Bài 19: Những Người Thánh Thiêng
Các Tiên Tri

Từ ngữ tiếng Hê-bơ-rơ để chỉ vị tiên tri là Na-bi, có nghĩa là "một người được kêu gọi để nói ra thay Đức Chúa Trời". Các tiên tri đôi lúc tiên báo hay nói trước về những biến cố trong tương lai, nhưng phần lớn là họ chỉ nói ra (phát ngôn nhân). Họ rao giảng về sự công bình của Đức Chúa Trời và tố cáo các tội lỗi và sự thờ hình tượng của dân sự. Các tiên tri như Ê-li và Ê-li-sê được biết đến như là các tiên tri tiền trước tác (chưa biết sách). Các vị tiên tri có trước tác (có viết sách) được liệt kê trong Cựu Ước là từ Ê-sai đến Ma-la-chi.

Các Thầy Tế Lễ

Chức tế lễ được trong gia tộc A-rôn, và trong chi phái Lê-vi. Trong số các nhiệm vụ của họ, họ phải giữ việc đốt lửa trên bàn thờ, châm dầu vào Đèn vàng đặt trong nơi thánh và dâng các tế lễ. Một phần trong số một phần mười về thịt và các của dâng bằng ngũ cốc được ban cho họ. Trong cuộc chinh phục xứ Ca-na-an, họ được cấp bốn mươi tám thành và đất để chăn bầy súc vật của họ. Thầy tế lễ thượng phẩm nắm chức vụ dâng tế lễ cao nhất và có những nhiệm vụ riêng quan đến sự thờ phượng và các công việc của dân sự. Mỗi năm một lần, vào ngày Đại lễ Chuộc tội, ông vào nơi chí thánh để cầu thay cho dân sự.

Các Ra-bi, Người Sa-đu-sê Và Người Pha-ri-si
  • Ra-bi: Có nghĩa là "thầy dạy", là một danh từ tôn kính được dùng cho những người dạy dỗ thuộc linh (Ma-thi-ơ 23:7). Họ xuất hiện vào thế kỷ thứ nhất trước công nguyên. Chúa Jesus đã nói với các môn đồ Ngài rằng đừng gọi ai là chủ, vì các ra-bi đã trở thành như là chủ đối với dân chúng.
  • Người Sa-đu-sê: Là một đảng tôn giáo và chính trị, họ phát khởi khoảng một thế kỷ rưỡi trước công nguyên. Họ thuộc giai cấp cao của các thầy tế lễ, giàu có nhưng rất thế gian, và họ đã đào tạo ra nhiều thầy tế lễ thượng phẩm. Họ tin nơi sự thông giải nguyên văn (theo nghĩa đen) sách Torah, họ bác bỏ luật khẩu truyền và niềm tin nơi các thiên sứ, cũng như sự sống lại của thân thể. Họ là những người yêu nước trung thành với La Mã.
  • Người Pha-ri-si: Là một đảng sùng đạo và hầu hết các thầy thông giáo và các ra-bi thuộc về hàng ngũ này. Họ sốt sắng đối với sách Torah nhưng họ cảm thấy cần có một luật pháp khẩu truyền. Họ chống đối phái Sa-đu-sê vì họ tin nơi sự hiện đến của Đấng Mê-si, sự sống lại và sự phán xét sau cùng. Chúa Jesus thường chỉ trích họ vì sự giả hình của họ.
Những Tập Tục Thiêng Liêng

Sinh Tế Và Của Lễ

Môi-se đã khai triển một hệ thống tỉ mỉ về việc dâng sinh tế bằng thú vật và các của lễ bằng ngũ cốc (của lễ chay). Với việc dâng sinh tế, dân sự phải ăn năn. Huyết được rưới đều đặn trong nơi thánh để chuộc tội. Mỗi ngày, sự thờ phượng và các của lễ tạ ơn được dâng lên.

Sự Cầu Nguyện Và Hộp Kinh (Phylacteries)

Khoảng từ thế kỷ thứ hai trước công nguyên, mọi người nam Do Thái đều mang hộp kinh trong buổi cầu nguyện ban sáng. Đây là những hộp da nhỏ chứa bốn khúc Kinh Thánh trích từ Cựu Ước (Xuất Ê-díp-tô ký 13:1-10, 11-16; Phục truyền luật lệ ký 6:4-9 và 11:13-21). Một hộp được đeo trên đầu và một hộp khác đeo bên cánh tay trái.

Phép Cắt Bì Và Giao Ước

Phép cắt bì là một dấu hiệu bề ngoài của giao ước giữa Đức Chúa Trời và Áp-ra-ham. Được thực hiện vào ngày thứ tám sau khi sinh ra đối với mỗi bé trai, nó nhắc cho người Do Thái nhớ đến sự kêu gọi thánh của họ.

