Trong các tôn giáo trước mà chúng ta đã nghiên cứu, có sự hiểu biết hoặc hết lòng, hoặc một vị thần hay nhiều vị thần. Giờ đây, chúng ta đến với một tôn giáo không nhìn nhận sự tồn tại của một vị thần nào cả. Trong thực tế, Đức Phật đã cảm thấy rằng sẽ tự là tự phụ nếu cho rằng có một vị thần linh hiện hữu. Có điều này là một vị thần phải ở ngoài giới hạn sự hiểu biết của con người. Chúng ta có thể hỏi một cách hoàn toàn đúng rằng: "Có thể nào một niềm tin không nhìn nhận sự hiện hữu của bất cứ vị thần nào lại được xem là một tôn giáo không? Há đó không phải chỉ là một hệ thống luân lý hay một triết lý của Đông Phương hay sao?"
Tuy nhiên, Phật giáo vẫn là một tôn giáo. Trong thực tế, có hơn hai trăm năm mươi triệu người đi theo nó và là một trong những tôn giáo lớn của thế giới.
Trong khu vườn tôn giáo của thế giới, có một khu vực thuộc về Phật giáo. Nó là một trong những khu vực lớn và nó tự kiêu hãnh về sự kiện có trong nó, tất cả đều tốt đẹp. Không có cuộc sống nào là để đau khổ. Mọi người đều tử tế với nhau. Loại hoa được Phật giáo ưa chuộng là hoa sen, vì nó miêu tả cái địa vị mà con người phải nhận để bước vào trong sự trầm tư. Nhờ đó, họ có thể thành một bậc thánh, một người giúp đỡ hay là một cứu tinh của nhân loại.
Dàn Bài
- Làm quen với Phật giáo.
- Những niềm tin của Phật giáo.
- Những sự truyền thông của Phật giáo.
- Sự phát triển của Phật giáo.
- Đánh giá về Phật giáo.
Những Mục Tiêu Bài Học
Khi học xong bài này, bạn sẽ có thể:
- Định nghĩa được danh từ Phật giáo và nêu ra những địa điểm chính của Phật giáo.
- Nhận biết những Kinh sách quan trọng của Phật giáo.
- Thảo luận những niềm tin chính của Phật giáo.
- Đánh giá những điểm mạnh và những điểm yếu của Phật giáo và chỉ ra một số nhịp cầu giữa Phật giáo và Cơ Đốc giáo.
Sinh Hoạt Học Tập
- Hãy nghiên cứu bài học này theo những chỉ dẫn đã cho ở trong Bài học 1.
- Hãy viết những câu trả lời riêng của bạn cho các câu hỏi của bài học trước khi xem lời giải đáp ở cuối bài học này. Thủ tục này sẽ giúp bạn học tài liệu này nhanh chóng hơn.
- Để cho chắc chắn, hãy xem phần từ vựng để tìm biết nghĩa của bất cứ từ ngữ chìa khóa nào mà bạn chưa rõ nghĩa.
- Làm bài tự kiểm và kiểm tra câu trả lời của bạn.
Từ Ngữ Chìa Khóa
- Niết bàn
- Quang minh
- Thanh thản
- Tịnh diệt
- Tu hành
Khai Triển Bài Học
Mục Tiêu 1: Định nghĩa danh từ Phật giáo và chỉ ra những biến cố chính của cuộc đời người sáng lập ra nó
LÀM QUEN VỚI PHẬT GIÁOTrong lịch sử của nó trải qua mười lăm thế kỷ qua, Phật giáo đã là một trong những sức mạnh giáo hóa ở vùng Viễn Đông mà người ta từng biết. Nó mang lại những tư tưởng sâu đậm cho nền văn hóa của Trung Hoa vào đời nhà Đường ở thế kỷ thứ bảy đến thế kỷ thứ mười sau công nguyên. Nó đã tạo ra những thay đổi và những ảnh hưởng thuộc linh lớn nhất so với bất kỳ tôn giáo nào tại Nhật Bản, Thái Lan, Tây Tạng, Lào, Cam Bốt và Tích Lan. Tôn giáo này là gì? Tại sao nó có một ảnh hưởng rộng lớn ở vùng Viễn Đông và một sự cầm giữ vững chắc trên tín đồ của nó như vậy?
