Bài 23
Mục tiêu 3: Giải thích những niềm tin của Cơ Đốc giáo về Đức Chúa Trời, Đấng Mê-si, Con Đức Chúa Trời, Ba Ngôi và những bài tín điều của giáo hội.

Hữu Thể Tối Cao

Cơ Đốc giáo đặt căn bản thần học của nó trên quan niệm của người Do Thái về Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh Cựu Ước. Tất cả các thuộc tánh được gán cho Đức Chúa Trời đều được giáo hội công nhận. Tuy nhiên, người Cơ Đốc tin rằng Ngài đã tự mặc khải chính mình Ngài trong con người Jesus Christ. Bằng cách nhìn đến Ngài, người ta có thể biết Đức Chúa Trời như thế nào (Giăng 14:9). Trong Thánh Kinh Cựu Ước, Chúa Jesus giống như một nụ hoa; còn trong Kinh Tân Ước, Ngài đã trở nên nở rộ. Trong kinh Cựu Ước, Ngài bị ẩn khuất; còn trong kinh Tân Ước, Ngài được mặc khải. Trong kinh Cựu Ước, Ngài được che kín; trong kinh Tân Ước, Ngài được phơi bày ra.

Đấng Mê-si

Từ ngữ "Mê-si" đến từ tiếng Hê-bơ-rơ có nghĩa là "Đấng được xức dầu". Người Hê-bơ-rơ xức dầu cho ba loại cá nhân: các vị vua (1 Sa-mu-ên 10:1), các thầy tế lễ (Lê-vi 4:3, 8:30) và các tiên tri (Thi Thiên 105:15). Lời hứa về Đấng Mê-si được liên kết với Con Vua Đa-vít mà vương quốc của người sẽ còn mãi mãi (2 Sa-mu-ên 7:12-16). Chúa Jesus không trực tiếp dạy rằng Ngài là Đấng Mê-si, nhưng Ngài đã chấp nhận lời của Anh-rê nói với Phi-e-rơ: "Chúng ta đã thấy Đấng Mê-si" (Giăng 1:41). Khi người đàn bà Sa-ma-ri nói rằng Đấng Mê-si sẽ hiện đến, Chúa Jesus đã nói với bà rằng: "Ta, người đang nói với ngươi đây, là Đấng đó" (Giăng 4:26). Khi các thầy tế lễ hỏi Ngài có phải là Đấng Christ không, Ngài đã trả lời: "Ta chính phải đó" (Mác 14:61-62).

Con Đức Chúa Trời

Không có một giáo chủ nào khác đã tuyên bố mình là Con Đức Chúa Trời hay là một thần linh, còn các Cơ Đốc Nhân lại tin rằng Chúa Jesus là Đức Chúa Trời đúng như Ngài đã nói. Ngài được tuyên bố là Đức Chúa Trời trở nên xác thịt bởi: những điều Ngài đã làm, những điều Ngài đã phán và những gì Ngài có ở nơi Ngài. "Ngài đi từ chỗ nọ qua chỗ kia làm phước" (Công vụ 10:38). "Chẳng hề có người nào đã nói như người nầy" (Giăng 7:46). "Chúng ta đã ngắm xem sự vinh hiển của Ngài" (Giăng 1:14). Vào lúc gần cuối chức vụ của Ngài, Chúa Jesus đã hỏi ba môn đồ thân tín của Ngài rằng người ta đã tin Ngài là ai. Chúa Jesus đã khen ngợi Phi-e-rơ vì câu trả lời của ông và Ngài nói rằng sự hiểu biết đó là do Đức Chúa Trời tỏ ra cho ông, sự xưng nhận nầy đã trở thành viên đá nền tảng cho giáo hội Cơ Đốc: "Chúa là Đấng Christ, Con Đức Chúa Trời hằng sống" (Ma-thi-ơ 16:16).

