và vào hậu bán thế kỷ mười tám các cuộc xung kích truyền giáo cận đại đã bắt đầu. Thế kỷ hai mươi đã chứng kiến một cuộc phấn hưng thuộc linh với việc nhấn mạnh đến Lễ Ngũ Tuần một cách mới mẻ dẫn đến sự bùng nổ truyền giảng Tin Lành với sự mở rộng việc truyền giáo xa hơn.
Mặc cho thuyết tiến hóa, chủ nghĩa duy vật, sự phản công của các tôn giáo khác và duy linh thuyết, người Cơ Đốc đang gia tăng ý thức phụ thuộc lẫn nhau. Như là một Hội Thánh kết đoàn để đối diện với một thế giới đang đổi thay, Hội Thánh đã tự nhận thấy những nhu cầu mới. Hội Thánh đã có nhiều thành công, nhưng Hội Thánh đối diện với một nhiệm vụ chưa hoàn tất. Toàn thể Hội Thánh phải đem toàn bộ Phúc Âm đến cho toàn thế giới.
Mục tiêu 8: Nhận biết những điểm mạnh của Cơ Đốc giáo và cho biết những điểm yếu của nó ở đâu.
Đánh Giá Về Cơ Đốc Giáo
Trong việc thẩm định những điểm mạnh và những điểm yếu của Cơ Đốc giáo, chúng ta gặp một điều bất lợi là không có một tiêu chuẩn cao hơn để so sánh với nó. Tuy nhiên, nhìn vào những tôn giáo khác, chúng ta có thể kết luận về những tiêu chuẩn và những giá trị căn bản quan trọng.
Những Điểm Mạnh Của Cơ Đốc Giáo
- Quan niệm của nó về Đức Chúa Trời như là một hữu thể tối cao và là một Cha từ ái.
- Bản tính của người sáng lập ra nó là không chỗ trách được.
- Người sáng lập đã chứng minh thần tánh Ngài bằng sự phục sinh của Ngài.
- Những sự dạy dỗ đều có phẩm chất đạo đức và xã hội cao nhất.
- Thánh Kinh của nó có nguồn gốc thiên thượng.
- Bất cứ nơi nào nó đến nó đều đem lại sự văn minh ở đó.
- Nó nhấn mạnh đến sự truyền giáo và đã nâng cao những tiêu chuẩn sinh sống của các quốc gia ở khắp thế giới.
- Nó cung ứng sự cứu rỗi hiện tại và sự thông công với Đức Chúa Trời.
- Đức Thánh Linh hiện diện trong mọi đời sống người tín đồ.
- Nó cung ứng một niềm hi vọng tươi sáng về một tương lai đời đời với Đức Chúa Trời.
Những Điểm Yếu Của Cơ Đốc Giáo
Vì Cơ Đốc giáo là tiêu chuẩn để phán xét trong bài khóa nầy nên chúng ta không thể tìm thấy lỗi lầm của nó. Tuy nhiên, chúng ta phải nói thêm là có những lỗi lầm trong số tín đồ của nó. Chúng ta không dung thứ những hành động sai, nhưng chúng ta phải yêu cầu người ta không nên phán xét vị Giáo chủ qua những lỗi lầm của những người đi theo Ngài. Sự tương tự của dây xích không thể áp dụng cho Cơ Đốc giáo. Hội Thánh không yếu ớt như cái mắc xích yếu ớt nhất của nó, Hội Thánh phải mạnh mẽ như Đấng lập nên nó. Một người chỉ nên xét đoán Cơ Đốc giáo qua Đấng Christ chớ không phải qua một số người không sống đúng theo tiêu chuẩn của Ngài. Sau đây là một số điểm yếu mà người Cơ Đốc thường bày tỏ ra trong đời sống hằng ngày của họ.
- Một số người Cơ Đốc không thực hành những gì mà họ biết đó là sự dạy dỗ của Đấng Christ.