Định Nghĩa Phật GiáoTừ ngữ
Buddha (Phật đà hay gọi tắt là Phật) là một danh từ phạn ngữ có nghĩa là "Quang Minh" (được soi sáng) hay "giác ngộ". Nó đến từ chữ
Bodhati nghĩa là "Bậc được giác ngộ hay Đại giác". Phật giáo là sự dạy dỗ phát sinh do Phật Thích Ca. Nó chủ trương rằng sự đau khổ là thông thường cho nhân loại và rằng một người có thể tránh khỏi sự đau khổ bằng sự thanh tẩy để vào tình trạng
nirvana (niết bàn). Phật giáo vừa là một tôn giáo, vừa là một triết lý và nó có một vị trí quan trọng trong đời sống xã hội, văn hóa và thuộc linh của thế giới Đông Phương. Giống như những tôn giáo Đông Phương khác, Phật giáo có căn rễ trong Ấn độ giáo, nhưng nó đã phát vượng tại các nước không theo Ấn độ giáo hơn là tại chính nguyên quán của nó.
Những Người Sáng Lập Phật GiáoSiddharta Gautama (Tất Đạt Đa Thích Ca), người sáng lập ra Phật giáo, ra đời tại thành Kapilavastu (Ca-tì-la-vệ) thuộc thung lũng sông Hằng, ở vùng Nepal, Ấn độ, vào khoảng năm 563 T.C, cách đỉnh phía bắc của dãy núi Hi-mã-lạp sơn bốn mươi dặm (khoảng 65 km). Được sinh ra trong bộ lạc Aryan, con trai của vị rajah (tiểu vương) thuộc giai cấp Kshatriya, tức giai cấp chiến sĩ, ông thuộc về hoàng tộc. Một tuần lễ sau khi ông ra đời, mẹ của ông qua đời và ông được dì của mình nuôi dưỡng, bà cũng là kế mẫu của ông.
Người thanh niên họ Thích này được trưởng dưỡng trong sự xa hoa, sự hào nhoáng của một vị hoàng tử và hưởng thụ mọi thú vui thuộc thể. Ông có ba cung điện: một cái dùng để nghỉ trong mùa lạnh, một cái dùng để nghỉ trong mùa nóng và một cái dùng để nghỉ trong mùa mưa. Cũng như những cậu con trai nhà giàu khác đương thời, ông rất giỏi về các môn thể thao. Một lần nọ, trong một cuộc so tài bắn cung, ông đã chinh phục được lòng ái mộ của một thiếu nữ đẹp, con gái của một vị rajah. Họ kết hôn và sinh hạ được một con trai. Cha ông không muốn trở thành một người lãnh đạo tôn giáo nên người đã cách ly ông hoàn toàn với phương diện đen tối của đời sống. Người cố bản ngăn ông khỏi nhìn thấy bối cảnh: tử (chết), lão (già), bệnh và tu hành. Tuy nhiên, dần dần con trai của người đã khám phá ra bốn điều cấm đoán đó. Ông đã thấy một thi hài bị thối rữa, một bà già lưng còng, một người mắc bệnh ghê tởm và một nhà sư bình lặng đã từ bỏ thế giới để tu hành. Khi đó, chàng thanh niên họ Thích nhìn nhận rằng đời sống của hầu hết mọi người đều đưa đến một cuộc đời đầy khổ đau, và ông đã rất băn khoăn lo lắng.
Nan đề khổ đau đã khuấy rối vị hoàng tử trẻ tuổi này đến nỗi ông không thể nào tiếp tục sống trong cung điện với sự dễ chịu và dư dật. Một đêm kia, vào lúc hai mươi chín tuổi, ông đã quyết định bỏ gia đình để ra đi tìm câu giải đáp. Ông đã lên đường trong một chiếc xe ngựa của mình, băng mình vào đêm tối. Đi được một quãng đường, ông đã xuống tóc, cạo râu và gởi trả về chiếc xe ngựa cùng với người kỵ phu. Ông thay đổi y phục của một người ăn mày và tiếp tục lên đường bằng đôi chân.