Con Của Điều Răn

Khi một bé trai Do Thái được mười ba tuổi, nó được xem là một người đàn ông một cách có kỹ thuật và được dạy bảo về niềm tin và ngôn ngữ của người Hê-bơ-rơ. Sau đó, cậu bé trải qua một nghi lễ khởi đầu là Bar Mitzvah, nghĩa là "Con Trai Của Điều Răn". Vào dịp đó, cậu bé đọc Kinh Thánh tại nhà hội và có thể đọc một diễn văn. Cha mẹ cậu sẽ tổ chức một lễ hội, trong đó cậu nhận được quà tặng của bạn hữu mình.

Những Kỳ Lễ Và Ngày Thánh

Những ngày lễ để kỷ niệm các biến cố quan trọng trong lịch sử là một yếu tố đoàn kết trong một quốc gia. Người Do Thái kính yêu lịch sử của mình và họ tuân giữ những ngày lễ thánh. Ngày Sa-bát là chính nền tảng của đức tin Do Thái giáo. Không những dân Y-sơ-ra-ên giữ ngày Sa-bát, mà ngày Sa-bát cũng giữ dân Y-sơ-ra-ên nữa. Đó là ngày thờ phượng, ngày mà Đức Chúa Trời yên nghỉ công việc sáng tạo của Ngài. Nó bắt đầu từ lúc mặt trời lặn của ngày thứ sáu và chấm dứt vào lúc mặt trời lặn vào ngày thứ bảy.

Những ngày lễ hội và ngày nghỉ khác của dân Do Thái là:
  • Lễ Pesach (Lễ Vượt Qua): Bắt đầu vào ngày 15 tháng Ni-san, tức giữa tháng Ba và tháng Tư dương lịch. Nó là một sự tưởng nhớ việc xuất hành của dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập, tức là ngày sinh nhật của dân Y-sơ-ra-ên. Kỳ lễ này kéo dài tám ngày.
  • Lễ Shavuot (Lễ Ngũ Tuần): Được tổ chức vào ngày thứ năm mươi sau lễ Vượt qua, trong tháng Si-van. Nó kỷ niệm mùa gặt ngũ cốc và việc ban bố luật pháp tại núi Si-nai.
  • Lễ Rosh Hashanah (Ngày Tết dân sự): Được tổ chức vào ngày thứ nhất và ngày thứ nhì của tháng Tishri, tức Tháng Chín hoặc Tháng Mười dương lịch.
  • Lễ Yom Kippur (Ngày Đại lễ Chuộc Tội): Được tổ chức vào ngày mồng mười tháng Tishri, đó là ngày thánh mà thầy tế lễ thượng phẩm vào nơi chí thánh.
  • Lễ Sukkoth (Lễ Lều Tạm): Được tổ chức vào ngày 15 tháng Tishri. Người Do Thái ở trong các lều hay trại để tưởng nhớ kinh nghiệm của dân Y-sơ-ra-ên trong đồng vắng vào thời Xuất Hành.
  • Lễ Hanukkah (Ngày Lễ Đèn): Được tổ chức vào ngày tháng Kít-lơ (Kislev), tức tháng mười hai dương lịch. Nó tượng trưng cho lễ Tái Khánh thành đền thờ vào năm 165 T.C, sau khi đền thờ đã bị vua hung ác Seleucid là Antiochus Epiphanes làm ô uế. Trong kỳ lễ này, người Do Thái đốt đèn trong tám ngày.
  • Lễ Purim (Phu-rim): Lễ Rút thăm để kỷ niệm sự cầu thay của Hoàng hậu Ê-xơ-tê cho dân Do Thái tại Ba-Tư. Nó được tổ chức vào tháng A-đa, tức giữa tháng hai và tháng ba dương lịch.
Mục Tiêu 5: Tội Lỗi, Sự Cứu Rỗi Và Số Phận Trong Do Thái Giáo

Con Người - Sự Thiện Lành Cố Hữu

Người Hê-bơ-rơ tin nơi đức tính cố hữu (có sẵn) và sự thiện lành của con người. Con người được dựng nên theo ảnh tượng của Đức Chúa Trời và không phải là một nô lệ như dân ngoại đã tin. Họ phủ nhận ý tưởng về sự trụy lạc hoàn toàn, nghĩa là, nhân loại được sinh ra trong tội lỗi lưu truyền từ A-đam. Ngoài ra, theo thần đạo học Do Thái, con người phạm những hành động tội lỗi cá nhân và phải đền tội cho những hành động đó.

Con Người - Cứu Tinh Của Chính Mình

Theo Do Thái giáo, vì con người phạm tội lỗi của riêng mình nên người đó phải đền tội. Họ không cần Cứu Chúa. Sự cứu rỗi vốn ở trong chính họ. Phải tự xét mình, xưng tội, ăn năn và cầu nguyện. Rồi người đó phải quyết tâm không tái phạm những tội lỗi của quá khứ và phải làm việc lành. Vào ngày Đại Lễ Chuộc Tội, tội lỗi của cả dân sự đều được tha thứ và được cất bỏ.

