Luận cứ căn cứ vào tiềm năngBảo rằng chân lý của một lập trường hay một ý niệm có giá trị hay không căn cứ vào tiềm năng chưa thể hiện của nó, có thể là một luận cứ vô căn cứ, chỉ do suy lý mà thôi.
Luận cứ dựa trên các chứng cứ khoa học
Việc nghiên cứu cõi thọ tạo một cách khoa học đưa người ta đến chỗ hiểu biết các mối liên hệ trong công trình sáng tạo. Nó mô tả "thế nào" mà chẳng bao giờ có thể giải nghĩa "tại sao". Những gì đã được "phát kiến" trong phòng thí nghiệm chỉ đúng và có thể được lặp lại đến một mức độ nào đó mà thôi (các suy diễn và kết luận của chúng có thể không chính xác, tùy theo các nền móng đã được giả định trước của chúng). Tuy nhiên, nó chỉ đúng trong điều kiện của phòng thí nghiệm. Cả khi nó có thể được sao y lại trong các điều kiện của môi trường bên ngoài, thì nó đã bị thay đổi rất nhiều vì phòng thí nghiệm không phải là môi trường bên ngoài. Hơn nữa, chân lý tự nhiên không hoặc không thể đề xuất hay xác lập chân lý luân lý đạo đức. Vì khoa học không thể cảm nhận hay thí nghiệm chân lý đạo đức, nó cũng không vì thế mà loại trừ được chân lý nền tảng về mặt đạo đức.
Luận cứ về tính phổ biến
Khi một ý kiến được đa số quần chúng chấp nhận, nó không bảo đảm được cho một lập trường nào đó là đúng hay sai. Đa số có thể cầm quyền; nhưng một tập thể cầm quyền không thể không sai lầm hay được ban cho cái khả năng đặc biệt để xác lập chân lý (chẳng bao lâu trước đây, trong lịch sử Hoa-kỳ, đại đa số quần chúng đã chủ trương rằng người da đen là hạng người thấp kém). Chỉ có những cá nhân nào có quyền đề cao các giá trị là những người phản ảnh chính xác chân lý. Các chính quyền vốn do Thượng Đế thiết lập nên phải phản ảnh đúng phương diện đạo đức của Đấng đã thiết lập cho nó. Các Cơ Đốc nhân có trách nhiệm đề cao và xác lập các giá trị hài hoà với mục đích nguyên thủy của nó.
Luận cứ về sự hiểu biết
Nếu một câu phát biểu được thông suốt và lãnh hội thấu đáo, nó không nhất thiết đã là một chân lý đã được xác lập và khẳng định. Tôi không hiểu rõ hay lãnh hội đầy đủ giáo lý về Thượng Đế Ba Ngôi, thế nhưng tôi không dám chểnh mãng, hay gạt bỏ chân lý ấy qua một bên, chỉ vì mình không hiểu rõ nó.
Luận cứ về sắc lịnh một uy quyền kém hơn
Việc một chính quyền hay một tổ chức hoặc một tập thể người nào đó phê duyệt một chính sách, hoặc lập trường rồi đưa nó ra để thi hành không hề bảo đảm được là nó chính xác hoặc là chân lý. Trường hợp ngoại lệ nếu điều đã quy định hoặc phê chuẩn đó là việc ứng dụng chính xác một mạng lịnh của Kinh Thánh.
Luận cứ về sự thành công theo số đông
Số người theo một niềm tin hay tập tục nào đó không hề chứng nghiệm hay phủ nhận được nó là chân lý. Bảo rằng một điều gì đó sở dĩ đúng chỉ vì số người tham gia, là không đưa ra một nền tảng đúng để xác định điều gì là đúng (chân lý).