Trước hết, Ngài Thích Ca tìm câu giải đáp cho mình nơi triết lý và ông theo học đạo để trở thành một vị guru (đạo sư). Nhưng không tìm được sự thỏa lòng, ông đã thử sống cuộc đời tu hành cùng với năm nhà sư khác, cuộc đời đó kéo dài trong sáu năm. Ông đã tìm kiếm mọi thứ khổ đau với hy vọng tìm được sự giải thoát. Có những lúc ông nằm ngủ trên giường gai, không tắm rửa và chỉ ăn một hạt gạo mỗi ngày. Ông ăn mặc quần áo rách rưới, xấu xí, ngồi trong chỗ đau đớn hằng giờ. Ông để cho các loài chấy rận sống trên cơ thể mình và đã trở thành rất gầy yếu. Ông nói rằng đã có một giai đoạn ông rờ vào bụng mình và cảm thấy như sờ được cái xương sống của mình. Nhưng mặc cho mọi nỗ lực tu hành của mình, ông đã thất bại trong việc tìm ra lời giải đáp cho mình.
Một ngày kia, ông bị ngất xỉu và rơi vào một dòng suối, nhưng nhờ nước lạnh của nó mà ông được hồi tỉnh. Ông nghĩ đến tình trạng của mình và nhìn nhận rằng con đường tu hành không làm cho thỏa mãn. Ông chổi dậy, tắm rửa và đi đến một quán ăn để ăn một bữa ăn thật ngon. Khi các bạn hữu ông thấy ông ăn uống, họ gọi ông là kẻ phản bội và lìa bỏ ông. Sau bữa ăn đó, ông đã lang thang đến bờ sông Nairanjara và ngồi dưới bóng cây bồ đề (bohhi - có nghĩa là "tri thức") để nghiền ngẫm. Người ta nói rằng ông ngồi ở đó 49 ngày, suy gẫm về những kinh nghiệm của mình. Sau cùng, một chân lý lóe sáng trong đầu ông và nó làm cho ông được thỏa mãn. Ông gọi đó là sự quang minh (đắc đạo) của mình. Từ đó trở đi, người ta gọi ông là
Phật, tức là một "người đắc đạo" (hay là người đã thông hiểu). Cây bồ đề đã trở thành thiêng liêng đối với người Phật tử, hầu như nó đầy ý nghĩa cũng như cây thập tự đối với người Cơ Đốc vậy.
Phật Thích Ca đã đi đến một kết luận căn bản. Sự khổ đau là nan đề cơ bản của con người và nguyên nhân cơ bản của khổ đau là dục vọng. Con người bị trói buộc vào vòng luân hồi vì cớ tanha tức là "hành động tham muốn" hưởng thú vui nhục dục. Khi một người chấm dứt lòng tham muốn (diệt dục) thì người đó được giác ngộ (hay đắc đạo) và sẵn sàng để nhập nirvana (niết bàn), nghĩa là "tịch diệt". Bước đầu tiên sau khi ông thành đạo là ông tìm đến với năm người bạn tu hành cũ của mình, là những người đã từ ông một cách khinh bỉ. Ông thuyết pháp cho họ trong một khu nuôi nai ở Benare (vườn Lộc giả) về
Tứ Diệu Đế (hay còn gọi là Tứ Thánh đế hoặc Tứ Chân đế). Các bạn của ông, thấy sự thay đổi nơi Phật Thích Ca, đã chấp nhận sự dạy dỗ của ông và thành lập ra
Sangha (Tăng già), hàng ngũ tu hành của đạo Phật.
Trong bốn mươi lăm năm tiếp theo, ông đã rày đây mai đó để thuyết pháp sứ điệp của mình và thâu góp môn đồ. Khi ông dạy rằng, con người ở bất cứ giai cấp nào, tính phái nào cũng đều có thể tìm thấy sự cứu rỗi, thì các phụ nữ cũng xin gia nhập. Vợ ông thuộc trong số những người đầu tiên xin gia nhập. Sau một thời gian chờ đợi, ông cho phép phụ nữ lập ra hàng ngũ ni-cô (hay sải). Các nhà sư cạo đầu, mặc áo cà sa vàng và mang bình bát để xin thức ăn (khuất thực).
