Bài 9: NHỮNG BÀI CẦU NGUYỆN CÓ HÌNH THỨC CỐ ĐỊNH VÀ TỰ DO
Calvin nói: "Nếu trong việc chuyển đổi, một hình thức nào đó phải được luôn luôn giữ nguyên mà nghi lễ công cộng và do đó là tính nhân bản tự nó đòi hỏi chúng ta không thể bỏ qua, thì điều đó phải được đặc biệt tuân thủ trong các Hội thánh". Sở dĩ việc thờ phượng đòi hỏi phải có một số hình thức, vì đây là một hoạt động tập thể, mà những hành động tập thể thì tự bản tính, vốn đặt ra nhiều hạn chế đối với quyền tự do cá nhân. Nếu mọi người muốn cùng ca hát, nô đùa hay khiêu vũ với nhau, thì phải có một phương thức được nhất trí nào đó để mọi người cũng tham gia; quyền tự do cá nhân không bị hạn chế chỉ có thể dẫn tới hậu quả là sự lộn xộn mà thôi". Ý kiến chung của một xã hội đòi hỏi một công thức để biểu hiện tư tưởng chung của nó (J.E.Rattenburg, Vital Elements of Public Worship, p.12). Điều này nghiệm đúng với mọi hình thức thờ phượng lập thể, cả đến loại có tính cách cá nhân chủ nghĩa nhất như trong một cuộc họp của Hiệp hội các Thân Hữu (Society of Friends). Sự kiện các Thân Hữu họp nhau tại một nơi nào đó vào một giờ nhất định nào đó và tuân thủ cùng một phương thức được nhất trí với nhau, tức là giữ im lặng, tự nó cũng là một "hình thức" theo đó sự thờ phượng của họ được biểu hiện. Do đó, suy cho cùng thì vấn đề không phải là sẽ có hình thức hay không, nhưng là các hình thức ấy phải thuộc loại nào.

Cách biểu hiện việc cầu nguyện công cộng chỉ có thể được thảo luận cho có lợi, là trên bối cảnh tổng quát này. Phản đề về tụng niệm chống lại cầu nguyện tự do không phải là phản đề vẽ một hình thức chống lại cái không hình thức; lời cầu nguyện hồn nhiên tự phát nhất cũng là một hình thức (cầu nguyện) chẳng kém chi việc tụng niệm cổ điển. Vấn đề là về những hình thức tốt, xấu, hay, dở mà thôi. Câu hỏi mà các tín đồ Giáo hội Tự do, là những người đã phải trả giá đắt cho quyền tự do tụng niệm vẫn không tài nào né tránh được, đó là: Có những hình thức nào là đầy đủ nhất để biểu hiện cách đáp ứng sinh động của Hội thánh đang thờ phượng này - tức là sự thờ phượng tập thể?

