Mục tiêu 2: Mô tả mối quan hệ giữa giảng và dạy.
Cả Cựu ước lẫn Tân ước đều nói về dạy và giảng, trong nhiều trường hợp, có thể thay thế cho nhau. Có lẽ bạn quan sát thấy rằng trong những văn phẩm của mình Phaolô kết hợp hai chữ này. Điều đó nói lên rằng dạy có quan hệ mật thiết với giảng. Dạy là phần của Phúc âm dựa vào sự công bố của lời Chúa. Nó có thể được định nghĩa như là lời khuyên có tính luân lý và đạo đức chỉ cho những người đã tiếp nhận sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Jêsus Christ biết sống cách nào trên trần gian này. Dựa vào sự sử dụng những từ ngữ này của Kinh Thánh, tách rời dạy và giảng là điều sai lầm. Như vậy, chúng ta có thể chắc chắn rằng: dạy luôn luôn tùy thuộc vào và bắt nguồn từ sự giảng.
Tuy nhiên, một số người có sự phân biệt sắc bén giữa dạy và giảng. Họ tin rằng hai chữ này loại trừ nhau. Dù có những sự phân biệt, nhưng dạy và giảng không thể tách rời nhau. Trong chức vụ của Chúa Jêsus thật khó vẽ lằn ranh giới khác biệt rõ ràng giữa hai điều này. Cũng không có nghĩa là giảng và dạy chỉ là hai tên của cùng một chức năng, trái lại nó chỉ mối quan hệ mật thiết với nhau.
Phaolô không để lại trong tâm trí chúng ta chút nghi ngờ nào việc ông xem sự giảng về Đấng Christ chịu đóng đinh là trách nhiệm đầu tiên của ông. Ngay cả Kinh Thánh cũng chỉ cho chúng ta thấy ông tham gia cả hai chức vụ dạy và giảng. Tại Êphêsô, ông dạy theo kiểu tranh luận của người Hylạp trong hội trường Tiranu (Công vụ 19:9). Và trong các bức thư gởi cho Timôthê, ông nhấn mạnh tầm quan trọng của sự dạy dỗ, cả trong chức vụ của riêng Timôthê và Hội thánh nói chung. Theo những phần Kinh Thánh ghi lại, dạy và giảng không loại trừ nhau, mà là bao hàm nhau. Hãy quan sát những điều sau đây:
1. Sự giảng Tin lành của các sứ đồ bao gồm yếu tố dạy. Trong Tân ước, cách dùng của những chữ 'tiên tri', 'giáo sư' và 'mục sư' hình như có thể thay thế cho nhau. Vì bản liệt kê những chức năng trong thư Côrinhtô. (I Cô-rinh-tô 12:28-30) sót chữ 'thầy giảng', nên chúng ta cho rằng những chữ khác hay những chức năng khác bao gồm công tác này. Hơn nữa, khi so sánh Công vụ 17:18 với 17:19 chúng ta thấy rằng sự giảng của Phaolô về Chúa Jêsus và sự phục sinh ám chỉ là một sự 'dạy dỗ' mới!
Khi chúng ta nghiên cứu về những bài thuyết giảng của Phaolô tại Littrơ và Athên, bạn nhận thấy rằng những dạy dỗ căn bản về độc thần (chỉ tin có một Đức Chúa Trời) và những trách nhiệm đạo đức của con người hình thành một phần của sự giảng của ông. Ông phải giảng như vậy, vì ông muốn xóa đi niềm tin nhiều thần (đa thần) của người nghe ông và những sự thờ cúng thần tượng khác của họ. Sứ đồ hầu như thường phải biện bác và tranh luận trong khi giảng vì sự giảng Tin lành gắn liền với đối thoại và thảo luận cẩn thận. Trong Cô-lô-se 1:27-28 ông sử dụng một chữ Hy lạp có nghĩa là 'nói cho thông suốt' (to tell throughly), thường được dùng trong quan hệ với người chưa tin. Kinh Thánh ghi lại rằng Phao-lô dạy trong nhà hội, nơi chợ búa, và trong những trường dạy triết học. Và tất cả những sự dạy này đã truyền giảng cả về mục đích lẫn tâm trạng.