Đức Phật qua đời năm tám mươi tuổi do ăn phải nấm độc. Những lời nói cuối cùng của ông là: "Hãy hết sức phấn đấu để tạo ra sự cứu rỗi cho mình". Các người theo ông tin rằng với sự chết, ông đã được nhập niết bàn, tức là sự chấm dứt cuối cùng mọi dục vọng.
Vị Trí Địa DưPhật giáo lan rộng nhanh chóng khắp Ấn độ sau khi Đức Phật qua đời, nhưng nó được hấp thụ vào Ấn độ giáo trong những thế kỷ sau đó. Nó đã trở thành mạnh nhất ở Sri Lanka (Tích Lan) và đã dựng được bàn đạp ở Miến Điện, Thái Lan, và Cam Bốt. Nó được mang vào Trung Hoa và đã trở thành một trong ba tôn giáo chính. Ngày nay, nó tồn tại ở Mông Cổ, Tây Tạng, Trung Hoa, Đại Hàn và Nhật Bản.
Những Sự Phân Nhánh Theo Lịch SửSau khi Ngài Thích Ca qua đời, Phật giáo bị phân thành hai trường phái tư tưởng lớn. Mỗi trường phái tự gọi mình là một
yana (Thừa), tức là "chiếc bè" mang con người băng qua biển đời để cập bến quang minh. Phái phía bắc được biết đến là
Mahayana (Đại thừa) hay "Chiếc Bè Lớn" mà người ta gọi là chiếc xe lớn (hay là một phương tiện lớn). Chữ Maha có nghĩa là "cao thượng" như trong tên
Mahatma Gandi, có nghĩa là một con người có tâm hồn cao thượng.
Trường phái ở phía nam được biết đến là Hinayana (Tiểu Thừa), nghĩa là "chiếc xe nhỏ". Tuy nhiên, các tín đồ của nó thích tự gọi mình là Phật Tử Theravada hơn, tức là "con đường của bậc trưởng thượng". Họ là tôn phái bảo thủ hơn, và tuyên bố rằng mình đi theo sự dạy dỗ nguyên thủy của chính Đức Phật. Phái Đại Thừa chống đối lời tuyên bố này bằng sự nhấn mạnh của họ về đời sống của Đức Phật hơn là về sự dạy dỗ của Ngài. Những địa điểm chính của Phật giáo Theravada là Sri Lanka, Miến Điện và vùng Đông Nam Á.
Mục Tiêu 2: Nhận biết những lời tuyên bố diễn tả niềm tin của người Phật giáo về hữu thể tối cao.
NHỮNG NIỀM TIN CỦA PHẬT GIÁOTrước tiên, giáo thuyết của Đức Thích Ca là một hệ thống luân lý hơn là một tôn giáo. Nhưng, trong khi nó lan rộng vào các quốc gia khác, giáo thuyết đó đã trở thành có định nghĩa và được phát triển thành một hệ thống các niềm tin.
Những Niềm Tin Được Thừa HưởngĐiều mà Phật Thích Ca đã học biết được qua sự trầm tư của ông dưới cây bồ đề phải được nghiên cứu trong cái bối cảnh của ông. Sự dạy dỗ của ông là một sự phản kháng chống lại Ấn độ giáo chính thống, nhưng ông đã giữ lại một số niềm tin của đạo ấy. Một là thuyết luân hồi, tức niềm tin cho rằng mọi đời sống đều trải qua vô số chu kỳ sinh, tử và đầu thai. Ông cũng duy trì giáo thuyết Karma (nghiệp quả), theo đó hành vi tốt được thưởng, hành vi xấu bị phạt trong cuộc đời tương lai. Tuy nhiên, ông chống đối hệ thống giai cấp, tin rằng mọi người đều bình đẳng.