Ba Ngôi

Trước khi Chúa Jesus rời trần gian, Ngài đã hứa ban cho Đức Thánh Linh, là một Đấng yên ủi khác, Đấng ấy sẽ lấy những sự của Đức Chúa Trời mà bày tỏ ra cho các môn đồ. Ngài sẽ cáo trách thế gian về tội lỗi, Ngài sẽ dẫn dân sự Ngài vào lẽ thật và Ngài sẽ ban cho họ quyền phép để làm chứng cho toàn thế gian (Giăng 14:16-18, 26; 15:26; 16:7-14). Đức Thánh Linh là Đức Chúa Trời, là đại biểu của Đấng Christ ở thế gian ngày nay. Đức Cha, Đức Con và Đức Thánh Linh là ba ngôi hiệp nhất. Mỗi vị đều chứng tỏ có những phẩm chất cá tính và thần tính hoàn toàn bình đẳng với nhau và đã được biểu hiện ra không thể nào lẫn lộn được, hoàn toàn Hiệp nhất trong Ba ngôi. Đây là một sự mầu nhiệm đối với đầu óc hữu hạn của chúng ta, nhưng Ba Ngôi nầy tiêu biểu về Đức Chúa Trời vô hạn, đã được bày tỏ ra theo như chúng ta tin và tin cậy nơi sự mặc khải nầy, khi mà chúng ta không thể hoàn toàn hiểu hết ý nghĩa của Ba Ngôi đó.

Những Bài Tín Điều Của Giáo Hội

Thần đạo học của giáo hội đã trải qua nhiều cuộc tranh luận suốt bao thế kỷ. Những nhà lãnh đạo giáo hội đã cố gắng lập ra các bản tín điều để phô diễn niềm tin của Cơ Đốc giáo. Bài tín điều các sứ đồ là một trong những bản tín điều đầu tiên được đề xuất. Vào khoảng năm 185 S.C, giám mục ở Lyons xứ Gaul là Irenaeus đã phát hành một cuốn sách trong đó ông đã binh vực giáo lý sau đây của sứ đồ theo các sách phúc âm và các thư tín. Giáo hội tại Rô-ma đã công nhận bản tín điều nầy để bảo vệ đức tin chống lại phái Trí huệ (Gnostics) và phái Marcion của thời kỳ đó. Đây là hình thức ban sơ của bản tín điều đó:

Tôi tin nơi Đức Chúa Trời là Cha toàn năng, và tin nơi Jesus Christ, Con độc sanh của Ngài, là Chúa chúng ta. Ngài được sinh ra bởi nữ đồng trinh Ma-ri, chịu thương khó dưới tay Bôn-xơ-phi-lát, bị đóng đinh, chịu chết và được chôn. Ngày thứ ba Ngài sống lại từ trong kẻ chết, Ngài thăng thiên, ngồi bên hữu Đức Chúa Cha, từ đó Ngài sẽ đến để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Tôi tin nơi Thánh Linh, Hội Thánh, sự tha tội, và sự sống lại của thân thể.

Bài tín điều Nicene được Hoàng đế Constantine ở Rô-ma công nhận vào năm 325 S.C, nhằm bài bác sự tranh luận của phái Arian. Vấn đề đưa ra là Chúa Jesus có phải là vĩnh hằng hay là hữu hạn. Arian đã cho rằng Chúa Jesus đã được tạo nên. Ngài có một ban đầu và không thể là vĩnh hằng cũng không có đồng bản thể (Substance) như Đức Chúa Trời. Bản tín điều nầy tuyên bố rằng Chúa Jesus được sinh ra chớ không được tạo dựng và Ngài có cùng bản thể như Đức Chúa Cha. Một bài tín điều khác là bài tín điều Chalcedon vào năm 451 S.C. tuyên bố rằng Chúa Jesus có hai bản tính và vẫn là Đức Chúa Trời. Ngài là một thân vị, là Ngôi Lời của Đức Chúa Trời, nhưng Ngài có cả nhân tánh và thần tánh.

Mục tiêu 4: Nhận biết những quan niệm của Cơ Đốc Giáo về con người, tội lỗi và sự cứu rỗi.