Có hai nhận xét sơ khởi mà chúng ta cần lưu ý trong giai đoạn này. Một là, truyền thống Thanh giáo là lập trường của các tín đồ Báp-tít, Tổng hội và Trưởng lão, khi được khảo xét như một toàn thể, vốn không hề phó mặc những người thừa kế mình cho bất kỳ một hình thức cầu nguyện nào. Ngay trong chính Thanh giáo, chúng ta cũng tìm ra một số điểm nhấn mạnh trên việc tụng niệm, có thể xếp từ loại triệt để khước từ mọi hình thức có sẵn, kể cả bài cầu nguyện của Chúa, đến nỗ lực hồi năm 1584 nhằm thay thế "A Book of the Forme of Common Prayers" (Một sách về hình thức của những bài cầu nguyện chung) bằng quyển "Sách cầu nguyện của Giáo hội Anh quốc" (the Anglican Prayer Book) để dùng làm hình thức thống nhất cho việc tụng niệm trong xứ. (Xem Bancroft, Dangerous Positions (1595), III, X.96f., và Hooker, Eccl.Pol., V, XXVii. Sách này được biết dưới cái tên là Walfegrave Liturgy). Các tín đồ Thanh giáo ôn hoà thì không phản đối nguyên tắc về tụng niệm, mà chỉ chống lại một bài tụng niệm cá biệt, là sách cầu nguyện phổ cập (the Book of Common Prayer) mà thôi; không phải họ phản đối các hình thức vì đó là những hình thức, mà chỉ phản đối "các hình thức quá hạn hẹp" của quyển sách cầu nguyện ấy mà thôi. Điều này được thấy hết sức hiển nhiên căn cứ vào sự hiện hữu của các quyển Genevan Service Book của Knox (1556), quyển The Waldegrave Liturgy (1584), quyển The Middle burgh Liturgy (1586) quyển The Westminster Directory (1644) và quyển Baxter's Savoy Liturgy (1661). Mặt khác, ngay đến các tín đồ trưởng lão vốn thiên mạnh mẽ nhất về hướng một hình thức cầu nguyện nhất định, vẫn nhấn mạnh rằng tụng niệm không thể loại trừ việc thực thi ân tứ cầu nguyện một cách hồn nhiên, "tuỳ hứng" (Có những ngoại lệ chống lại sách cầu nguyện phổ cập đã được trình lên cho các Giám mục tại Giáo hội nghị Savoy, năm 1551. Xem Bayne, Puritan Documents, tr.114 và tt.). Việc sách Westminster Directory của năm 1644 đưa ra cả những bài tụng niệm lẫn những bài cầu nguyện tự do thiết tưởng đã là chứng cứ đầy đủ cho truyền thống bao biện của Thanh giáo.

Hai là, quyền tự do tụng niệm mà các tín đồ Giáo hội Tự do lấy làm tự hào một cách phải lẽ, là một quyền tự do tích cực chứ không phải chỉ là tiêu cực mà thôi. Đây không phải chỉ là quyền tự do khỏi những cặp còng của Sách cầu nguyện phổ cập cũng không phải chỉ là quyền tự do để thực thi ân tứ cầu nguyện tự phát, tuỳ hứng; nó còn là quyền tự do để tận dụng bất cứ gì đưa chúng ta tới được chỗ tiếp thu phần di sản về tụng niệm phong phú của toàn thể Hội thánh để làm của riêng. Nếu muốn, chúng ta sẽ được tự do chọn lựa, dưới quyền hướng dẫn của Đức Thánh Linh, từ mọi truyền thống tụng niệm của Cơ-đốc giáo. Mọi sự đều thuộc về chúng ta.

Bây giờ, cả hai thể thức thờ phượng cổ điển đều đòi hỏi chúng ta phải chú ý. Chúng ta sẽ nhìn qua chúng thật nhanh, và cố gắng thẩm định các ưu khuyết điểm tương ứng với việc tụng niệm và cầu nguyện tự do.

1. Cầu nguyện bằng tụng niệm: Một trong những lợi điểm rõ ràng nhất của việc tụng niệm là nó cứu hội chúng khỏi bị vụ mục sư mặc tình đưa đẩy đi đâu tuỳ thích. Nội dung của bài cầu nguyện và thế cân bằng của buổi nhóm thờ phượng không hề bị ảnh hưởng của tâm trạng hoặc tính khí của người hướng dẫn. Như thế, sự thờ phượng được lợi về phương diện khách quan và ổn định. Phẩm giá và trật tự cũng được bảo đảm. Tính cách phổ thông (catholicity) cũng thế; việc tụng niệm kết hợp hội chúng đang thờ phượng với các tín hữu của quá khứ; nó trân trọng bảo tồn từng trải của nhiều thế hệ Cơ-đốc nhân, được thể hiện bằng "sự khôn ngoan và vẻ đẹp đã được tích luỹ của Cơ-đốc giáo, những điều tuyệt vời của các thánh đồ đã được chất chứa vào kho (P.Dearmer, được K.L.Parry trích dẫn trong chương "Prayer and Praise" của quyển Christian Worship (ed. N.Micklem) tr.234). Hơn nữa, một bài cầu nguyện ngắn tuỳ cơ hội cổ điển (a classic Collect) chẳng hạn, "kết hợp của tập thể và của cá nhân, theo cách thức mà có lẽ chỉ có việc sử dụng lâu đời mới có thể làm được (K.L.Parry, Sđd., tr.234). Một ưu điểm nổi bật khác nữa của những bài tụng niệm cổ xưa, điều mà các tín đồ của Giáo hội Tự do quá thường bỏ qua nhưng đã được nhấn mạnh trong Bản Tường trình của Uỷ ban nghiên cứu về Đạo và trật tự, quyển Ways of Worship, là: "Các hình thức truyền thống về tụng niệm đều hoàn toàn đúng theo Kinh điển, cả về mặt tinh thần lẫn trong cách chọn lời lẽ" (p.18, section A). Lại nữa như F.H.Brabant đã vạch rõ, một bài tụng niệm cổ điển có chức năng tạo ấn tượng hay gợi ý: không những nó "chỉ diễn tả điều ta cảm thấy; mà còn dạy cho chúng ta cách chúng ta phải cảm thấy nữa" (Worship in general trong Liturgy of Worship (ed. Clarke and Harris), p.13).