Luận cứ về kinh nghiệm
Khi có người bảo rằng một niềm tin nào đó là đúng vì kinh nghiệm, từng trải của người ấy phù hợp với nó, thì điều này không xác lập được nó là một hành động hay biến cố thuộc về đời sống của tôi. Những tín đồ Mormons cảm thấy một "ngọn lửa thiêu đốt lòng họ", thế nhưng hậu thuẫn cho chân lý chỉ bằng một điều gì đó quan trọng hơn chứng bị khó tiêu hoá của tôi một chút, thì không chính đáng lắm. Rất có thể đó là một từng trải rất thật mà họ đã gặp, nhưng điều đó tự nó không thể là một phẩm chất căn bản cho đời sống tôi.
Luận cứ về tính cách thích hợp
Nếu đó là hành động tốt nhất hay thích hợp nhất phải làm, thì không bảo đảm được đó là chân lý, đúng, phải, hay đạo đức. Hoàn cảnh, tình hình chẳng bao giờ xác định được chân lý là gì.
Luận cứ về sự im lặng hay thiếu chứng cứ hậu thuẫn đối lập
Khẳng định rằng một chân lý nào đó là đúng vì chẳng ai nói gì để chống lại nó, hay không hề có tiếng nói hay ý kiến nào bất đồng hay trái ngược lại nó, không phải là nền móng đủ và cần để chứng minh đó là chân lý. Lập trường này là một luận cứ rút ra từ sự im lặng, mà làm như thế là xây dựng một lập trường thiếu nền móng.
Luận cứ về tình cảm hay cảm xúc
Sự hiện diện hay vắng bóng của một số cảm xúc hay cảm thức khi chúng được buộc chặt vào một "chân lý" đặc thù nào đó không hề chứng minh hay xác lập rằng ý niệm đó là đúng. Chúng có thể nảy sinh do tiếp xúc với chân lý, nhưng những cảm xúc tích cực tôi kinh nghiệm về một lập trường nào đó không khiến được nó trở thành đúng. Tôi có thể cảm thấy làm tình với một người nào đó, không phải là vợ tôi, là phải lẽ; thế nhưng cảm thức ấy không khiến được việc ấy "trở thành phải lẽ".
Luận cứ về tính cách hợp lý
Chỉ có tiến trình lý luận mà thôi thì không bảo đảm hay xác định được chân lý. Các đại tiền đề hoặc tiểu tiền đề có thể là sai. Nó có thể cũng không đặt trên nền móng là Kinh Thánh như một luận cứ của sự im lặng. Thuyết hai lần tiền định (double predestination) có vẻ là một ý niệm hợp lý, nhưng không phải là một ý niệm theo Kinh Thánh.
Luận cứ về quyền lực
"Lý lẽ của kẻ mạnh bao giờ cũng thắng". Sức mạnh không thể quyết đoán điều gì là phải, là chân lý; nó chỉ ép được người ta vào một khuôn mẫu hành động nào đó có thể sẽ bị thay đổi khi có một cá nhân hay tập thể mạnh hơn nắm quyền cai trị kiểm soát. Trong hệ thống này chân lý thay đổi với con người đang nắm quyền hay với một nhóm có quyền lực chết. Cuối cùng, việc này dẫn đến một nhà cầm quyền ích kỷ, vị kỷ, mưu đồ mọi sự để chính mình được lợi lộc mà thôi. Thế lực gây sự băng hoại, thế lực càng tuyệt đối thì sự băng hoại sẽ càng triệt để.
Luận cứ về hậu quả
Chân lý không phải chỉ được xác định bằng các hậu quả hay mục tiêu do một hành động nào đó đưa đến. Phương tiện xấu không thể là tương đương hay tạo được những kết quả tốt khả dĩ chấp nhận được. Nếu Thượng Đế muốn hoặc đã trù liệu rằng các cứu cánh ấy phải tốt và thánh khiết thì phương tiện để đạt được cứu cánh ấy cũng phải do chính Thượng Đế hoạch định và cũng phải tốt lành và thánh khiết tương đương. Con người tự nhiên dường như chú ý đến các chi tiết và các biến cố hằng ngày của đời sống và tiến trình của đời sống nhiều hơn, mà không nhất thiết lưu ý đến mục đích của đời sống. Mục tiêu của họ là tiến trình, là từng trải, là khoảnh khắc mà họ sống. Tuy nhiên, Kinh Thánh liên kết cả mục tiêu lẫn tiến trình liên hệ đến việc đạt đến mục tiêu với thế quân bình cho cả hai. Phải đến được thiên đàng là quan trọng, nhưng điều quan trọng là làm theo đúng cách mà Thượng Đế đã đề ra.