Tình Trạng Của Loài Người

Con Người Và Tội Lỗi

Người Cơ Đốc tin rằng con người được tạo dựng không có tội lỗi, nhưng vì A-đam, là đầu của nhân loại, đã sa ngã nên tội lỗi đã vào trong thế gian. Giờ đây mọi người đều được sinh ra trong tình trạng tội lỗi, và vì mọi người đều sinh ra trong tội lỗi có một bản chất tội lỗi nên họ phạm tội. Như vậy, mỗi người sẽ bị phán xét về tội riêng của mình, chớ không phải tội của A-đam (Rô-ma 3:12, 23; 5:17-19). Tội lỗi là thiếu sự đồng nhất với luật pháp Đức Chúa Trời, là phản nghịch luật pháp của Đức Chúa Trời (1 Giăng 3:4), là không công bình (1 Giăng 5:17), là thiếu đức tin (Rô-ma 14:23), là biết điều lành mà không làm (Gia-cơ 4:17). Những hành động tội lỗi mà con người phạm là những sự biểu lộ bản chất tội lỗi của họ mà chúng ta đã phân cách họ với Đức Chúa Trời. Hình phạt tối hậu cho tội lỗi là sự chết. Trừ phi hình phạt cho tội lỗi đã được trả, bằng không thì con người bị phân cách với Đức Chúa Trời mãi mãi.

Sự Cứu Rỗi

Tuy nhiên, Đức Chúa Trời đã cung ứng một phương cách để thắng hơn sự phân cách giữa Ngài với con người. Nó được gọi là "sự chuộc tội" (hay sự giải hòa) và có nghĩa là được trở lại thành "Một" với Đức Chúa Trời. Qua sự hi sinh của Chúa Jesus là Chiên Con của lễ Vượt qua, Ngài đã cung ứng sự cứu chuộc, giá chuộc để được thoát khỏi vòng nô lệ, và sự cứu rỗi. Vì tiền công của tội lỗi là sự chết, con người đáng phải chết vì tội của mình. Nhưng Chúa Jesus đã chịu thế cho con người, Ngài đã mang sự hình phạt tội lỗi trên chính mình Ngài và đã thỏa đáp những sự đòi hỏi công bình của Đức Chúa Trời. Ngài đã trả sự hình phạt cho tội lỗi (Ê-sai 53:2; 2 Cô-rinh-tô 5:21). Sự chết và sự sống lại của Ngài đã trả đủ giá. "Ngài đã bị nộp (cho sự chết) vì tội lỗi chúng ta và sống lại vì sự công bình của chúng ta" (Rô-ma 4:25).

Vậy thì, con người phải làm sao để sự cứu rỗi nầy có hiệu lực cho chính mình? Phao-lô đã nói: "Nếu bởi một người (A-đam) mà sự chết đã cai trị bởi một người ấy, thì huống chi những kẻ nhận ân điển và sự ban cho của sự công bình cách dư dật nhờ một mình Đức Chúa Jesus mà cai trị trong sự sống là dường nào?" (Rô-ma 5:17). Trong Giăng 1:12, chúng ta lại đọc được: "Nhưng hễ ai đã nhận Ngài, thì Ngài ban cho quyền phép trở nên con cái Đức Chúa Trời, là ban cho những kẻ tin danh Ngài". Do đó, câu trả lời là vấn đề tiếp nhận Chúa Jesus Christ vào trong lòng mình. Ở một chỗ khác, Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng phải có sự xưng nhận và từ bỏ tội lỗi, và quyết định bước đi trong đường lối của Đấng Christ (1 Giăng 1:9; Rô-ma 10:9-10). Những ai xưng nhận tội lỗi và tiếp nhận Chúa Jesus thì không chỉ nhận được sự cứu rỗi, mà còn sẽ được sự sống lại trong đời sống mới khi Chúa Jesus tái lâm.

Thập Tự Giá

Cây thập tự đã trở thành biểu tượng của Cơ Đốc giáo vì sự chết của Chúa Jesus là tâm điểm của sự cứu rỗi. Nếu Chúa Jesus không chịu chết thì tội lỗi cũng không được cất bỏ (bôi xóa) và Chúa Jesus cũng chỉ là con người như bao giáo chủ khác. "Nhưng bây giờ, Đấng Christ đã từ kẻ chết sống lại, Ngài là trái đầu mùa của những kẻ ngủ... Như trong A-đam mọi người đều chết, thì cũng một lẽ ấy, trong Đấng Christ mọi người đều sẽ sống lại. Nhưng mỗi người theo thứ tự riêng mình: Đấng Christ là trái đầu mùa, rồi tới ngày Đấng Christ đến, những kẻ thuộc về Ngài sẽ sống lại" (1 Cô-rinh-tô 15:20-23).