Chỗ khiếm khuyết của một hình thức cố định nào đó của những bài cầu nguyện cũng rất rõ ràng. Nếu mọi sự đều đã được quy định cứng nhắc cả rồi, thì còn chỗ nào cho những thôi thúc hồn nhiên tự phát của Đức Thánh Linh nữa? Đây chính là cơ sở thật sự của lời phản đối của các tín đồ Thanh giáo chống việc áp đặt một lối tụng niệm thiếu uyển chuyển. Viện dẫn [Rô-ma 8:26], họ chủ trương rằng chịu nô lệ một vài hình thức cố định nào đó, tức là dập tắt Thánh Linh. (Xem John Owen, A Discourse of the Work, of the Holy Spirit in Prayer; Works (ed. Russell0, iv.92). Như thế, cả vị mục sư lẫn các tín đồ đều bị cướp mất ân tứ cầu nguyện đã được Đức Thánh Linh ban cho. Các mục sư bị trục xuất hồi năm 1662 nói: "Chúng tôi không tin rằng mình phải luôn luôn phục tùng một hình thức cầu nguyện bóp chẹt ân tứ cầu nguyện (mà chúng tôi hy vọng là) đã được ban cho vài người trong chúng tôi, hay làm giảm sức nóng và lòng nhiệt thành của chúng tôi trong sự cầu nguyện, hoặc các thương cảm của những người được nghe chúng tôi (cầu nguyện), là hợp pháp (A Sober and Temperate Discourse concerning The Interest of Words in Prayer by H.D.M.A. (London 1661), p.96. T/c John Owen, A Discourse Concerning of Liturgies and their Imposition (1662), Works (ed. Goold, Edinburg 1862), XV.52). Hơn nữa, một hình thức cố định, cho dù có bao biện và tổng quát đến đâu đi chăng nữa, cũng thiếu tính cá biệt; nó chẳng liên quan gì với các nhu cầu khác nhau của những người khác nhau. Vì lý do ấy mà Isaac Watts, vốn từng nhận giá trị của các hình thức định sẵn, cũng từ chối không chịu bám chặt vào một hình thức cầu nguyện nào đã được quy định sẵn cả:

Vì ta không thể nào soạn thảo được những hình thức cầu nguyện hoàn toàn thích ứng với mọi hoàn cảnh liên hệ đến mọi sự việc của đời này và đời hầu đến. Các hoàn cảnh của chúng ta vốn luôn luôn đổi thay trong tình hình mong manh và biến chuyển này. Chúng ta có nhiều tội mới để xưng ra, nhiều cám dỗ và sầu muộn mới để trình dâng lên, nhiều nhu cầu mới cần được đáp ứng. Mỗi biến đổi của quyền năng thần hựu trong các công việc của một quốc gia, một gia đình hay một người đều đòi hỏi phải có những lời khẩn xin và những nhận định phù hợp và tất cả những điều đó chẳng bao giờ có thể được cung cấp trong bất kỳ một tác phẩm đã được ấn định sẵn nào (Guide to prayer; Works, iv.127).