Tội Lỗi - Sự Vi Phạm Luật Pháp

Đối với người Do Thái, đạo đức tốt có nghĩa nhiều hơn là việc làm đúng theo bộ luật của xã hội. Nó liên can đến động cơ trong lòng. Chính nền tảng của Do Thái là giao ước lập với Đức Giê-hô-va, theo đó Đức Chúa Trời và con người là những phần tử trong một cuộc đối thoại và tình bạn hữu suốt đời. Luật pháp định nghĩa giao ước và bày tỏ cách Đức Chúa Trời muốn mỗi người phải sống. Tội lỗi là sự vi phạm giao ước và Đức Chúa Trời kêu gọi mỗi người quay về với Luật Pháp, vì Đức Chúa Trời là Luật Pháp của Ngài.

Tương Lai - Một Cảm Thức Về Số Phận

Lịch sử của dân Do Thái là đang nhìn về phía trước. Nhiều tôn giáo khác nhìn lại quá khứ như thời đại vàng son của họ, đó là lúc các thần thiết lập công việc của họ. Một số khác xem lịch sử như là một chu kỳ lặp đi lặp lại mãi mãi. Người Do Thái nhìn về tương lai, hướng về thời đại hoàng kim là lúc Đức Chúa Trời sẽ lập vương quốc của Ngài với Đấng Mê-si là người cai trị vương quốc đó. Lúc đó người Do Thái sẽ là ánh sáng cho thế gian, kẻ chết sẽ được sống lại và kẻ ác sẽ bị phán xét.

Mục Tiêu 6: Các Sự Truyền Thông Của Do Thái Giáo

Theo như luật pháp và các tiên tri đã được đặt vào trong sách vở, người Do Thái được nhận biết như là dân tộc kinh sách. Thánh Kinh của họ giống y như phần Cựu Ước của Kinh Thánh Cơ Đốc Giáo, nghĩa là một bộ sưu tập gồm ba mươi chín sách. Trong Thánh Kinh Do Thái, một sách được nối kết lại với nhau tạo thành một toàn thể gồm hai mươi hai sách, theo hai mươi hai ký tự trong mẫu tự Hê-bơ-rơ. Chúng được viết bằng tay trên các cuộn giấy do một số tác giả khác nhau. Vào thời của Đấng Christ, chúng được phân thành ba nhóm chính: Nhóm Luật Pháp, Nhóm Tiên Tri và Nhóm Văn Phẩm hay Thi Thiên (Lu-ca 24:44). Đó là:
  • Nhóm Luật Pháp (Torah): Luật pháp là Torah, năm cuốn sách đầu (Tiếng Hy Lạp gọi là Ngũ Kinh - Pentateuch). Năm sách đó là: Sáng thế ký, Xuất Ê-díp-tô ký, Lê-vi ký, Dân số ký, và Phục truyền luật lệ ký. Người ta tin rằng Môi-se đã viết các sách đó, vì chúng thường được đề cập đến như là "Các sách của Môi-se".
  • Nhóm Tiên Tri (Nebhiim): Nhóm tiên tri gồm bốn sách: Giô-suê, Các quan xét, I và II Sa-mu-ên, I và II Các Vua. Nhóm hậu Tiên tri gồm bốn sách: Ê-sai, Giê-rê-mi, Ê-xê-chi-ên và sách Mười hai (tiểu tiên tri).
  • Nhóm Văn phẩm (Kethubhim): Các sách văn thơ: Thi Thiên, Châm ngôn và Gióp. Các sách lễ hội, Megilloth (những cuộn sách ngắn được đọc vào các kỳ lễ): Nhã Ca, Ru-tơ, Ca thương, Ê-xơ-tê và Truyền đạo. Các sách Lịch sử: Đa-ni-ên, Ê-xơ-ra, Nê-hê-mi và I và II Sử ký.
Luật Lệ Truyền Khẩu - Sách Talmud

Trong thời kỳ giữa hai giao ước, sách Talmud, tức luật pháp truyền khẩu dần dần được phát triển và thu gọn thành sách. Nó trở thành quan trọng đối với Do Thái giáo, chỉ đứng hàng thứ nhì sau sách Torah mà thôi. Có hai sách Talmud, được đặt tên theo vùng mà nó phát xuất: Sách của Pa-lét-tin (thế kỷ thứ tư) và sách của Ba-by-lôn (thế kỷ thứ sáu sau công nguyên). Sách Talmud gồm hai phần lớn: phần Mishnah nghĩa là "sự nhắc lại", bao gồm các lời truyền khẩu được chép ra khoảng năm 200 S.C. Phần Gemara gồm các lời truyền khẩu theo sau đó, với các lời thông giải luật pháp, mãi cho đến thế kỷ thứ sáu sau công nguyên. Sách Talmud bày tỏ một dân tộc tìm kiếm Đức Chúa Trời và nhấn mạnh cả sự trông đợi Đấng Mê-si lẫn sự sống lại.