2. Sự dạy của các sứ đồ cho Cơ đốc nhân bao gồm yếu tố giảng. Khi bạn bắt đầu tham gia dạy Lời Chúa, bạn thấy rằng nó bắt rễ từ nền đất công bố. Chúng ta thấy bằng cớ này trong sự giảng của Phaolô. Lặp đi lặp lại chúng ta truy nguyên những vấn đề được dạy trong tất cả các thơ tín đều đâm rễ từ sự qui đạo, hoặc chúng ta nhận diện những điều ấy bằng sự kết hợp trực tiếp với ân phúc và những sự kiện cứu chuộc. Thật ra, chúng nhận được sự sống và ý nghĩa bởi mối quan hệ của chúng với kinh nghiệm qui đạo.
Vì thế, hiển nhiên một mục sư trình bày những lời phán của Đấng Christ trong sự công bố. Ngay cả, ông cũng phải giới thiệu Ngài là Đấng Christ. Đấng kêu gọi chúng ta bước vào mối thông công cá nhân năng động và gần gũi với Đức Chúa Trời. Và kết quả của mối quan hệ này sẽ được diễn đạt trong một đời sống được thay đổi - một đời sống phản chiếu hình ảnh của Đấng Christ.
MỤC ĐÍCH CỦA SỰ DẠYKhi Chúa Jêsus giao trọng trách cho những môn đệ của Ngài đi và dạy mọi quốc gia (Ma-thi-ơ 28:19-20), thì Ngài thiết lập một khuôn mẫu cho nhiệm vụ của Hội thánh vốn báo hiệu sự bi thảm nếu bị phớt lờ đi. Chức năng dạy không thể hoàn tất trong một chương trình trước đây hay đạt kết quả trong một mùa. Sự dạy đòi hỏi kiên trì nghiên cứu, chuẩn bị cẩn thận, một khải tượng không nản lòng, và sự tận hiến đối với sự thách thức của Thầy, mà đó có thể là một lý do hiếm thấy trong một số Hội thánh. Khi chúng ta nhấn mạnh vào mục đích của sự dạy, bạn sẽ thấy cách tốt hơn tại sao dạy dỗ lại đòi hỏi những phẩm chất mà chúng ta vừa nêu ở trên.
Mục tiêu 3: Nhận diện những lời diễn đạt bày tỏ tại sao có một nhu cầu dạy trong Hội thánh.
NHU CẦU DẠY TRONG HỘI THÁNHNhìn từ quan điểm của Tân ước, sự dạy dỗ có một số mục đích. Chúng ta ghi nhận rằng sự dạy dỗ gắn liền một cách sống động với sự công bố của Phúc âm. Vì vậy, Phúc âm Mathiơ chỉ ra rằng sự ủy thác để chinh phục linh hồn hư mất phải chiếm ưu tiên trong ý thức rằng đó là khởi đầu sự kêu gọi vào đời sống thuộc linh. Nhưng khi người ta vượt qua sự chết để vào sự sống và trở nên môn đệ của Đấng Christ, thì họ cần được dạy dỗ để vâng theo những điều Đấng Christ truyền bảo. Điều này đòi hỏi việc giới thiệu nhiều lần để họ biết sự kêu gọi của Đấng Christ để thật sự kết ước làm môn đệ. Chúng ta cũng phải cho họ đối diện với thực tế của Vương quốc và thách thức họ đầu phục trọn vẹn cho điều đó.