Lai Thế Học

Trong lai thế học của Cơ Đốc giáo, tức là giáo lý về những sự cuối cùng, có niềm tin nơi sự đích thân trở lại của Chúa Jesus. Có nhiều sự thông giải về thời điểm và những biến cố liên quan đến điều nầy, tuy nhiên, hầu hết đều tin rằng Ngài sẽ đến để cai trị và phán xét trần gian nầy, và để tạo dựng trời mới và đất mới. Với sự hiện ra của Ngài, lời cầu nguyện của các Cơ Đốc Nhân trải hai ngàn năm qua: "Nước Cha được đến" sẽ được trả lời với đầy đủ ý nghĩa.

Những biến cố của thời kỳ cuối cùng không được tuyên bố trong Kinh Thánh theo một chuỗi liên tục chính xác. Nhiều người Cơ Đốc truyền giáo tin rằng sự hiện ra của Đấng Christ được chia làm hai giai đoạn: Sự cất lên (hay sự biến hóa) của Thân thể Đấng Christ (tức Hội Thánh) (1 Tê-sa-lô-ni-ca 4:17) và sự hiện ra của Chúa Jesus Christ trong quyền năng và vinh hiển (Ma-thi-ơ 24:29-30). Giữa hai biến cố đó sẽ có một thời kỳ bắt bớ gọi là Cơn Đại Nạn. Khi Đấng Christ hiện ra, Sa-tan sẽ bị xiềng lại. Sau đó, Đấng Christ sẽ lập vương quốc của Ngài trên đất trong một ngàn năm. Tình trạng đã có trong vườn Ê-đen sau buổi sáng tạo sẽ được khôi phục (Khải Huyền 20:1-3, 7-14). Sau đó, Sa-tan sẽ bị ném vào địa ngục và Chúa Jesus sẽ phán xét kẻ ác tại Tòa Lớn và Trắng và dẫn đến việc lập trời mới và đất mới.

Cho dù có thể chúng ta không đồng ý về chuỗi liên tiếp của các biến cố thời kỳ cuối cùng, hoặc không hiểu chính xác lúc nào chúng xảy ra và xảy ra như thế nào, nhưng chúng ta đều có trách nhiệm đem Tin Lành cứu rỗi đến vì Chúa Jesus sẽ tái lâm, nên trách nhiệm của chúng ta là phải sẵn sàng để gặp Ngài (Ma-thi-ơ 24:42-44; 1 Giăng 3:3).

19. Trong vở ghi bài của bạn, hãy kể tên các biến cố xảy ra theo chuỗi liên tiếp của thời kỳ cuối cùng.

Mục tiêu 5: Nhận biết những nơi chốn, những con người và những tập tục thiêng liêng của Cơ Đốc giáo.

Những Nơi Chốn, Những Con Người Và Những Tập Tục Thiêng Liêng

Những Nơi Thiêng Liêng

Như chúng ta đã nói ở trên, chữ "Hội Thánh" lần đầu tiên được dùng để chỉ những người theo Đấng Christ. Theo thời gian, từ ngữ nầy càng ngày càng ít chỉ đến dân sự nầy mà chỉ đến nhiều hơn về tòa nhà chứa đựng số người đó. Những người Cơ Đốc đầu tiên là người Do Thái, họ hội họp trong các nhà hội của người Do Thái. Khi Tin Lành truyền đến cho dân ngoại, các tín đồ bắt đầu nhóm họp ở nhà riêng. Trong những thế kỷ sau, những giáo đường nguy nga và những nhà thờ được xây cất. Vào thế kỷ thứ hai mươi, người ta có xu hướng cất những tòa nhà đồ sộ có thể chứa nhiều chỗ hơn, nhưng lại ít trang hoàng hơn các giáo đường ban đầu. Có một sự phân biệt rõ ràng giữa kiểu thiết kế và mục đích của phía Công giáo La mã và phía Tin Lành. Người Công giáo có các nhà thờ tập trung vào bàn thờ cho bí tích thánh thể trong khi hầu hết các nhà thờ Tin Lành thì tập trung vào tòa giảng cho việc rao giảng lời Đức Chúa Trời.