Một khuyết điểm khác nữa của bài tụng niệm, là nó có xu hướng trở thành nhạt nhẽo, cổ lỗ do cứ đọc đi lại quá nhiều lần, do đó, có thể dẫn tới thói đạo đức giả, khiến những người thờ phượng nói lên những điều mà họ không thật sự cảm thức (xem Isaac Watts, Sđd.).

2. Cầu nguyện tự do: Tránh được các hầm hố cá biệt vừa kể trên. Nó có ưu điểm của sự hồn nhiên tự phát; vị mục sư được hoàn toàn tự do đáp lại các cảm thức của Thánh Linh khi cảm thấy được hướng dẫn nói ra. Xuất phát từ trường hợp như thế (hay đáng lẽ phải là như thế), tức là từ mối liên hệ mục vụ mật thiết của vị mục sư với các tín đồ của mình, nó có liên hệ với các hoàn cảnh và nhu cầu cá biệt của những người cầu nguyện. "Trong một câu đáng ghi nhớ, Owen đề cập 'một hiệu quả vang dội, là hậu quả của những lời cầu nguyện tự nhiên tự phát của những vị mục sư đã thật lòng suy nghĩ, về ân phúc và vẻ uy nghiêm của Thượng Đế và các nhu cầu của hội chúng của mình" (Horton Davies, The Worship of the English Puritans, p.16. Câu trích dẫn là trong A Discourse of the Work of the Holy Spirit in Prayer; Work (ed. Russell), iv.92). Một lần nữa, cầu nguyện tự do giúp vị mục sư tập họp lại rồi diễn tả các cảm thức của tín đồ mình nhân những cơ hội hiếm hoi, khi ông ý thức bằng trực giác vào một giai đoạn cá biệt nào đó trong chức vụ của mình. Như thế, nó kết hợp hội chúng với sự thờ phượng tự do bằng ân tứ của Hội thánh thời các sứ đồ.

Nhưng cầu nguyện tự do cũng có nhiều khuyết điểm nghiêm trọng. Quý vị mục sư hay thay đổi; và thật là dễ dàng và nguy hiểm nếu một vị mục sư, do không nhận thức được việc mình đang làm, lại gán tâm tư ý tưởng của riêng mình cho hội chúng qua những lời cầu nguyện của mình. Nếu là trường hợp nhẹ nhất, điều này có thể dẫn tới hậu quả là thiếu khách quan tính trong buổi nhóm thờ phượng, nếu tồi tệ hơn, nó có thể hoàn toàn làm hỏng việc thờ phượng. Cầu nguyện tự do cũng có thể tước đoạt mất khách quan tính của sự thờ phượng bằng tính cách dạy dỗ quá đáng. Lắm khi nó được dâng lên cho Thượng Đế; nhưng sự thật là nó cũng có thể được ngỏ với hội chúng. Nó có thể quan tâm nhiều vào sự gây dựng hơn là việc tôn thờ Thượng Đế. Nhiều vào sự gây dựng hơn là việc tôn thờ Thượng Đế. Một khuyết điểm tiềm tàng khác nữa là thiếu phẩm giá và trật tự. Hooker, khi trách cứ các tín đồ Thanh giáo, than phiền "những biến dạng gây khó chịu, bởi đó bằng những Bài cầu nguyện dài vô tận và vô nghĩa thao thao bất tuyệt khó "tiêu hoá" hồi, họ thường tỏ ra vô duyên trong cách làm rất khó chịu ở những phần xứng đáng nhất của bổn phận các Cơ-đốc nhân đối với Thượng Đế, do đó, phải chịu tình trạng thiếu trật tự chắc chắn, mà cứ cầu nguyện cả theo cách nào và như thế nào tuỳ thích (Eccl.Pol., V.XXV, 5). Có lẽ đây chỉ là một nét ký hoạ mà thôi, nhưng cũng như mọi ký hoạ trào phúng, nó vốn có cơ sở là một sự kiện có thật. Âm hiệu về cái chung (catholicity) cũng có thể bị thiếu mất trong bài cầu nguyện tự do, tuy nó không cần phải là như thế. Nhưng chính những mối bận tâm của nó đối với các tình hình địa phương và các nhu cầu hiện tại có thể đưa tới hậu quả là nó chẳng liên quan gì đến những lời chứng rộng lớn hơn và trong đời sống quá khứ của Hội thánh. Jeremy Taylor còn chỉ vào khuyết điểm khác nữa, một liên quan với vị mục sư, và một với hội chúng. Ông tố cáo quý vị mục sư là việc lẽ Đức Thánh Linh để che giấu sự biếng nhác tâm lý, và hỏi: "Cầu nguyện với Thượng Đế bằng thái độ có suy xét hay thiếu suy xét, thì đàng nào là tốt hơn? Người có suy nghĩ, và cố ý nói ra những gì mình nói, hay người chỉ nói ra thật nhanh những gì vừa đến với tâm trí mình? (Two Discourse (London 1682), p.1). Ông cho rằng các hội chúng bị che giấu trong lúc họ thành tâm hướng về Thượng Đế "vì họ không dám nói A-men trước khi có thể suy xét cẩn thận; nhưng trong nhiều trường hợp có những cầu nguyện tự nhiên tự phát cần phải được suy xét thật kỹ trước khi chúng ta có thể chấp nhận chúng (Được Horton Davies trích dẫn trong Sđd, tr.109). Cuối cùng, không phải là người ta không biết có bài nguyện chỉ có tên là tự do mà thôi, chứ thật ra đó là một hình thức đã có sẵn, và "cứ về phương diện nội dung mà xét, thì nó còn hình thức hơn cả nghi lễ tụng niệm thông thường nữa". (J.H.Miller, The Practice of Public Prayer, được J.E.Rattenbury trích dẫn, Sđd. tr.81). Nếu không được suy nghĩ thấu đáo và chuẩn bị cẩn thận, nó quá thường có xu hướng bị biến thành những câu sáo rỗng và những khuôn đúc; do đó, có những khuyết điểm của một hình thức định sẵn nhưng lại không có điều cần thiết là đặc tính theo Kinh điển của những bài tụng niệm theo truyền thống.