Một mục đích có liên quan đến sự dạy là nhu cầu huấn luyện tín hữu đầy đủ hơn về lẽ thật của Phúc Âm. Họ cần phải vượt qua những đòi hỏi căn bản để duy trì sức sống thuộc linh và tiến tới sự lớn lên, phát triển, và trưởng thành thuộc linh. Họ cũng cần bỏ lại phía sau những sự hiểu biết không đúng đắn về Đức Chúa Trời, về chính mình và về thế gian. Trong khi Mười hai môn đệ của Chúa Jêsus lớn lên với một số thành kiến Do Thái, thì mỗi chúng ta cũng mang theo mình thành kiến, tính khí và sự nhận thức về những sự vật vào trong kinh nghiệm Cơ đốc của mình. Vì thế chúng ta cần có một sự chuyển biến về phẩm cách liên quan đến việc lìa bỏ những sự việc cơ bản và không bị kiểm soát của sự non trẻ thuộc linh (sữa) và tiến lên gánh vác những trách nhiệm trong sự phát triển thuộc linh, sự làm chứng và sự lãnh đạo (thực phẩm cứng - Hê-bơ-rơ 5:11-14). Một mục đích xa hơn của sự dạy là nhu cầu huấn luyện tâm trí và tấm lòng cho những môn đệ để họ phục vụ như Chúa Jêsus đã phục vụ. Chắc chắn bạn nhớ rằng những học viên của Chúa Jêsus về sau đã trở thành 'những người được sai đi'. Vậy, dựa theo gương mẫu của Chúa, chúng ta cần phải đào tạo những con người để giúp mở rộng và làm vững công việc của Chúa trên khắp đất. Bằng chứng từ những cuộc quan sát và những hình thức nghiên cứu khác cho thấy rõ rằng tín hữu trong Hội thánh biết rất ít về Kinh Thánh. Sự kiện thất học về Kinh Thánh trong thời đại chúng ta là một nguyên nhân của những vấn đề trầm trọng. Mặc dù chúng ta không thể đổ lỗi cho tình trạng bi thảm hiện tại về giáo dục Kinh Thánh dựa trên một yếu tố đơn độc, nhưng có một số lý do lại làm rõ nét vấn đề này. Tôi đã liệt kê hai lý do chính mà tôi đã quan sát hoặc đọc được ở trên khắp thế giới.
- Sự đổ vỡ của gia đình. Đặc tính tổ chức của gia đình thời 'Giao ước cũ' đòi hỏi cha mẹ phải nuôi nấng con cái trong sự nghiêm nhặt và chuyên cần dạy dỗ Kinh Thánh (Phục truyền 6:5-9). Đức Chúa Trời truyền lịnh dân sự Ngài phải suy gẫm Lời Chúa ngày và đêm. Ngài cũng bảo họ phải dạy những mạng lịnh của Ngài cho những thành viên trong gia đình cách tự nhiên. Mọi sự ngay cả việc trang trí trong gia đình - cũng phải chịu ảnh hưởng bởi sự nhấn mạnh đặc biệt việc truyền đạt Lời Đức Chúa Trời. Hơn nữa, Đức Chúa Trời đã thiết lập những phương cách để nhắc nhở luôn luôn những thành viên trong gia đình về những bổn phận thuộc linh của họ. Môi trường sống và gia đình, vì vậy, là phương tiện đầu tiên Đức Chúa Trời dùng để dạy và truyền đạt những giá trị thuộc linh. Bất hạnh thay, gia đình, nơi Đức Chúa Trời dự kiến là đồn lũy của sự giáo dục thuộc linh, lại mất ảnh hưởng vì bị đổ vỡ. Bây giờ gia đình hoàn toàn lệ thuộc vào Hội thánh để đảm nhiệm công tác giáo dục Cơ đốc. Về một phương diện gia đình bị cuốn hút vào mạng sinh sống hiện đại ngày nay mà đã hầu như rút mất khung cảnh tự nhiên của cuộc sống gia đình. Tiếc thay, đôi khi Hội thánh lại góp phần trong sự vỡ ra nầy của gia đình bằng cách rút đi các thành viên của nhau trong gia đình qua những sinh hoạt không được sắp xếp cách khôn khéo. Kết quả là gia đình chẳng có đủ thì giờ ngồi lại với nhau trong những giờ phút cầu nguyện, chia sẻ và thông công có ý nghĩa. Dù vậy, lý do đáng chỉ trích nhất là sự thiếu khả năng của những người lớn trong gia đình trong việc dạy dỗ tất cả thành viên cùng sống trong ngôi nhà. Vì cha mẹ không cảm thấy được trang bị để dạy nên họ giao phó công tác này cho Hội thánh.