Những Người Thiêng Liêng

Theo Cơ Đốc giáo, Đức Chúa Trời đã cung ứng sự tăng trưởng và sự trưởng thành thuộc linh cho các tín đồ để họ phục sự Ngài. Đó là phương tiện thông qua những con đường mà Ngài đã kêu gọi và khiến họ làm những nhiệm vụ lãnh đạo đặc biệt. Hội Thánh nhìn nhận những ân tứ và sự kêu gọi đối với những con người nầy. Phao-lô đã liệt kê những con đường được ban cho Hội Thánh và mục đích của họ (Ê-phê-sô 4:11-16). Ông cũng chỉ ra những chức vụ lãnh đạo khác trong Hội Thánh cùng những phẩm chất và bổn phận của họ trong các thư ông gởi cho Ti-mô-thê và Tít.

Những Tập Tục Thiêng Liêng

Một người trở nên một phần của Thân Thể Đấng Christ, tức Hội Thánh, bằng việc xưng nhận Chúa Jesus là Chúa. Như là một chứng cớ cho thế gian về từng trải thuộc linh nầy, người tín đồ được làm phép báp-tem bằng nước. Việc nầy tượng trưng cho sự chết về bản ngã cũ và sự mới mẻ của đời sống trong Đấng Christ. Đó là một trong hai hành động thiêng liêng, hay là thánh lễ (bí tích), đã được chỉ định trong Kinh Thánh (Rô-ma 6:1-7; Công vụ 2:38). Thánh lễ kia là tiệc thánh mà trong đó bánh và nước nho làm biểu tượng cho thân thể đã bị tan vỡ ra và huyết đã bị đổ ra của Đấng Christ (1 Cô-rinh-tô 11:17-19).

Các Ngày Lễ

Những ngày lễ của Cơ Đốc giáo là những lễ kỷ niệm công tác của Đức Chúa Trời trong Đấng Christ mà các Cơ Đốc Nhân ghi nhớ mỗi năm. Nhiều nhóm người trong Hội Thánh kỷ niệm ba biến cố chính mỗi năm:
  • Lễ Giáng Sinh: Được tổ chức vào ngày 25 tháng 12. Ngày giáng sinh tượng trưng cho ngày sinh nhật của Đấng Christ. Người Cơ Đốc nhìn nhận rằng kỳ giáng sinh không được biết chính xác, tuy nhiên, sự kiện thì quan trọng hơn nhật kỳ.
  • Chủ Nhật Phục Sinh: Người Cơ Đốc cũng kỷ niệm Chủ Nhật Phục Sinh, nó tượng trưng cho ngày Chúa Jesus từ kẻ chết sống lại. Đó là biến cố quan trọng nhất trong thế giới Cơ Đốc Giáo. Nó là một hình ảnh về sự hằng sống của Đấng Christ trong lòng một người.
  • Chủ Nhật Ngũ Tuần: Ngày thứ ba mà người Cơ Đốc kỷ niệm là Chủ Nhật Ngũ Tuần, nó nhắc nhở về sự giáng lâm của Đức Thánh Linh trên Hội Thánh.
Mục tiêu 6: Nói rõ lý do tại sao người Cơ Đốc tin rằng Kinh Thánh được Đức Chúa Trời hà hơi (linh cảm).

Những Sự Truyền Thông Của Cơ Đốc Giáo

Kinh Thánh của Cơ Đốc giáo gồm kinh Cựu Ước và kinh Tân Ước. Kinh Tân Ước làm cho trọn vẹn kinh Cựu Ước. Kinh Cựu Ước có rất nhiều kiểu mẫu và biểu tượng của những điều mà chúng được ứng nghiệm nơi Chúa Jesus Christ. Những sinh tế của thời Cựu Ước đã được thay thế bằng sinh tế toàn vẹn của Đấng Christ, là Chiên Con của Đức Chúa Trời, trên thập tự giá. Những nguyên tắc xử sự đều mới mẻ. Cựu Ước thì nói rằng: "Lấy mắt đền mắt, lấy răng đền răng". Còn Tân Ước thì bảo rằng: "Ai vả má bên hữu, hãy đưa luôn má bên tả cho họ nữa".

