Bài 37: KẾT LUẬN VỀ VẤN ĐỀ TIỀN CỦAKinh Thánh: Ma-thi-ơ 19:16-26
I. CÁC NGUY HẠI CỦA VẤN ĐỀ TIỀN CỦA
1. Có thể sản sinh một ý thức độc lập giả tạo:Nó có thể tạo ra cảm nghĩ: "Có tiền mua tiên cũng được!" Quả thật có nhiều cánh cửa mà tiền bạc có thể mở, có nhiều ngỏ bí mà tiền bạc có thể khai thông, nhưng có nhiều điều mà không ai có thể định giá bằng tiền, mà chúng lại là những điều vô cùng cần yếu.
2. Lắm lúc bắt người ta trả giá quá đắt:Không một người phản bội nào có thể sống hạnh phúc. Giuđa Iscariốt đã khám phá giá của 30 miếng bạc là tự sát!
3. Càng có nhiều càng khó từ bỏ:Chúa dạy rằng của cải ở đâu thì lòng ở đó (Ma-thi-ơt Mt 6:21). Con người có thể quá vấn vương với tiền của thế gian, đến nỗi quên rằng vẫn còn một thế giới khác mình phải đi đến!
4. Có thể tạo lòng tham không đáy:Sự giàu có đáng lẽ phải tạo cho con người một sự thỏa mãn, vững lòng, thì nó lại tạo nên một lòng tham muốn luôn có nhiều hơn. Người ta bảo rằng "Vừa đủ là nhiều hơn điều mình đang có một chút", hoặc "Tiền của giống như nước muối, càng uống càng khát".
II. NĂM NGUYÊN TẮC CẦN NHỚ
1. Chúng ta kiếm tiền như thế nào?Cần cân nhắc xem việc kiếm tiền của chúng ta có gây thiệt hại, tổn thương cho ai, có bóc lột ai không? Có đang hỗ trợ và làm giàu cho cộng đồng hay không?
2. Chúng ta xem tiền bạc như thế nào?Chúng ta có xem tiền của là ông chủ mà mình phải khó nhọc phục vụ không? Hay chúng ta đang xem tiền của như một kẻ thù (phái khắc khổ)? Hay chúng ta xem nó như một tên đầy tớ trung thành, mà việc sử dụng nó sẽ khiến cuộc đời chúng ta cũng như nhiều người khác được thêm phong phú?
3. Chúng ta sử dụng tiền bạc như thế nào?Chúng ta sử dụng tiền của một cách ích kỷ chăng? Chúng ta chỉ sử dụng nó cho sự xa hoa tiện nghi của mình mà không cần quan tâm đến anh em thiếu thốn đang ở bên cạnh mình chăng?
- John Wesley lúc mới đến Oxford, làm được 30 Anh kim. Ông dùng 28 Anh kim và dâng 2 Anh kim. Khi lương đến 120, ông vẫn dùng 28 Anh kim, và dâng số còn lại. Nguyên tắc của ông là "tiết kiệm tất cả những gì có thể tiết kiệm để dâng tất cả những gì tôi có thể dâng".
4. Chúng ta thấy con người quan trọng như thế nào?Đừng quên rằng con người quan trọng hơn đồ vật, quan trọng hơn tiền của, quan trọng hơn máy móc... Con người phải được ưu tiên!
5. Chúng ta dâng hiến như thế nào?Dâng tiền không thì chưa đủ. Đừng để người ta nhận định rằng chúng ta đã dâng rất nhiều, nhưng chẳng bao giờ chịu dâng chính mình. Dâng chính mình mới là điều quan trọng!
Bài 38: THÁI ĐỘ ĐỐI VỚI THẾ GIỚIKinh Thánh: Giăng 17:6-19Mỗi người đều phải sống trong hai thế giới: Thế giới riêng tư (của chính mình, gia đình mình) và thế giới cộng đồng trong xã hội, quốc gia, thế giới.
I. NGƯỜI BỊ CHÌM NGẬP HOÀN TOÀN TRONG THẾ GIỚI
1. Đắm mình theo kiểu hiện sinh:Một số người đắm mình vào thế giới với suy nghĩ: "Hãy ăn, uống và hưởng thụ vì ngày mai chúng ta sẽ chết", hay "Hãy thu thập những nụ hồng trong khi bạn còn có thể làm được" (Herrick), vì "khi cuộc đời này qua đi, sẽ chẳng còn lại gì cả ngoài một đêm tối vô bờ, và một giấc ngủ chẳng bao giờ thức dậy nữa" (Catallus).
2. Đắm mình kiểu "đạo làm người":Phương cách này thông thường hơn, họ không hề ý thức rằng sẽ còn một thế giới khác. Họ cố sống đứng đắn, nhưng xem tôn giáo là điều họ không cần, không quan tâm vì không phù hợp với họ.
- Đắm mình trong thế gian không nhất thiết phải là thích hưởng lạc. Nó chỉ đơn giản là không hay biết gì về những chân trời vượt khỏi cuộc đời này.
II. NGƯỜI ĐỐI LẬP VÀ CHỐI BỎ CUỘC ĐỜI NÀY
1. Trốn tránh xã hội:Đây là khuynh hướng mệnh danh Cơ Đốc giáo, nhưng không hề đem ích lợi gì cho xã hội cả. Họ tự nguyện tách xa cuộc đời được bao nhiêu hay bấy nhiêu với lý tưởng "cố sống cho một mình Thượng Đế mà thôi!". Phong trào này rất thịnh hành vào thế kỷ thứ ba và thứ tư.