- Chất lượng dạy dỗ thấp kém trong Hội thánh. Dường như chúng ta đi lòng vòng ở đây. Nếu gia đình không thể dạy những giá trị và giáo lý Cơ đốc ở nhà, thì chúng ta cho rằng Hội thánh có thể. Nhưng Hội thánh làm được không? Nên nhớ, cũng rất nhiều người đã thất bại trong việc dạy dỗ tại gia đình lại là những người trong ủy ban giáo dục ở nhà thờ. Rõ ràng, chúng ta có một nan đề! Vì thế, trong hầu hết các trường hợp, dù ở gia đình hay ở Hội thánh, đã không có một chương trình hiệu quả cho việc dạy và học. Nếu điều này đúng và Hội thánh không có chương trình giáo huấn có thể thực hiện được thì trách nhiệm đầu tiên ở nơi mục sư. Phẩm chất yếu kém của sự giáo huấn có thể bắt nguồn từ quan điểm dạy dỗ của mục sư. Chẳng hạn, mục sư có xem việc dạy là một công tác của phụ nữ không? Ông có nghĩ việc huấn luyện chỉ dành cho trẻ em không? Ông có ủng hộ cho những hoạt động dạy dỗ khác nhau trong Hội thánh không? Những câu hỏi này được xem như là quyết định cho toàn bộ chương trình của Hội thánh.
Nói chung, khuynh hướng tự nhiên của mục sư có ảnh hưởng đến phương cách Hội thánh phát triển. Để tôi trình bày với bạn một ví dụ. Nếu bạn là một mục sư thích âm nhạc và bạn thực sự yêu mến âm nhạc, bạn sẽ có khuynh hướng nhấn mạnh về chương trình này trong Hội thánh. Phần âm nhạc sẽ có chiều hướng độc chiếm chương trình, và chẳng bao lâu nó được xem là khía cạnh quan trọng nhất của công việc. Như vậy, khi nào có một nhu cầu ở lãnh vực âm nhạc, bạn lập tức đáp ứng và khuyến khích người khác làm theo. Tuy nhiên, khi bạn làm cho một hoạt động nổi bật và bỏ rơi những chức năng thiết yếu khác, thì bạn thường tạo ra một chương trình mất quân bình. Sự thật của vấn đề ấy là một Hội thánh có thể mạnh mẽ mà không có một ca đoàn nhưng Hội thánh không thể mạnh mẽ nếu không có một chương trình dạy dỗ liên tục. Là mục sư, bạn đang nắm chiếc chìa khóa. Khi chúng ta kết thúc phần này của bài học, tôi muốn liệt kê vài điều thực tiễn mà bạn, là một mục sư, có thể thực hiện:
ĐÀO TẠO MÔN ĐỆ TRONG HỘI THÁNHMột mục đích khác của sự dạy dỗ trong Hội thánh là hoàn tất sự ủy nhiệm trong việc đào tạo môn đệ trong Hội thánh. Sứ đồ Phaolô cho chúng ta một khuôn mẫu đẹp về sự ủy thác việc đào tạo môn đệ trong II Ti-mô-thê 2:2 "Và những điều con đã nghe nơi ta ở giữa nhiều người chứng kiến, hãy phó thác cho những người trung tín, cũng có tài dạy dỗ kẻ khác". Ý niệm này mô tả một dây chuyền hoạt động, bắt đầu với mục sư.
Nói một cách lý tưởng, sơ đồ này có thể cứ tiếp tục, hầu như không hạn chế. Ghi nhận rằng mục sư bắt đầu với ba người, nhưng toàn thể sơ đồ tăng lên một tổng số là 16. Mặc dù tôi chắc rằng còn có những cách khác để minh hoạ II Ti-mô-thê 2:2, nhưng đây là cách đơn giản nhất để thực hành.
Nếu Hội thánh thật như là điều Đức Chúa Trời đã dự trù cho, thì Hội thánh không thể né tránh nhiệm vụ đào tạo môn đệ. Vì một môn đệ là một học trò, đào tạo môn đệ gắn liền với việc dạy và học. Hãy dừng lại một chút để suy nghĩ câu này "Mỗi Cơ đốc nhân vừa là một môn đệ (người học) vừa là một người đào tạo môn đệ".