Luận cứ về sáng tạo tiềm năng (kết quả cần thiết từ một nguyên nhân)
Lắm khi người ta đã cố gắng xác định chân lý bằng cách nhìn vào các hậu quả để tái tạo lại một nguyên nhân. Thấy một hậu quả đặc thù (nào đó) nảy sinh từ một nguyên nhân đặc thù (nào đó), người ta kết luận cả hai vốn có liên hệ với nhau. Thí dụ thường được nêu ra nhiều nhất cho việc này, là Thượng Đế và điều ác. Luận cứ này được phát biểu như sau: Thượng Đế đã sáng tạo vũ trụ và mọi vật trong đó; nên điều xấu điều ác vốn là một phần của công trình sáng tạo, do đó, Thượng Đế là tác giả của điều xấu điều ác trong đó Ngài đã tạo dựng một hệ thống qua đó điều ác đã vào được trong thế gian này. Phải, quả thật là Thượng Đế đã sáng tạo vũ trụ này và tất cả những gì có trong đó đều là công việc Ngài làm ra. Cũng quả thật là Ngài đã sáng tạo cái hệ thống trong đó điều xấu điều ác đã có tiềm năng để xuất hiện; rằng thực tại ấy đã xảy ra qua trung gian con người, là một cá nhân có trách nhiệm về mặt luân lý đạo đức. Chúng ta không thể gán nguồn gốc của điều xấu điều ác cho Đấng đã Thiết Kế cái hệ thống ấy một khi nó lại được phó vào tay một cá nhân có trách nhiệm, phải khai trình khác. Luận cứ ấy có thể ứng dụng bằng cách bảo rằng người thiết kế nguyên thủy của mộc chiếc ô tô phải chịu trách nhiệm về những cái chết của tất cả mọi người bị tai nạn ô tô, trong khi thật ra trách nhiệm phải thuộc về cá nhân điều khiển chiếc ô tô. Có thể nói con người là bác tài xế, và Thượng Đế không chịu trách nhiệm về các hành động của kẻ do Ngài sáng tạo ra. Tuy nhiên, chúng ta đã thấy Thượng Đế nhận lấy trách nhiệm và đã hành động để sửa sai các hậu quả của điều xấu điều ác và tội lỗi qua thập tự giá.Luận cứ về quyền chủ tọa cần thiết
Nó cũng tương tự với luận cứ trước nhưng lại khác hẳn. Khẳng định rằng một hậu quả nào đó là đúng (chân lý) căn cứ vào trật tự trong đó nó đã xảy ra liên hệ với các biến cố khác không phải là một nền tảng có giá trị cho chân lý. Thí dụ, Thượng Đế đã tạo dựng loài người, nhưng trước đó ít lâu, Ngài đã tạo dựng các thiên sứ và họ đã sa ngã. Suy diễn rằng sở dĩ Thượng Đế đã dựng nên loài người là để phán xét các thiên sứ sa ngã không phải là một cách suy diễn cần thiết.
Luận cứ về lương tâm
"Cứ để lương tâm của bạn hướng dẫn mình" là một phương pháp để người ta có thể xác lập một lập trường về chân lý. Thế nhưng lương tâm không phải bao giờ cũng là một phương pháp đáng tin cậy để xác lập chân lý, vì nó có thể bị tội lỗi khiến nên chai lì.