Hữu Thể Tối CaoTheo người Phật giáo thì chẳng có Thượng Đế nào cả, vì một hữu thể như vậy vượt ngoài tầm hiểu biết của con người. Họ nói rằng, một người tự quản trị lấy số phận của mình. Một trong những điều trớ trêu của lịch sử là Đức Phật, người đã phủ nhận một hữu thể tối cao, lại được tôn thờ với nhiều tượng ảnh hơn bất cứ người nào khác trong lịch sử thế giới! Nhiều tước hiệu thần thánh đã được gán cho ông. Kinh sách của Phật giáo gọi ông là "Vua của các vua trong vũ trụ, là một người chiến thắng. Các vị thần và con người phải thờ phượng Ngài như là Đấng Chí Tôn, Đấng vượt cõi thời gian. Trong thế giới thần linh, không có ai bằng Ngài. Khi Ngài ra đời, kẻ mù được khôi phục thị giác, như thể vì muốn thấy vinh quang của Ngài. Kẻ điếc đã nhận lại khả năng nghe. Người câm đã nói được. Kẻ bị xiềng xích được giải thoát khỏi xiềng xích". Tuy nhiên, các Phật Tử nói rằng họ không có cầu nguyện cùng Đức Phật. Hằng triệu pho tượng dành cho ông để phô diễn sự thanh thản, sự khôn sáng và sự quang minh.Mục Tiêu 3: Nhận biết vai trò của những người thiêng liêng trong Phật giáo.
Những Tổ Chức Thiêng LiêngPhật giáo không có thẩm quyền chung, không có giáo hoàng, không có nghi lễ nhập đạo. Nó không đòi hỏi phải tuân theo một chuỗi qui luật hợp pháp nào như Do Thái Giáo đòi hỏi, cũng không cần có một hành động phục tùng nào như đã có trong Hồi giáo. Một người có thể trở thành một Phật Tử chỉ bằng việc thực hành các nguyên tắc của Bát Chánh Đạo. Nhờ đó, một người hy vọng nhận được một tình trạng vô ngã (không còn nghĩ đến mình nữa).
Nhà Sư (còn gọi là các vị Tỳ Kheo hay Tỉ Khưu). Vì Phật giáo đòi hỏi phân rẽ ra khỏi sự ồn ào của cuộc sống thường nhật, nên nó đã được gọi là một tôn giáo của các nhà sư. Người Phật Tử chân chính phải sống thanh tịnh, tức là trong các tịnh xá có rải rác ở khắp nơi. Trong các nước như Thái Lan và Miến Điện, mọi người đàn ông phải sống vài tuần như là nhà sư, và nó là một phần trong sự giáo dục của họ. Tại Tây Tạng, nó được gọi là
Lamaism (Lạt ma giáo), các nhà sư chiếm tới một phần ba dân số. Họ thành lập một đội ngũ tư tế mà đội ngũ đó cai trị đất nước cả về mặt chính trị.
Các nhà sư cử hành các tang lễ, các lễ lạc trong chùa và thực hành việc dạy đạo cho lớp người trẻ. Nhưng nhiệm vụ chính của nhà sư là vạch ra cách sống cho người đạo Phật để đi đến niết bàn. Ông nhận lương thực qua việc đi xin (khuất thực). Ông mặc áo cà sa màu vàng, có một bình bát, một cây kim và một xâu chuỗi gồm 108 hạt (để đếm ra những phẩm tính của Đức Phật). Ông có một lưỡi dao cạo để cạo đầu và một tấm lưới lọc để lọc các côn trùng ra khỏi nước uống để ông không gây cho các vật sống chịu đau khổ. Khi nhà sư được dâng cho thức ăn, thì ông đã ban cho người dâng thức ăn đó một công đức và người dâng thức ăn đó phải nói "cảm ơn Ngài". Nếu người dâng là một phụ nữ thì nhà sư không được đáp lời hay nhìn đến người đó.
Arahat (A la hán hay gọi tắt là La Hán). Vị Arahat là một người thánh, một thánh đồ của Phật Giáo, là người đã tự mình đạt đến sự giác ngộ (hay thành chánh quả). Bằng sự trầm tư, người đó đã đạt đến đích của sự thanh tịnh tinh tuyền, vượt khỏi các giác quan. Một vị La Hán không phải là một linh hồn được cứu, vì Phật Thích Ca phủ nhận sự hiện hữu của linh hồn. Người đó đã đạt đến sự khôn ngoan và sáu sự toàn vẹn (thắng được lục căn). Người đó đã chinh phục được ba thứ say mê và thèm khát được đến sự đầu thai. Người đó nói: "Ta không muốn chết, ta không muốn sống". Trong tình trạng này, người đó chờ đợi "sự tắt đi ngọn đèn sự sống" tức là vào niết bàn.