Rõ ràng là chẳng có một kiểu thức nào trong việc thờ phượng công cộng, tự nó là trọn vẹn cả, một sự kiện mà những người thủ vai chính - hay một phần lớn những người như thế - của thế kỷ thứ mười bảy dường như đều không nhìn thấy khiến chúng ta rất ngạc nhiên. "Nếu tín đồ Anh quốc giáo thiếu tính cách hồn nhiên tự phát, đơn sơ, thân mật và sự thuần khiết của lời cầu nguyện tự do, thì tín đồ Thanh giáo cũng bỏ qua tính cách đồng nhất, phẩm giá, phổ quát (catholicity) và trật tự của sách Cầu nguyện phổ cập (Horton Davies, Sđd., tr.110). Mỗi bên đều có những ưu điểm riêng; nhưng chẳng có bên nào là không có khuyết điểm. Hơn nữa, như Horton Davies chỉ rõ, "cả hai loại cầu nguyện khác nhau đó, bằng tụng niệm và tự do, dường như đều phản ảnh... hai quan niệm khác nhau của Hội thánh. Loại trước nhấn mạnh bản tính tập thể của Hội thánh trong việc "Cầu nguyện Chung" loại sau nhấn mạnh nhu cầu của các cá nhân trong gia đình Hội thánh. Nếu cầu nguyện bằng cách tụng niệm phản ảnh đầy đủ điều đã được các bài Tín điều các bài xưng nhận Đức tin tổng quát, các bài cầu nguyện ngắn tuỳ cơ hội (collects), những bài cầu nguyện cầu xin các ân phúc trừu tượng mà toàn thể các Cơ-đốc nhân có thể cầu xin đều chủ trương, thì cầu nguyện tự do đáp ứng được các đòi hỏi cá nhân cá biệt (Sđd., tr.105). Điều mà ít ra cũng có một số thành viên cực đoan hơn của cả hai phe đều dường như không nhận thức được, đó là chúng không hề loại trừ lẫn nhau. Phần này chỉ bổ sung cho phần kia, và cầu nguyện tập thể sẽ được biểu hiện tốt nhất là bằng cách pha lẫn có cân nhắc cả hai. Như uỷ ban về Đạo và Trật tự nhận định, "vấn đề thực tiễn là quyết định chỗ thích hợp cho từng phần (Ways of Worship, p.28).