Đề cập đến việc đào tạo môn đệ, có những sự kiện nổi bật đến với trí óc chúng ta. Trước hết, đào tạo môn đệ bắt đầu bằng sự truyền giảng. Lời công bố Phúc âm trung thành là khởi điểm vì trong sự kiểm soát của Đức Chúa Trời điều này mang lại những người qui đạo. Vì vậy, lời phán của Chúa Jêsus "Còn ta, khi ta được treo lên khỏi đất, ta sẽ kéo mọi người đến cùng ta" (Giăng 12:32). Lúc bắt đầu có thể chậm, nhưng, nói chung, sẽ có một đáp ứng đức tin thật và một nhân các tín hữu sẽ hình thành. Trong khi có thể bắt đầu với một cá nhân hoặc cả một hộ, thì nhiệm vụ đào tạo môn đồ đã chỉ mới bắt đầu.
Chúng ta cũng thấy rằng sự đào tạo môn đệ tiếp tục bằng sự nuôi dưỡng. Sau khi vui mừng vì một tội nhân ăn năn (Lu-ca 15:10), nhiều Hội thánh bỏ mặc những em bé trong Đấng Christ ấy tự lo. Trong thực tế, bạn làm gì cho một em bé mới sinh? Bạn có bỏ mặc cho nó sống một mình không? Dĩ nhiên là không! Nhưng đó lại là những gì chúng ta thường làm trong Hội thánh. Chúng ta cần phải nuôi dưỡng và chăm sóc em bé thuộc linh bằng tình yêu và sự kiên nhẫn. Dĩ nhiên, người mới tin có sự sống, nhưng người ấy không tự lực được. Phải cần nhiều dạy dỗ để người ấy lớn lên mạnh mẽ khỏe khoắn và có thể bắt đầu tự lo cho mình rồi mới lo cho người khác. Trong thời gian đó chúng ta không bỏ mặc người, nếu họ bị ốm đau hay không thực hiện được điều chúng ta mong đợi. Trái lại, chúng ta chăm sóc người và nuôi dưỡng để người phục hồi sức khỏe hoặc giúp đỡ người phát triển theo cách mà chúng ta cảm thấy người đó có thể làm. Vì vậy người ấy lớn lên, phát triển, trưởng thành và cuối cùng đứng vào chỗ những người nuôi dưỡng người khác.
Chúng ta cần loại thận trọng nầy đối với những ai vốn là thành phần trong thân thể của Đấng Christ nhưng chưa trưởng thành đầy đủ. Công vụ 2:41-42 chép rằng những người đã được báp têm "Cứ bền lòng trong sự dạy dỗ của các sứ đồ và sự thông công". Dường như mỗi người tiếp nhận tình yêu và sự tha thứ của Đức Chúa Trời qua sự rao giảng của Phierơ trong ngày lễ Ngũ tuần đều tham gia vào công tác dạy và học liên tục cả ở đền thờ lẫn tại nhà riêng. Rõ ràng, các sứ đồ đặt ưu tiên cho chức vụ ban phát Lời (Công vụ 6:4). Sau đó khi cơn bách hại khủng khiếp bắt buộc nhiều tín hữu rời Hội thánh Giêrusalem đi rải rác khắp nơi, họ "giảng Lời Chúa tại bất cứ nơi nào họ đến" (Công vụ 8:4). Bạn có thể tưởng tượng nổi điều này không? Tất cả tín hữu đều giảng được! Với tiến trình đào tạo môn đồ thực hiện như dự định, các sứ đồ có thể tập trung vào công tác ưu tiên và để những người khác thực hành chính những chức vụ của họ. Đây là một ví dụ đẹp đẽ và nó hướng chúng ta vào vấn đề phục vụ cách hợp lý.
PHỤC VỤĐào tạo môn đệ không phải là một tiến trình chỉ liên quan đến việc 'quan sát' hay 'tiếp nhận', vì nó có một mục đích rất cố định. Người được dạy để người ấy có thể dạy lại người khác, như Phaolô nhắc nhở Timôthê (II Ti-mô-thê 2:2). Tiến trình tái sinh sản nhấn mạnh vào cả hai: trách nhiệm và chịu trách nhiệm của tín hữu. Người ấy có trách nhiệm với người mình đang đào tạo và chịu trách nhiệm trước người huấn luyện mình. Những mục đích môn đồ hóa làm cho Cơ đốc nhân trở thành những người phục vụ có hiệu quả cho thân thể Đấng Christ và cho thế giới.