2. An tu:- Có người ẩn tu trên núi Sinai 55 năm, với lý luận: "Ai được người trần thăm viếng, thì thiên sứ không viếng thăm".
- Có người sống trên cây trụ cao từ 2 mét đến 20 mét.
- Có người tự nhốt mình trong một phòng nhỏ xây kín, chỉ chừa một khe hẹp để tiếp tế thức ăn, với mong ước "mình đã chết đối với thế gian"!
3. Phê bình:Đây là lối sống vị kỷ nhất. Họ chỉ lo "cứu linh hồn" mình, mà không hề quan tâm đến sự sống chết của người chung quanh. Họ đã trở nên gánh nặng cho người khác thay vì giúp người khác thoát khỏi gánh nặng...
III. QUAN ĐIỂM CƠ ĐỐC GIÁO
1. Không thuộc về thế gian:Chúa Jesus dạy rằng người theo Chúa không còn thuộc về thế gian (Giăng 17:14-16) đến nỗi bị thế gian ghen ghét (15:18).
2. Được sai vào giữa thế gian:Nhưng Chúa Jesus đã sai họ vào giữa thế gian để làm muối của đất, ánh sáng của thế gian vì Chúa yêu nhân loại (3:16).
3. Vừa dấn thân vừa tách biệt:Hãy nhận thức có một thế giới đằng sau thế gian này. Hãy dấn thân vào thế gian với tinh thần tách biệt để bày tỏ Chúa.
Bài 39: CƠ ĐỐC NHÂN LÀ CÔNG DÂN TỐTKinh Thánh: Rô-ma 13:1-8
I. CÁC GƯƠNG MẪU TRONG TÂN ƯỚC
1. Gương của Chúa Jesus:Chúa Jesus sẵn sàng và tự nguyện nộp thuế (Ma-thi-ơ 17:24-27). Ngài không hề thắc mắc về nghĩa vụ đối với hoàng đế cũng như nghĩa vụ đối với Thượng Đế: Cả hai phải được chu toàn (22:15-22).
2. Gương của các sứ đồ:- Phaolô có thể tự hào là một công dân La Mã và ông đòi hỏi quyền lợi công dân của mình (Công Vụ 21:39; 22:25).
- Phaolô dạy rằng nhà cầm quyền là một định chế do Thượng Đế thiết lập, cho nên Cơ Đốc nhân có bổn phận phải vâng phục nhà cầm quyền. Ông giải thích rằng quan tòa là đầy tớ của Thượng Đế, để thưởng kẻ lành và phạt kẻ dữ.
- Phaolô cũng dạy Cơ Đốc nhân cầu nguyện cho bậc cầm quyền (I Ti-mô-thê 2:2).
- Phierơ cũng dạy: "Hãy kính sợ Thượng Đế và tôn trọng vua" (I Phi-ê-rơ 2:17).
II. NHỮNG SAI LẦM CỦA CHÍNH QUYỀN LA MÃ
1. Khởi đầu vô cùng tốt đẹp:Trong những ngày hưng thịnh của mình, công lý và sự vô tư của La Mã được mọi người biết đến, đến nỗi các dân tộc bị La Mã chinh phục không hề thù ghét, mà còn biết ơn họ nữa: Bọn hải tặc bị quét sạch khỏi vùng biển, bọn cướp bóc bị tiêu trừ trên các trục lộ giao thông... Người ta có thể du hành an toàn và sống trong cảnh thái bình, nhờ nền hòa bình của La Mã.
2. Đòi hỏi thờ lạy Sêsa:Tinh thần của đế quốc La Mã lúc đầu như một cái gì thiêng liêng, thần thánh. Tuy nhiên, tinh thần của La Mã trừu tượng đã nhập thể vào các hoàng đế! Lần lần, người ta chuyển sự thờ lạy sang cho hoàng đế là sự thể hiện của đế quốc La Mã.
- Chính quyền La Mã quy định tất cả công dân, mỗi năm một lần, phải thắp một nén hương cho Sêsa và nói "Sêsa là Chúa". Người đó sẽ được cấp cho một chứng chỉ. Tuy nhiên sau khi làm như vậy, người đó có thể đi ra để thờ lạy bất cứ nam hay nữ thần nào, miễn là việc thờ phượng đó không gây tác hại gì cho trật tự công cộng hay nền luân lý đạo đức chung.
3. Phản ứng của Cơ Đốc nhân:Việc thờ lạy Sêsa đúng ra chỉ là trắc nghiệm lòng trung thành của một công dân về phương diện chính trị hơn là tôn giáo. Tuy nhiên, đối với Cơ Đốc nhân, chỉ có Chúa Jesus mới là Chúa, vì thế, họ không thể nói "Sêsa là Chúa".
4. Lưu ý:Trong thời Phaolô chưa có việc thờ lạy hoàng đế như thời sách Khải Huyền. Cơ Đốc nhân phải là công dân tốt, nghĩa là phải vâng phục nhà cầm quyền. Nhưng nhà cầm quyền cũng phải làm đúng chức năng của người đầy tớ Thượng Đế để được Cơ Đốc nhân vâng phục.