Phần lớn lệ thuộc vào loại Hội thánh được đề cập. Trong khi quả thật "các quan niệm khác nhau về thờ phượng vốn bắt nguồn... một phần rất lớn từ các chủ trương về cách trang trí và sắp xếp trật tự trong nhà thờ (ecclesiologies) khác nhau" (Horton Davies, Sđd., tr.105) hai quan niệm này trong Hội thánh đều không có hàm ý muốn không chịu sống chung với nhau, mà muốn bổ túc cho nhau; nhưng điểm nhấn mạnh sẽ rất khác nhau tại nhiều điểm. Nếu một Hội thánh phục vụ một cộng đồng lớn thì Hội thánh ấy cần có một hình thức thờ phượng bằng sự tụng niệm theo hình thức, trong đó cầu nguyện tự do tương đối có vai trò nhỏ bé; còn trong một buổi nhóm giao hảo (thông công) thân tình hơn, nơi có một mối liên hệ mục vụ mật thiết hơn giữa vị mục sư và các tín đồ, thì sự thờ phượng rất có thể là ít có phần tụng niệm hơn, và cầu nguyện tự do được một vai trò to lớn hơn (Nguyên tắc này nhấn mạnh tập quán của John Wesley "Tuy ông tin vào cách cầu nguyện tự nhiên tự phát, miễn là nó ngắn gọn, Wesley tin rằng sự thờ phượng bình thường của dân chúng sẽ được biểu hiện tốt hơn bằng các hình thức tụng niệm". Với Wesley thờ phượng bình thường có nghĩa là sự giao hảo (thông công) trong giáo xứ. Trong giới những tín đồ Giám lý thân thiết với nhau hơn, việc cầu nguyện tự nhiên tự phát được sử dụng, nhưng theo Wesley thì điều này giả định trước đã có một bối cảnh tụng niệm của Hội thánh được tổ chức gồm nhiều giáo xứ (Parish Church) rồi. Những buổi hợp tĩnh tâm (devotions) trong các giới ít người vốn có hàm ý bổ sung cho sự thờ phượng của cả Giáo xứ. Với Đoàn truyền đạo lưu hành tại Hoa-kỳ của ông, nơi không có một bối cảnh như thế, thì hồi năm 1784 Wesley có soạn thảo "một bài tụng niệm hơi khác với bài tụng niệm của Giáo hội Anh quốc để xử dụng trong Ngày của Chúa trong tất cả các hội chúng" Xem Rattenbury, Sđd., tt.80-81).

Cầu nguyện tự do không nhất thiết phải là cầu nguyện tự nhiên tự phát, nghĩa là nảy sinh một cách hồn nhiên, không có suy tính trước, trực tiếp từ cơ hội (extempore) đang có. Nó cũng rất có thể có nghĩa như điều mà Isaac Watts gọi là "cầu nguyện được thai nghén", nghĩa là bài cầu nguyện đã được vị mục sư chuẩn bị trước thật cẩn thận. Nếu quả thật nó đã không được viết trước ra giấy, thì nội dung và tính cách liên tục của một bài cầu nguyện như thế cũng rõ ràng là đã được tác tạo trong tâm trí vị mục sư. Đó là loại cầu nguyện tự do đã được Mathew Henry và Isaac Watts, là những người từng phê bình những lạm dụng sự cầu nguyện tự nhiên tự phát như Jeremy Taylor và Hooker, bênh vực. Mathew Henry chủ trương rằng đòi hỏi tiên quyết của việc thi hành nhiệm vụ trang trọng, là một phương pháp thích đáng nào đó phải được tuân thủ, chẳng những gì nói ra đều phải tốt lành, mà chúng còn phải được nói ra đúng lúc đúng nơi, và không phải là chúng ta dâng lên cho Đấng uy nghiêm quang vinh của Thiên đàng và Địa cầu một điều gì đó lộn xộn, xấc xược và vô nghĩa lý (A Method of Prayer (London 1710), p.Au recto.).