Boddhisattva (Bồ Đề Tát Thùy hay gọi tắt là Bồ Tát). Người Phật Tử lý tưởng là vị Bồ Tát tức là "Phật đang hành động". Đó là một bậc thánh mà trọn cuộc đời họ là một cuộc đời yêu thương, hy sinh. Người đó thề rằng chẳng nhập niết bàn cho đến khi toàn thể nhân loại đều được cứu rỗi với mình. Bất cứ ai cũng có thể trở thành một vị Phật bằng sự nhận lấy lời thề. Người ta tin rằng đã có sáu vị Phật trước Phật Thích Ca. Một vị Phật khác, gọi là
Maitreya (Phật Di lạc), chờ đợi thời kỳ thuận tiện sẽ đến trái đất này, khi đó ông sẽ làm cho con người ở thời đại của mình cái điều mà Phật Thích Ca đã làm. Như vậy, vị Bồ Tát là một loại cứu tinh hay là một vị phổ độ cho người đi tìm sự cứu rỗi.
Sangha (Tăng già) có nghĩa là "đại chúng". Đức Phật tổ chức các tín đồ của ông thành một tổ chức tu hành được gọi là
Sangha. Một nghi lễ được tổ chức cho người bắt đầu nhập vào đội ngũ Tăng già (Thầy tu), trong thời gian đó, họ phải tụng niệm một câu tín điều: "Tôi nương náu nơi Đức Phật, tôi nương nơi dharma (Phật pháp) và tôi nương náu nơi Sangha (Tăng già)". Tương tự như là một nhà thờ, họ nhóm họp để nghe thuyết pháp về lời của Đức Phật và để xưng tội. Có 227 qui điều cho hội đoàn này.Mục Tiêu 4: Xác định được những niềm tin luân lý chính yếu của người Phật Tử.
Luân Lý Của Phật GiáoCốt lõi của sự dạy dỗ của Đức Phật nằm trong hai sự tuyên bố. Hai sự dạy dỗ này được biết đến với tên là
Tứ Diệu Đế và
Bát Chánh Đạo. Đối với ông, nan đề lớn trong luân lý và vấn đề khổ đau. Ông nói rằng khổ đau là điều chung cho nhân loại, nhưng ông đã tìm được lời giải đáp cho mình trong
Tứ Diệu Đế (Bốn lẽ thật kỳ diệu).
Tứ Diệu Đế- Diệu đế thứ nhất (Khổ đế): Sự sống là dukka, "khổ đau hay thống khổ". Đức Phật nói rằng: "Sanh, bệnh, tử là khổ. Sự hiện diện của đối tượng mà ta ghét là khổ. Sự phân ly với đối tượng mà ta yêu là khổ. Không đạt được điều ta muốn là khổ". Bám vào sự hiện hữu bằng năm Skandas (ngũ khổ) là "Khổ". Năm Skandas (ngũ khổ: sanh, lão, tử, bệnh, biệt ly) được cho là "những trạng thái thay đổi tức là sự tổng cộng của một con người). Nói cách khác, đời là bể khổ, nó giống như một cái trục bị lệch tâm khỏi những bánh xe của nó hay là một cái xương bị trật ra khỏi khớp.
- Diệu đế thứ hai (Tập đế): tanha, là "dục vọng", là nguyên nhân của khổ đau. Nó là sự thèm muốn những thú vui vị kỷ. Đức Phật nói rằng thay vì liên kết đức tin của mình với tình thương, chúng ta "cột chúng vào những con lừa của cái tôi riêng rẽ của mình. Để thưởng cho bản ngã (egos) của mình, chúng ta tự khóa chặt mình từ phía bên trong". Con người có một bổn phận đối với đồng loại mình: xem người khác như là một phần hoặc là sự nới rộng của chính mình.
- Diệu đế thứ ba (Diệt đế): Liên hệ đến sự chấm dứt khổ đau. Đức Phật tin rằng nếu nguyên do của sự lệch vị trí của cuộc sống là dục vọng vị kỷ, thì phương thuốc chữa cho nó là vứt bỏ lòng tham muốn (diệt dục). Ông nói: "Này Bhikkus, đây là chân lý cao siêu (diệt đế) của sự chấm dứt khổ đau. Nó chấm dứt cùng với sự phá hủy hoàn toàn dục vọng". Sự giải thoát xảy ra khi một người được tự do khỏi vòng luân hồi (Samsara) và vào trạng thái phước hạnh của niết bàn.