Mục Tiêu 7: Sự Phát Triển Của Do Thái Giáo

Đấu Tranh Để Sinh Tồn

Sau khi thành Giê-ru-sa-lem bị hủy phá vào năm 70 S.C, ban lãnh đạo người Do Thái, là những người còn sống sót, dời đến Jamnia trên bờ biển. Một trường học và một tòa công luận đã được thành lập. Dần dần, các cộng đoàn Do Thái được khôi phục tại Ai-cập, Ba Tư, Pa-lét-tin và ngay cả tại Giê-ru-sa-lem nữa. Họ bị những người cai trị Byzantine loại bỏ vào những năm 500. Vào thế kỷ thứ bảy, đạo quân Hồi giáo chinh phục xứ Pa-lét-tin, Ai Cập và Tây Ban Nha; người Do Thái dưới sự cai trị của người Hồi Giáo có được điều kiện sinh sống khá hơn. Họ tấn bộ trong lãnh vực toán học, thiên văn học, triết học và hóa học.

Tại Tây Ban Nha, thế kỷ thứ chín và thứ mười đã trở thành thời đại hoàng kim của thành tựu văn học. Do Thái giáo Sephardic (thuộc Tây Ban Nha) sử dụng một thổ ngữ – Tây Ban Nha – Do Thái đã phát triển tại Tây Ban Nha, với một nhà hội và các lễ nghi. Tại Âu Châu, Do Thái giáo Ashkenazi (thuộc Đức) đã phát triển với thổ ngữ Đức – Do Thái của nó, gọi là Yiddish. Vào thế kỷ mười một và mười hai, các đoàn Thập tự quân, trên đường đến Cứu Thánh địa ra khỏi tay người Hồi giáo, đã tàn sát nhiều người Do Thái và phóng hỏa các nhà hội của họ. Người Do Thái bị vu cáo là nguyên do của Nạn Dịch Đen năm 1348 mà nó đã giết hại một phần ba dân số Âu Châu. Tại tôn giáo pháp đình Tây Ban Nha năm 1492, hằng ngàn người đã bị giết và hằng trăm người phải chạy trốn. Nhưng bất cứ nơi nào họ đi đến, họ đều có một tác động lớn trên xã hội và đã sinh ra các học giả Thánh Kinh Do Thái nổi tiếng.

Vào thế kỷ mười sáu, Martin Luther khởi xướng phong trào cải chánh, vào lúc đầu ông ưu đãi người Do Thái; tuy nhiên, về sau ông đã thay đổi và rao giảng nghịch cùng họ. Trong cuộc phản cải chánh của giáo hội Công giáo, người Do Thái trở thành nạn nhân của một tôn giáo pháp đình khác. Tại Rô-ma và các thành phố khác, người Do Thái bị ép buộc dọn vào các ghettoes (khu tập trung) là những nơi chật chội, bẩn thỉu, thiếu ánh sáng mặt trời trong các vùng tệ nhất của thành phố. Họ bị nhốt trong các vách tường, khóa kín cổng và ở trong một sự giới nghiêm cưỡng bức. Người Do Thái phải mang một dấu hiệu màu vàng để nhận diện.

Tại Ba Lan, năm 1648, có những cuộc tàn sát tập thể người Do Thái được biết với cái tên Pogroms. Những ai không thể chạy trốn đều bị giết, và có gần nửa triệu người đã bị chết. Lời bào chữa cho rằng người Do Thái có tài thì được giới cầm quyền sử dụng và họ là những người cho vay tiền nên làm mất lòng các giai cấp thấp hơn. Vào những năm 1800, Do Thái giáo đã được công nhận là một tôn giáo ở Anh, ở Đức và ở Mỹ và đã có những cuộc đàm luận về quyền bình đẳng. Nhưng tại nước Nga dưới chế độ Nga hoàng, sau cuộc ám sát Nga hoàng Alexander II vào năm 1881, những cuộc tàn sát tập thể tệ hại nhất đã nổ ra để chống lại người Do Thái mà nó khiến cho đông đảo người phải ra đi đến châu Mỹ.