Cũng như trong trường hợp Kinh Thánh Cựu Ước, Kinh Thánh Tân Ước không do người sáng lập (giáo chủ) viết ra. Thực ra, Chúa Jesus đã chẳng lưu lại bất cứ sự ghi chép nào, và Kinh Thánh bảo cho chúng ta biết rằng Ngài chỉ viết một lần duy nhất ở trên cát. Có khoảng bảy tác giả trong Kinh Tân Ước: Ma-thi-ơ, Mác, Lu-ca, Giăng, Phao-lô, Gia-cơ, Giu-đe. Tất cả các sách của họ đã được viết xong trước năm 100 S.C. Nhưng làm thế nào chúng ta biết được Kinh Thánh là Lời được hà hơi của Đức Chúa Trời? Câu trả lời là ở trong từ ngữ "kinh điển" (canon). Nó xuất xứ từ chữ "Kanon" của Hi-lạp, nghĩa là "một cái cần đo hay một cái thước để đo lường". Từ ngữ "canon" ám chỉ đến cái tiêu chuẩn mà dựa vào đó sách nào được nhận là Kinh Thánh. Tiêu chuẩn Kinh Thánh Tân Ước đã được Hội Thánh nhìn nhận dưới sự dẫn dắt của Đức Thánh Linh. Có hai tiêu chuẩn chính được dùng để thử nghiệm tính kinh điển, đó là sự hà hơi thiên thượng (Divine Inspiration) và những đặc tính siêu nhiên (Supernatural Characteristics). Athanasius (295-373 S.C.) là "cha đẻ của chính thống", người đã chống đối Arius tại Hội Nghị Nicea, là người đầu tiên đã liệt kê tất cả hai mươi bảy sách được kể là kinh điển của Tân Ước, gọi là "nguồn sự cứu". Những sách đã được viết ra khác được gọi là Ngụy Kinh (hay Thứ Kinh) (Apocrypha các sách ẩn giấu), chúng không đáp ứng được tiêu chuẩn tính kinh điển, do đó chúng bị giáo hội Tin Lành loại bỏ.

Kinh Tân Ước được xếp đặt theo đề tài. Trước tiên là năm sách lịch sử: Ma-thi-ơ, Mác, Lu-ca, Giăng, Công vụ các sứ đồ, sau đó là hai mươi mốt thư tín tức là các sách giáo lý, một sách tiên tri là sách Khải huyền, tổng cộng là hai mươi bảy sách. Kinh Tân Ước được chia ra thành từng chương (hay đoạn) do Hồng y Hugo vào năm 1240. Lần đầu tiên, sách được viết ra bằng tiếng Hi-lạp, được Jerome phiên dịch ra tiếng La tinh vào năm 405 và được ấn hành ra trong tiếng Anh vào năm 1525 (Bản Kinh Thánh Tân Ước Tyndale). Nhiều phiên bản khác của Kinh Thánh cũng đã được làm ra, nhiều thủ bản đã xuất hiện. Nó đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và là cuốn sách bán chạy nhất thế giới ngay từ đầu.

Lý do chính khiến những người Cơ Đốc gọi Kinh Thánh là Lời Đức Chúa Trời là do sự hà hơi thiên thượng của nó, được xác nhận nhờ một số sự kiện. Trước hết là bằng chứng nội tại của nó, nghĩa là chính Kinh Thánh tuyên bố về sự hà hơi nầy. Một câu mà bạn có thể ghi nhớ mà nó tuyên bố về điều nầy là: "Cả Kinh Thánh đều là bởi Đức Chúa Trời soi dẫn, có ích cho sự dạy dỗ, bẻ trách, sửa trị dạy người trong sự công bình" (2 Ti-mô-thê 3:16). Đức Chúa Trời đã soi dẫn các trước giả để khi họ viết ra thì họ "được Đức Thánh Linh cảm động" (2 Phi-e-rơ 1:21). Bằng cách nầy, Đức Chúa Trời có được những điều viết ra theo những gì Ngài muốn.