- Diệu đế thứ tư (Đạo đế): Là phương cách trừ khử lòng tham muốn. Đó là đi theo con đường trung dung. Đức Phật gọi đó là "Bát Chánh Đạo". Nếu một người thực hành những điều này, thì người đó có thể xem như sẽ thấy sự đau khổ chấm dứt. Chúng ta hãy xét tám điểm này một cách chi tiết. Bạn nên cố ghi nhớ.
Bát Chánh Đạo- Chánh Kiến (Tin đúng hay hiểu đúng). Điều này có nghĩa là một người phải có những sự tin tưởng chắc chắn, chẳng hạn như Tứ Diệu Đế. Người đó phải tin rằng sự khổ đau vây bọc chung quanh và nó do lòng dục gây ra để mong sinh tồn riêng rẽ và hưởng thụ đầy đủ. Người đó phải tin rằng sự đau khổ có thể chữa trị, và phương tiện để chữa trị nó là Bát Chánh Đạo.
- Chánh Tư Duy (Có dự định hay xu hướng đúng). Điều này nhằm giải quyết cách thắng hơn những xúc cảm và ham muốn của xác thịt. Nó bao gồm thiện chí, sự hòa thuận và tình yêu thương đối với người khác và bỏ đi mọi xảo quyệt. Mục đích này bao hàm giáo thuyết ahimsa, là giáo thuyết "không tổn hại", tức là tránh mọi sự tổn thương cho bất cứ hình thái sự sống nào.
- Chánh Ngữ (Nói năng đúng). Lời nói biểu lộ tâm tánh và là một đòn bẫy để chuyển dịch tâm tánh. Một người phải không nói gì ngoài sự thật. Đức Phật nói rằng sự lừa dối làm giảm sút tâm tính. Động cơ phía sau sự binh vực mình là sợ tiết lộ ra con người thật của mình. Lời nói đúng là tránh đi những lời tán gẫu vô ích, sự nói hành và sự gièm chê.
- Chánh Nghiệp (Cư xử hay hành vi đúng). Điều này được mô tả trong các giới răn của Phật giáo, chúng tương tự như Mười điều răn của Môise. Sát nhân, trộm cắp và tà dâm là hoàn toàn sai trái.
- Chánh Mệnh (Nghề nghiệp đúng). Điều này liên quan đến phương tiện sinh sống hay công việc của một người, và đòi hỏi một người xử dụng thời gian và năng lực một cách đúng đắn. Cách để một người kiếm sống phải không được gây tổn hại cho người khác.
- Chánh Tinh Tấn (Cố gắng hay cần mẫn đúng). Đức Phật kêu gọi phải có lời nói, tư tưởng và hành động cao đẹp nhất. Ông nói: "Hãy theo các thức một con bò đi qua vũng lầy, vừa kéo một vật nặng. Nó mệt mỏi nhưng nó một mực chăm chú không bao giờ thư giãn cho đến khi nó ra khỏi vũng lầy. Ngươi có thể thoát khỏi nó chỉ bằng cách một mực suy nghĩ đến đường đi. Hãy hoàn thành sự cứu rỗi của chính ngươi bằng sự cần mẫn".
- Chánh Niệm (Lưu tâm đúng hay có kỷ luật bản thân đúng). Thói quen suy nghĩ phải được thực hiện bằng những giờ lưu tâm đến những đề tài có ích. Khúc Kinh được các Phật Tử ưa thích nhất, Kinh Dhammapada, mở đầu với câu "Tất cả những gì chúng ta trở thành, là kết quả của những gì chúng ta suy nghĩ".
- Chánh Định (Suy tư đúng hay tập trung đúng). Đây là chỗ cao điểm. Đức Phật nói rằng bằng sự suy tư, cuối cùng một người đạt đến quả A-la-hán (arahat). Karma được hoàn tất và sự đầu thai chấm dứt mãi mãi. Sự trầm tư và thành chánh quả được cho là có thể được trợ giúp bằng cách ngồi theo "thế hoa sen". Một người ngồi chéo chân với mỗi bàn chân đặt trên đùi đối diện.