Phê bình các luận cứ về định phẩm chân lý
Cần phải nhận xét thật đúng rằng các luận cứ vừa được đề cập trên đây chỉ nhằm giải quyết cho lãnh vực chủ quan mà thôi. Bất cứ một luận cứ nào hay một sự kết hợp của nhiều luận cứ đều có thể là một xác nhận chủ quan về điều vốn đã được mặc khải và có tính cách khách quan. Tuy nhiên, chân lý không hề có nền tảng hay bắt nguồn từ các phẩm cách chủ quan ấy. Nhấn mạnh trên một viễn ảnh hay một kết hợp nhiều viễn ảnh chủ quan đó để đặt nó làm quy luật cho đời sống hay cho một nếp sống, sẽ đưa người ta đến việc bị mất quân bình quan trọng và xuyên tạc chiều hướng chủ yếu của chân lý. Nếu chúng ta cứ khăng khăng bám mãi vào một nếp sống nào đó, thì đặc điểm của đời sống sẽ là những đối cực, chớ không phải là thế quân bình mà chân lý cung cấp cho.
Chân lý không phải là tất cả những gì đang hiện hữu. Nếu trường hợp quả đúng là như thế, thì sẽ chẳng có gì không-phải-là-chân-lý-cả. Cuối cùng, lập trường này sẽ bị thu hẹp để chỉ còn là một viễn ảnh sinh tồn, bảo rằng bất kể bạn làm gì thì đều chẳng có gì quan trọng cả, cứ thử cho biết để thu thập kinh nghiệm.
Quả thật là có mặt chủ quan của chân lý; thế nhưng phải được định nghĩa, xác nhận và thẩm định giá trị bằng yếu tố khách quan và do mặc khải. Chân lý vốn độc lập đối với kinh nghiệm hoặc sự chống đối và lý luận chủ quan. Yếu tố quyết định của chân lý chẳng bao giờ dựa vào là kinh nghiệm; nếu không, chân lý sẽ thay đổi. Cái khách quan cũng chẳng bao giờ bị lệ thuộc vào cái chủ quan, nhưng nó xác định, định nghĩa, điều chỉnh và xác nhận cái chủ quan. Một người có thể được soi sáng về một chân lý đã có sẵn trước rồi, chớ không thể là người đầu tiên khám phá ra chân lý ấy; nó chỉ mới mẻ đối với người ấy mà thôi. Chân lý chủ quan có một phần khách quan tương ứng, và như thế, chân lý ấy có thể đem ra áp dụng cho đời sống. Chân lý khách quan vẫn là chân lý độc lập đối với việc nó được phát giác ra và ứng dụng cho đời sống.
Có một lãnh vực chủ quan khi chân lý được áp dụng và khi việc áp dụng ấy được cá nhân hoá hay được nhận thức. Điều này không có nghĩa là nó nhất thiết trở thành mới mẻ, mà chỉ trở thành mới mẻ cho chính người ấy mà thôi. Cũng vậy, nó không có nghĩa là chân lý ấy vừa mới ra đời ngay trong khoảnh khắc mà tôi kinh nghiệm nó. Nhưng kinh nghiệm của tôi về nó là mới. Có một hiểu biết mà một người có thể có về chân lý, nhưng điều đó không có nghĩa rằng nó là một thành phần tích cực trong đời sống tôi. Chỉ vì tôi biết chân lý ấy, nó chẳng hề cho tôi năng lực gì để thực thi chân lý ấy, mà năng lực ấy phải từ Đức Thánh Linh đến.
Cần lưu ý là các lãnh vực chủ quan này có thể có cơ sở trên mỗi cá nhân. Tất cả chúng đều có khả năng tạo cơ sở trên con người. Vậy, con người là tụ điểm trung tâm thẩm quyền nhằm xác định đâu là chân lý. Khi chân lý có nền tảng trong con người hay lệ thuộc vào con người để xác nhận nó là chân lý, nó chẳng bao giờ có thể trở thành phổ quát hay thống nhất. Sở dĩ như thế, là vì nguồn gốc và thẩm quyền của chân lý - là con người. Vào một lúc nào đó trong cuộc đời mình, con người ta quay trở về với những gì mình tin là chân lý để biện minh cho lập trường của mình hay để cố tìm lối thoát khỏi mặc cảm phạm lỗi. Tuy nhiên, chân lý không tự nhiên mà có; nó có cơ sở là Lời Thượng Đế, hài hoà với bản tính và thân vị của Thượng Đế. Con người luôn luôn thay đổi, sai lầm, bất toàn, bị giới hạn và tội lỗi, chẳng bao giờ có thể trở thành nền móng tốt lành đầy đủ, chắc chắn hoặc có thể tin cậy được cho chân lý.