Sau đó, như là hậu quả của sự phân biệt chủng tộc giữa người Sê-mít và người Aryan, một làn sóng bài Sê-mít đã quét qua châu Âu. Vào thập niên 1930, một phong trào đã bắt đầu tại Đức do Adolf Hitler dẫn đầu nhằm tiêu diệt người Do Thái. Từ năm 1933 đến năm 1945 có khoảng sáu triệu người Do Thái đã bị giết – một phần ba số người Do Thái trên thế giới – và dân số của người Do Thái hầu như đã không còn hiện hữu ở Âu châu. Sự tiêu diệt người Do Thái của Đức là độc nhất trong lịch sử. Thế giới bị rúng động và nhiều người tự hỏi tại sao Đức Chúa Trời lại cho phép sự đau khổ dường ấy xảy ra cho dân sự của Ngài? Nếu đọc kỹ Phục truyền luật lệ ký chương 28, thì chúng ta sẽ được soi sáng. Nó cho chúng ta một chút ý niệm tại sao những biến cố này xảy ra. Sự chối bỏ Chúa Jesus của người Do Thái cũng soi sáng về vấn đề này. Tuy nhiên, như nhiều người đã nói, toàn bộ câu chuyện về sự toàn thiêu hủy (holocaust) vẫn chưa được nói hết.

Một Quê Hương Quốc Gia Cho Người Do Thái

Một ký giả Do Thái, ông Theodore Herzl, đã nhận thức rằng người Do Thái không được đối xử tử tế cho tới khi nào họ tìm được một mảnh đất cho riêng họ. Vào những năm đầu của thập niên 1900, ông và những người khác đã khởi phát một phong trào được gọi là phong trào Si-ôn (hay chủ nghĩa Si-ôn) để biện minh cho chính nghĩa của một quốc gia Do Thái. Họ sẽ tìm kiếm ở đâu một mảnh đất như vậy? Không có chỗ nào khác trên thế giới là gần gũi với trái tim của người Do Thái hơn là vùng đất Pa-lét-tin.

Sau đệ nhất thế chiến, Hội quốc liên (tiền thân của Liên Hiệp Quốc) đã ủy nhiệm cho Anh quốc cai quản vùng Pa-lét-tin. Vào năm 1917, những người trong phong trào Si-ôn dưới sự lãnh đạo của Chaim Weizmann đã thuyết phục chính phủ Anh cấp cho người Do Thái một quê hương trong vùng Pa-lét-tin. Thư ký bộ ngoại giao, Huân tước Balfour, đã ra một công bố nổi danh được biết dưới tên "Tuyên ngôn Balfour": "Chính phủ của ông ưu ái xem xét việc thành lập một quê hương quốc gia trong vùng Pa-lét-tin cho dân Do Thái". Người Ả-rập, họ đã ở trong vùng đất này trải qua nhiều thế hệ, chống đối lại sự tràn vào của người Do Thái. Tuy nhiên, người Do Thái đã định cư tại xứ Pa-lét-tin. Vào khoảng giữa thập niên 1930, người Do Thái ở châu Âu bắt đầu xem vùng Pa-lét-tin là một nơi tị nạn để tránh khỏi dân Đức, nhưng cuộc di dân đã bị hạn chế vì sự công phẫn sôi sục của người Ả-rập.

Vì sự toàn thiêu hủy của thế chiến thứ II, đã có một sự thay đổi trong thái độ và Liên Hiệp Quốc đã bỏ phiếu vào năm 1947, phân chia vùng Pa-lét-tin thành các nước Do Thái và Ả-rập. Ngày 14 tháng 5 năm 1948, lá cờ Anh quốc đã được hạ xuống và David Ben Gurion công bố thành lập Y-sơ-ra-ên là một quốc gia độc lập. Nó có một dân số khoảng sáu trăm ngàn người. Ngay lập tức, quốc gia mới này bị năm quốc gia lân cận tấn công nhưng nước Y-sơ-ra-ên đã được thoát khỏi các cuộc tấn công và được ghi nhận rằng nó có thể và sẽ bảo vệ những lợi ích của nó. Vào tháng mười năm 1956, chiến tranh lại bùng nổ khi Ai-cập tấn công Y-sơ-ra-ên. Trong cuộc chiến tranh này, Y-sơ-ra-ên chiếm được toàn bộ bán đảo Si-nai và mở rộng lãnh thổ thêm nhiều dưới sự kiểm soát của mình. Trong cuộc chiến tranh 1967, cổ thành Giê-ru-sa-lem lọt vào tay Y-sơ-ra-ên, người Do Thái đã nhận lại được nơi thờ phượng thiêng liêng nhất của họ, đó là bức tường Than khóc, và nhiều người đã khóc lóc cũng như nhảy nhót vui mừng. Trong cuộc chiến tranh Yom Kippur, vào ngày Đại lễ chuộc tội năm 1973, Y-sơ-ra-ên bị liên minh các nước Ả-rập tấn công, nhưng những đợt tấn công này đã bị đẩy lùi, để lại vùng biên giới hầu như nguyên cũ.