Cũng tương tự như thế, trong tác phẩm đã trở thành sách giáo khoa của mình (1766) Isaac Watts là quyển Guide to Prayer cảnh cáo chống lại "việc hoàn toàn lệ thuộc vào các chuyển động và gợi ý thình lình của tư tưởng (Works, iv.125). Như một quy luật chung, cầu nguyện tự do khi thờ phượng phải được "thai nghén" chứ không phải là "tuỳ hứng". Nếu có người được nâng cao lên khỏi bản thân trong một khoảnh khắc được linh cảm (cảm hứng), người ấy phải tìm mọi cách để biệt riêng ra những gì mình đã chuẩn bị và noi theo sự chỉ dẫn của Đức Thánh Linh: gió muốn thổi đâu thì thổi. Nhưng ân tứ cầu nguyện ứng khẩu này không phải là được ban cho tất cả mọi người; cũng không phải là nó rất thường xảy ra. Chỉ chú ý đến động đất, gió và lửa trên toà giảng, có lẽ sẽ bị hụt mất tiếng nói êm dịu nhỏ nhẹ trong văn phòng. Vị mục sư biết rõ mình sắp phải dành ra nhiều giờ, chứ không nói là nhiều ngày, để chuẩn bị cẩn thận lời lẽ mình sắp nhân danh Thượng Đế mà nói ra cho các tín đồ của mình: phải chăng vị ấy sẽ kém chăm chỉ hơn trong việc chuẩn bị những gì mình đã được uỷ thác để nhân danh Thượng Đế, nói với các tín đồ của mình?

Xin nhường cho John Oman nói lời cuối cùng; "Tôi thường bối rối về vấn đề điều gì tạo nên một buổi nhóm thờ phượng. Nó không tuỳ thuộc việc phải có hay không có một bài tụng niệm. Nó không tuỳ thuộc vào lòng chân thành, hoặc cả là vào lòng đạo của vị mục sư. Càng ngày tôi càng nghĩ nhiều hơn rằng nó tuỳ thuộc vào việc cùng thờ phượng với hội chúng, chứ không phải chỉ là hướng dẫn sự thờ phượng của họ mà thôi (Office of the Ministry, p.11).
Sign in to Google to save your progress. Learn more
Email *

1. Theo Calvin, tại sao các hội thánh cần giữ một số hình thức cầu nguyện cố định?

*
5 points

2. Một lợi ích chính của bài cầu nguyện cố định là gì?

*
5 points

3. Một nhược điểm của cầu nguyện theo hình thức cố định là gì?

*
5 points

4. Cầu nguyện tự do có ưu điểm gì nổi bật?

*
5 points

5. Theo quan điểm của Isaac Watts, một nhược điểm của cầu nguyện tự do là gì?

*
5 points

6. Vì sao các tín đồ Thanh giáo phản đối một số hình thức cầu nguyện cố định?

*
5 points

7. Cầu nguyện tự do có thể dẫn đến nguy cơ gì trong buổi thờ phượng?

*
5 points

8. Một trong những lợi ích của cầu nguyện cố định là:

*
5 points

9. Cầu nguyện tự do không chuẩn bị trước thường được gọi là gì?

*
5 points

10. Vì sao các tín đồ Thanh giáo nhấn mạnh sự cần thiết của cầu nguyện tự do?

*
5 points

11. Một nguy cơ tiềm tàng khi sử dụng cầu nguyện tự do trong thờ phượng là gì?

*
5 points

12. Theo Isaac Watts, một bài cầu nguyện tốt cần phải:

*
5 points

13. Việc cầu nguyện tự do có thể được cải thiện bằng cách nào?

*
5 points

14. Kết hợp giữa cầu nguyện tự do và cầu nguyện cố định có ý nghĩa gì?

*
5 points

15. John Oman cho rằng mục đích chính của mục sư trong buổi thờ phượng là gì?

*
5 points
Submit
Clear form
This content is neither created nor endorsed by Google.