Bất cứ điều gì được nghi ngờ là chân lý cần phải được cân nhắc bằng cách đem đối chiếu với định chuẩn của chân lý của Thượng Đế trước khi đem áp dụng cho đời sống chúng ta.
Con người muốn có một nền triết lý để biện minh cho các hành động của mình, sao cho mình khỏi phải đối phó với ý thức phạm lỗi mà các hành động xấu xa gian ác của mình tạo ra. Ở đây, một hành động xấu xa gian ác được định nghĩa là bất luận một hành động nào không do tuân thủ ý chỉ Thượng Đế hoặc thực hiện vì một động cơ sai quấy thúc đẩy. Cứu cánh tối hậu của tiến trình tự biện minh của người ấy là để loại ra chính cái ý nghĩ về hậu quả tiêu cực của hành động mình đã làm. Con người rất thù ghét cái ý nghĩ rằng mình là một tội nhơn và rằng mình không thể làm tất cả những gì mà tấm lòng (xấu xa gian ác) của mình ao ước. Cái ý nghĩ rằng mình cũng phải trả lời, phải tính sổ với Thượng Đế về các hành động của mình cũng bị con người thù ghét xua đuổi y như thế. Cơ Đốc giáo là chỗ bày tỏ, bộc lộ chân lý đầy đủ nhất trên đời. Nó không phải chỉ là một hệ thống nhằm biện minh cho các hành động của con người cho bằng nó kêu gọi con người hãy đến và sống sao cho rập mẫu với tiêu chuẩn của Thượng Đế.
Mặc dầu, các hậu quả không thể tự chúng là một yếu tố định phẩm trong việc xác định chân lý; nó rất quan trọng để khảo xét thật hợp lý các hậu quả sau đây.
Khi tôi ứng dụng nó cho đời sống mình:
- ........... nó có tôn vinh Thượng Đế không?
- ............ nó có biến đổi tôi trở nên giống như hình ảnh của Thượng Đế không?
- ........... nó có làm nảy sinh tình yêu thương thánh khiết trong tôi không? (I Ti-mô-thê 1:5)
- ........... tôi có phản chiếu bản tính của Thượng Đế không?
- ........... nó có dẫn tôi đến chỗ phạm tội hay trở thành một chứng nhân chịu thoả hiệp không?
Phần sau đây được đưa ra nhằm trình bày một viễn ảnh khác biệt và được trích từ tác phẩm “A Philosophy of Christian Religion” của E.J.Carnell, Grand Rapids: Baker 450-455 “Triết học quy ước chia các chủng loại chân lý thành hai loại tổng quát. Một là, chân lý là tổng số của chính thực tại... Hai là, chân lý là nhất quán tính có hệ thống (systematic cousistency) hay sự phù hợp được đề nghị (propositinal correspondence) với thực tại”
Triết học về chân lý của Cơ Đốc giáo có thể tóm tắt như sau: a) Thực tại “ở ngoài kia” là chân lý. Vũ trụ này quả thật là công trình sáng tạo của Thượng Đế.
b) Chân lý là đặc tính của một phán đoán hay mục tiêu phù hợp với thực tại (Điều này liên hệ với “chân lý của một kinh nghiệm hay tri giác” hoặc với chân lý phản tỉnh - reflection). Tâm trí Thượng Đế hoạch định một hệ thống chân lý toàn vẹn.
c) Chân lý nằm trong lòng người là phẩm chất của cá tính người ấy, phù hợp với luật về tình yêu thương”