Trong những năm kế tiếp, nhiều cuộc chiến đã diễn ra, mỗi bên đều cố gắng tập trung ý kiến của thế giới về sự hợp lý về sự đòi hỏi của mình đối với vùng đất của nước Y-sơ-ra-ên. Trong khi đó, dân số của nước Y-sơ-ra-ên đã lên đến hơn ba triệu người, còn dân số người Do Thái trên thế giới lên đến hơn mười lăm triệu người. Giữa lúc cuộc đối đầu đang tiếp diễn, một người có thể nhận định rằng lời tiên tri trong Kinh Thánh đã và đang được ứng nghiệm bởi thế hệ này của xứ đó và bởi sự tái lập quốc gia Y-sơ-ra-ên. Nó chẳng phi Kinh Thánh gì cả để dự báo về sự hiện đến của Chúa Jesus Christ, Ngài sẽ đem lại giải pháp vĩnh viễn cho cuộc khủng hoảng ở Trung Đông. Trong tiến trình đó, nhân dân Y-sơ-ra-ên quay lại với Ngài.

Những Nhánh Do Thái Giáo Ngày Nay

Câu hỏi thường được nêu lên là: Một người Do Thái là ai? Một người Do Thái là một người Do Thái do sự sinh ra, hay là do sự theo đạo? Nhiều sự thay đổi và nhiều nền văn hóa đã xảy ra cho Do Thái giáo do sự hôn nhân tạp chủng, do sự trở lại đạo và do sự tản lạc. Triết lý của Do Thái giáo đã thay đổi và đã phát triển thành ba dạng Do Thái giáo: Do Thái giáo chính thống, Do Thái giáo cải cách và Do Thái giáo bảo thủ.
  • Do Thái giáo chính thống: Là những người giữ theo truyền thống, vâng giữ nghiêm túc luật Torah, sách Talmud và thẩm quyền của các ra-bi. Họ tin rằng Đấng Mê-si sẽ đến và tìm kiếm một vùng đất quê hương Do Thái.
  • Do Thái giáo cải cách: Là những người phóng khoáng. Họ không trông đợi Đấng Mê-si hay tìm kiếm một vùng đất quê hương Do Thái. Thay vào đó, họ gọi Y-sơ-ra-ên là một dân tộc mê-si. Việc chấp nhận luật Torah tùy vào sự lựa chọn cá nhân.
  • Do Thái giáo bảo thủ: Giữ lập trường ở giữa nhánh Do Thái chính thống và Do Thái cải cách. Họ cũng loại bỏ một vùng đất quê hương của người Do Thái nhưng lại giữ luật Torah và các truyền thống.
Chỉ với lịch sử Do Thái ở trong đầu thì một người có thể tạo cái cảm thức về sự gìn giữ nước Y-sơ-ra-ên một cách hùng mạnh tiếp tục tác động trên những người Do Thái ở mọi nơi khác. Đối với họ, sự lựa chọn của Đức Chúa Trời đối với dân sự Ngài là một điều vĩnh viễn. "Ngài là Đức Chúa Trời giữ giao ước đến ngàn đời". Niềm tin quyết này là lý do để dân Do Thái phải chịu mang dấu hiệu sĩ nhục màu vàng và thậm chí bị thiêu hủy hoàn toàn. Đây là lý do tại sao họ đã nổi bật trong thời đại này.

Mục Tiêu 8: Đánh Giá Về Do Thái Giáo

Những Điểm Mạnh Của Do Thái Giáo
  1. Trong Do Thái giáo, các tín đồ giữ niềm xác tín về sự hiện hữu của Chân Thần và một sự thờ hình tượng.
  2. Người Do Thái có một sự đoàn kết dân tộc căn bản thông qua một lịch sử lâu dài mà người ta tin đó là sự hiệp một của Đức Chúa Trời.
  3. Dân Do Thái có một đức tin không rúng động nơi Kinh Thánh như là được Đức Chúa Trời hà hơi (soi dẫn).
  4. Sự tôn kính tổ phụ của người Do Thái không trở thành sự thờ lạy tổ tiên.
  5. Những nguyên tắc của luật Torah là cơ sở cho nhiều tiêu chuẩn luân lý và đạo đức của phần còn lại của thế giới.
  6. Người Do Thái trân trọng mọi sinh mạng và họ tin rằng toàn thể nhân loại được tạo dựng theo hình ảnh của Đức Chúa Trời.
  7. Người Do Thái có một bổn phận luân lý và xã hội đối với toàn thể nhân loại.
  8. Người Do Thái vững bền và đoàn kết trong sự bắt bớ.
  9. Người Do Thái chính thống giữ niềm hi vọng về Đấng Mê-si ở một thời đại công chính và niềm hi vọng về sự sống lại của kẻ chết.
Những Điểm Yếu Của Do Thái Giáo
  1. Người Do Thái phủ nhận Chúa Jesus Christ là Đấng Mê-si và là Con Đức Chúa Trời.
  2. Người Do Thái không dự liệu gì về một sự cứu rỗi nhờ ân điển hiện tại hay một sự cầu thay của một Đấng Trung Bảo hằng sống.
  3. Người Do Thái nhấn mạnh đến việc làm như là một phương tiện để được sự cứu rỗi cá nhân.
  4. Do Thái giáo xu hướng mạnh mẽ về chủ nghĩa luật pháp và chủ nghĩa hình thức.
  5. Người Do Thái không công nhận bản chất vốn xấu của con người, tội lỗi được quan niệm chỉ là sự vi phạm luật pháp.
  6. Người Do Thái nhấn mạnh một cách không đúng về sự ưu ái của Đức Chúa Trời đối với dân Y-sơ-ra-ên.
Định Giá Do Thái Giáo Theo Quan Điểm Cơ Đốc Giáo