- Một số người quá nhấn mạnh đến thần học mà thiếu sót về hành vi đạo đức.
- Một số người có khuynh hướng thoái thác trách nhiệm ban phát, sống đạo và nói về Đấng Christ cho người khác.
- Một số người có khuynh hướng cai trị hơn là phục vụ.
- Những người lãnh đạo thành công thường ỷ lại vào tài sản vật chất.
- Hội Thánh thường bị chia rẽ bởi những vấn đề về giáo lý, về sự thờ phượng và về tổ chức.
Tất cả những điều nầy có thể được tóm gọn vào một điểm. Tất cả chúng ta đều kém thiếu nếu chúng ta không hết lòng yêu mến Đức Chúa Trời và anh em mình như chính mình. Chúa Jesus đã phán: "Hãy nên trọn vẹn... như Cha các ngươi ở trên trời là trọn vẹn" (Ma-thi-ơ 5:48). Ngài là lý tưởng mà chúng ta phải dùng làm khuôn mẫu cho đời sống chúng ta và theo đó mà chúng ta xét đoán Cơ Đốc Giáo. Dầu sao chăng nữa, mỗi tín đồ phải nhận biết rằng đời sống mình là một cái gương phản chiếu sự sống bề trong. Đối với nhiều người, điều nầy là cái nhìn duy nhất của họ về Cơ Đốc Giáo và vị Giáo chủ của nó.
25. Trong vở ghi bài của bạn, bạn hãy kể ra năm điểm mạnh của Cơ Đốc giáo và mô tả những điểm yếu của nó nằm ở chỗ nào.Những Niềm Tin Lệch Lạc (Aberrant Beliefs)Đã xem xét những phong trào tôn giáo chính của thế giới trong các bài học trước, chúng ta quay về với bài học kết thúc nầy để xem xét một số sự lệch lạc từ đức tin mà đã truyền cho các thánh một lần đủ rồi (Giu-đe 1:3). Những niềm tin phi Kinh Thánh, từ những sự tranh luận nhỏ đến những rạn nứt lớn giữa các hệ phái, đã gia tăng nhanh chóng trong thời gian gần đây. Không phải tất cả niềm tin đó đều hoàn toàn sai lạc nhưng chúng ta cần phân biệt giữa sự thật (chân lý) và sự sai lầm.
Khi chúng ta bàn đến những niềm tin tẻ tách, chúng ta có thể có sự bất đồng ý, nhưng chúng ta không nên giữ tinh thần chỉ trích hoặc có ác ý. Chúng ta có thể học hỏi từ những phía khác, nhưng đồng thời, sự phơi bày những sai lạc của họ sẽ lập chân lý trong chính tấm lòng của chúng ta. Khi bạn nghiên cứu bài học nầy, bạn sẽ thấy rằng nhiều niềm tin sai lạc đã bắt nguồn từ những người đi tìm kiếm một từng trải thuộc linh hoặc cố sức học nhiều hơn về Lời của Đức Chúa Trời. Thay vì để Thánh Linh hướng dẫn họ trong một sự tra xem tường tận Kinh Thánh, họ lại để cho những sự thông giải của loài người hoặc ước muốn tự tôn hướng dẫn họ vào chỗ sai lầm.
Nếu bạn không biết phải tin điều gì về một số vấn đề phát sinh, bài học nầy có thể giúp bạn hiểu cách để tra xét Kinh Thánh và đi đến những kết luận đúng đắn. Ngoài ra, bạn sẽ thấy một số khuynh hướng thường hay có đối với tất cả những niềm tin tẻ tách. Sự hiểu biết nầy sẽ chứng tỏ là một phương sách có giá trị khi bạn đối đầu với những người bị trói buộc vào những niềm tin phi Kinh Thánh. Nó có thể giúp bạn đem họ trở về với lẽ thật. Chúng tôi cầu mong rằng điều nầy có thể xảy ra.