Những bằng chứng khác về sự hà hơi (linh cảm) của Kinh Thánh là:
  • Tính hiệp nhất của nó: Nó có nhiều đề tài nhưng chỉ có một sứ điệp. Nó được viết ra do khoảng bốn mươi trước giả trải hơn một ngàn năm trăm năm, nhưng chỉ một tác giả là Đức Chúa Trời.
  • Sự bảo tồn của nó trước nghịch cảnh: Nó đã bị tấn công, nhưng vẫn còn tồn tại từ thời Môi-se cho đến ngày nay hai ngàn ba trăm năm!
  • Tính thích hợp của nó: Nó có thể áp dụng cho mọi nền văn hóa và cho mọi giai tầng xã hội.
  • Uy quyền của nó: Nó nói trước nhiều điều về Đấng Christ và những biến cố của thế giới, nhiều điều đã được ứng nghiệm một cách đáng chú ý.
  • Bằng chứng nội tại của nó: Tân Ước trích dẫn Cựu Ước như là nguồn của nó và Tân Ước đã ứng nghiệm nhiều lời tiên tri của Cựu Ước.
  • Sự chính xác về khảo cổ học của nó: Các nhà khảo cổ đã xác nhận tính chính xác của Kinh Thánh qua những khám phá như các cuộn sách ở Biển Chết vào năm 1947.
  • Công việc lạ lùng của nó: Kinh Thánh đã là phương tiện cho sự cứu rỗi, đời sống, sự can đảm và hi vọng đời đời trong tâm lòng của hàng triệu người.
Sign in to Google to save your progress. Learn more
Email *

1. Cơ Đốc giáo đặt nền tảng thần học của mình dựa trên quan niệm của ai?

*
5 points

2. Ai đã nói: “Ai thấy Ta tức là thấy Cha” để bày tỏ Đức Chúa Trời?

*
5 points

3. Từ "Mê-si" trong tiếng Hê-bơ-rơ có nghĩa là gì?

*
5 points

4. Chúa Jesus đã chấp nhận danh hiệu Đấng Mê-si khi nào?

*
5 points

5. Trong các chức vụ sau đây, chức vụ nào không phải là một trong ba chức vụ mà người Hê-bơ-rơ xức dầu?

*
5 points

6. Câu Kinh Thánh nào khẳng định Chúa Jesus là Con Đức Chúa Trời?

*
5 points

7. Ba Ngôi Đức Chúa Trời bao gồm những ngôi nào?

*
5 points

8. Chúa Jesus hứa ban Đấng Yên Ủi khác là ai?

*
5 points

9. Hội Thánh đã công nhận bản tín điều nào đầu tiên?

*
5 points

10. Vấn đề chính của phái Arian liên quan đến bản tính của Chúa Jesus là gì?

*
5 points

11. Bản tín điều nào tuyên bố rằng Chúa Jesus có hai bản tính nhưng vẫn là Đức Chúa Trời?

*
5 points

12. Cơ Đốc nhân tin rằng loài người phạm tội vì lý do nào?

*
5 points

13. Hình phạt tối hậu cho tội lỗi theo Kinh Thánh là gì?

*
5 points

14. Chúa Jesus đã làm gì để đem lại sự cứu rỗi cho nhân loại?

*
5 points

15. Biểu tượng của sự cứu rỗi trong Cơ Đốc giáo là gì?

*
5 points

16. Cơ Đốc nhân tin rằng sự tái lâm của Chúa Jesus sẽ xảy ra trong mấy giai đoạn?

*
5 points

17. Biến cố nào sẽ diễn ra sau khi Đấng Christ hiện ra trong quyền năng và vinh hiển?

*
5 points

18. Ba ngày lễ quan trọng nhất của Cơ Đốc giáo là gì?

*
5 points

19. Cơ Đốc nhân tin rằng Kinh Thánh được Đức Chúa Trời hà hơi theo câu nào?

*
5 points

20. Ai đã xác định 27 sách của Kinh Thánh Tân Ước?

*
5 points
Submit
Clear form
This content is neither created nor endorsed by Google.