Giờ đây chúng ta sẽ đánh giá một số niềm tin của Do Thái giáo theo ánh sáng của những nguyên tắc của Kinh Thánh và lưu ý đến những nhịp cầu dẫn đến Đấng Christ và sự sống đời đời.

Đề Tài: Hữu Thể Tối Cao
  • Niềm Tin Của Do Thái Giáo: Người Do Thái có một niềm tin vững chắc nơi Đức Giê-hô-va, tức Đức Chúa Trời của sự sáng tạo. Ngài là một Đức Chúa Trời có thân vị và mọi dân tộc đều là con cái của Ngài. Ngài đã sáng lập giao ước đời đời với dân sự Ngài và họ sẽ được cứu rỗi lúc chung cuộc và được sống trong vương quốc công bình của Ngài.
  • Nhịp Cầu Dẫn Đến Đức Tin: Chúng ta là con cái của cùng Đức Chúa Trời do sự sáng tạo. Nhưng con cái do sự sáng tạo không có nghĩa là con cái do sự cứu rỗi. Đức Chúa Trời đã ban cho con người quyền lựa chọn, và vì sự tương giao với Đức Chúa Trời. Chúng ta không vào Thiên đàng một cách tự động vì Đức Chúa Trời đã tạo dựng chúng ta, chúng ta được cứu chỉ bởi sự tiếp nhận Con Ngài là Chúa Jesus Christ.
Đề Tài: Bộ Luật Luân Lý
  • Niềm Tin Của Do Thái Giáo: Bộ luật luân lý của Do Thái giáo được ban bố trong mười điều răn. Đó là tiêu chuẩn của đức tin và cuộc sống của Do Thái giáo. Đức Chúa Trời là luật pháp của Ngài, vì vậy, để được cứu, một người phải tuân giữ Torah, vì vâng giữ Torah tức là vâng phục Đức Chúa Trời.
  • Nhịp Cầu Dẫn Đến Đức Tin: Nhờ luật pháp mà biết tội lỗi, và tội lỗi dẫn đến sự chết. Luật pháp không thể cứu bất cứ ai. Không ai có thể khoe mình rằng được cứu nhờ việc giữ luật pháp, vì không ai có thể giữ luật pháp! Không có người nào từng giữ vẹn luật pháp, ngoại trừ Chúa Jesus! Mọi người đều cần một Đấng cứu giúp mà Ngài có thể tha thứ tội của họ và ban cho họ sự sống. Đấng đó là Chúa Jesus.
Đề Tài: Con Người, Tội Lỗi Và Sự Cứu Rỗi
  • Niềm Tin Của Do Thái Giáo: Quan niệm của người Do Thái cho rằng con người có sẵn sự thiện lành vì họ được dựng nên theo hình ảnh của Đức Chúa Trời. Người Do Thái phủ nhận nguyên tội, con người làm hành động tội lỗi và chỉ chịu trách nhiệm về tội lỗi của chính mình mà thôi. Với việc dâng sinh tế, người dâng phải có một tấm lòng ăn năn và có đức tin nơi Đức Chúa Trời. Nhưng vì việc dâng sinh tế đã chấm dứt, con người phải đền bồi tội lỗi của chính mình và tự cứu mình bằng việc làm lành.
  • Nhịp Cầu Dẫn Đến Đức Tin: Con người được tạo dựng trong sự thiện lành, nhưng họ đã bất tuân mạng lịnh của Đức Chúa Trời và đã đem tội lỗi vào thế gian. Bây giờ họ sống trong môi trường tội lỗi và dễ phạm tội và làm những việc tội lỗi. Dưới thời Môi-se, một người dân sinh tế đặt đức tin mình nơi Đức Chúa Trời để tẩy sạch và tin một sinh tế toàn vẹn sắp đến. "Những tế lễ đó chẳng qua là mỗi năm nhắc cho nhớ lại tội lỗi" (Hê-bơ-rơ 10:3). Nhưng tạ ơn Đức Chúa Trời, Ngài đã sắm sẵn một sinh tế toàn vẹn. Chúa Jesus đã gánh lấy tội lỗi của cả nhân loại trên cây thập tự giá, là bàn thờ dâng sinh tế của Ngài. Đức tin đặt nơi công tác đã hoàn tất của Ngài bôi xóa người tín đồ khỏi tội lỗi. Việc lành không thể cất tội lỗi được, vì tội lỗi dẫn đến sự chết.
Đề Tài: Tuyển Dân Của Đức Chúa Trời
  • Niềm Tin Của Do Thái Giáo: Niềm tin của người Do Thái cho rằng họ là tuyển dân của Đức Chúa Trời còn rất mạnh mẽ. Ngài sẽ đến với họ, bênh vực họ và lập vương quốc Mê-si của Ngài giữa vòng họ. Người Do Thái là một dân tộc được đặc ân và Đức Chúa Trời sẽ ban cho họ những ân huệ đặt biệt.
  • Nhịp Cầu Dẫn Đến Đức Tin Nơi Đấng Christ: Thái độ độc hữu này không làm vừa lòng Đức Chúa Trời. Vì Ngài muốn dân Do Thái làm sứ giả của Ngài và làm một nguồn phước cho toàn thế gian. Vì họ đã chối bỏ Con Đức Chúa Trời nên Đức Chúa Trời đã từ chối họ như là một quốc gia. Giờ đây, họ phải tiếp nhận Đấng Christ trên cơ sở từng người một cũng như những dân tộc khác. Các tín đồ giờ đây là tuyển dân của Ngài, là con cái của Áp-ra-ham và là kẻ kế tự lời hứa vì họ đã lấy đức tin tiếp nhận Chúa Jesus Christ.
Đề Tài: Số Phận Tương Lai
  • Niềm Tin Của Do Thái Giáo: Theo Do Thái giáo, có một hi vọng đời đời về Đấng Mê-si, của một thời đại hoàng kim và của sự cứu rỗi. Tội lỗi sẽ bị chinh phục và người ta sẽ sống trong một thế giới hòa bình. Sẽ có một sự sống lại của kẻ chết để sống trong thời đại công bình này. Nhưng cũng có một sự phán xét dành cho kẻ làm ác và những người khước từ lời hứa của Đức Chúa Trời.
  • Nhịp Cầu Dẫn Đến Đức Tin Nơi Đấng Christ: Việc Chúa Jesus đến trần gian là một sự kiện lịch sử, nhưng người Do Thái khước từ Ngài là Đấng Mê-si và Đấng Cứu Thế, vì họ tin rằng Ngài đã chết như một người tử đạo. Người Cơ Đốc tin rằng Ngài phải chết để trở thành Cứu Chúa. Khi Đức Chúa Trời khiến Ngài từ kẻ chết sống lại thì điều đó đã chứng minh Thần tính của Ngài. Giờ đây, Ngài đang ở trên thiên đàng cầu thay cho chúng ta. Tuy nhiên, Ngài sẽ trở lại và lập vương quốc của Ngài trên đất. Người Do Thái và người tín đồ, là những người được chuộc bởi huyết Ngài, sẽ cùng trị vì với Ngài.
Sign in to Google to save your progress. Learn more
Email *

1. Từ ngữ “Do Thái giáo” (Judaism) xuất phát từ đâu?

*
5 points

2. Ai là tổ phụ của dân Do Thái?

*
5 points

3. Kinh sách quan trọng nhất của Do Thái giáo là gì?

*
5 points

4. Ai là người đã dẫn dân Israel ra khỏi Ai Cập?

*
5 points

5. Mười Điều Răn được ban cho ai?

*
5 points

6. Người Do Thái tin rằng họ là gì của Đức Chúa Trời?

*
5 points

7. Đền thờ đầu tiên của người Do Thái do ai xây dựng?

*
5 points

8. Ngày Sa-bát của người Do Thái rơi vào ngày nào?

*
5 points

9. Người Do Thái gọi Đức Chúa Trời bằng danh xưng nào?

*
5 points

10. Sự kiện nào đánh dấu dân Israel rời khỏi Ai Cập?

*
5 points

11. Nơi linh thiêng nhất đối với người Do Thái ngày nay là gì?

*
5 points

12. Người Do Thái sử dụng nghi lễ nào để đánh dấu giao ước với Đức Chúa Trời?

*
5 points

13. Người Do Thái giữ ngày lễ nào để kỷ niệm việc được giải phóng khỏi Ai Cập?

*
5 points

14. Ai là người kế vị Môi-se để dẫn dân Israel vào Đất Hứa?

*
5 points

15. Người Do Thái chính thống tin rằng ai sẽ đến để giải cứu họ?

*
5 points

16. Luật pháp Do Thái có bao nhiêu điều răn?

*
5 points

17. Người Do Thái tôn trọng nơi nào là trung tâm của sự thờ phượng?

*
5 points

18. Nhóm nào trong Do Thái giáo giữ truyền thống nghiêm ngặt nhất?

*
5 points

19. Sự kiện nào khiến người Do Thái bị phân tán khắp thế giới?

*
5 points

20. Hiện nay, quốc gia nào được xem là quê hương của người Do Thái?

*
5 points
Submit
Clear form
This content is neither created nor endorsed by Google.