LÃNH ĐẠO TRONG VIỆC DẠYLà một người lãnh đạo trong Hội thánh, mục sư đang chiếm một vị trí chiến lược. Đức Chúa Trời đã ban cho mục sư món quà dạy dỗ. Mặc dù chúng ta thường kết hợp sự dạy với một sự trình bày qui định, nhưng chúng ta cũng dạy bằng cách làm gương nữa. Vì mục sư gây ảnh hưởng rất nhiều qua việc làm gương, nên chúng ta hãy xem việc này được thể hiện như thế nào.
Mục tiêu 5: Nhận diện những đặc tính của sự lãnh đạo trong việc dạy dỗ mà mục sư phải là mẫu mực.
MỤC SƯ LÀ MỘT KIỂU MẪULàm thế nào để một mục sư quan tâm đến chức năng dạy của Hội thánh? Ông có độc chiếm trách nhiệm dạy không? Ông có khả năng để làm tất cả công việc dạy dỗ cần thiết để nuôi dưỡng và phát triển kinh nghiệm thuộc linh của hội chúng mình không? Rõ ràng, câu trả lời là 'không!'. Ông có thể phát huy một số việc và có lẽ quan trọng hơn là việc tạo một không khí chung cho loại chương trình động viên những người khác dạy. Chúng ta hãy ghi nhận một số điều sau đây, và thảo luận chúng cách vắn tắt.
- Mục sư phải là một kiểu mẫu hay là một gương về sự dạy dỗ có hiệu quả như Phaolô đã khuyên Timôthê (I Ti-mô-thê 4:12). Làm như vậy, Timôthê phải gìn giữ cả đời sống và sự dạy dỗ của mình (I Ti-mô-thê 4:16). Như chúng ta đã nói ở trên, mục sư phải môn đồ hóa những tín hữu để trở nên những Cơ đốc nhân trưởng thành và huấn luyện họ để họ chinh phục và dạy những người khác. Bằng cách đó, ông trở thành một kiểu mẫu cho những người khác trong Hội thánh là những người đang học để trở nên những người dạy. Họ thấy ông đưa ra những mục tiêu cho những giai đoạn khác nhau. Có lẽ đó sẽ là một loạt bài về những giáo lý chính mà ông sẽ thông qua trong sáu tháng. Một giai đoạn khác, ông có thể dành một vài tháng nghiên cứu học hỏi về các nhân vật Kinh Thánh. Mục sư cũng có thể chú ý đến những nhu cầu đặc biệt của cá nhân hay nhóm người trong Hội thánh và lập kế hoạch dạy dỗ để đáp ứng các nhu cầu này. Như vậy mẫu mực của mục sư trong chức vụ giảng đạo chứng minh một chiến lược huấn luyện hữu hiệu những giáo viên có nhiệt tình, chứng tỏ rằng sự dạy dỗ không phải là sự cảm hứng ở phút chót, mà là một hệ thống có chủ đích, kế hoạch hẳn hoi.
- Mục sư phải đề xuất những chỉ tiêu dạy dỗ của các khóa học được tổ chức trong Hội thánh. Điều cần yếu là mục sư phải cung cấp những sinh hoạt dạy và học cho những lớp khác nhau nếu dân sự cảm thấy những hoạt động nầy là quan trọng. Hơn nữa, ông cũng cần động viên những người góp phần vào công tác dạy dỗ, cũng như mọi người nói chung, tham gia vào những dự án học tập. Nếu mục sư đang dạy một lớp hoặc giúp đỡ người khác trong việc dạy thì bước thứ nhất là cầu nguyện cho những nhu cầu của từng cá nhân trong nhóm. Đáp ứng những nhu cầu này là mục tiêu. Sự lãnh đạo của mục sư hỗ trợ cho những người tham gia việc dạy dỗ, và gương mẫu của ông dạy họ rằng đáp ứng những nhu cầu thuộc linh là mục tiêu của việc dạy. Bằng cách đó những người học tập làm giáo viên nhìn nhận giá trị công việc của mình vì họ thấy rằng công tác đó khớp với mục tiêu chung của Hội thánh.
- Mục sư phải lập những mục tiêu huấn luyện. Ông phải lên kế hoạch huấn luyện những ai có ân tứ dạy dỗ. Qua sự quan sát và tiếp xúc với nhiều người, ông sẽ thấy rằng trong Hội thánh có một số người có khả năng dạy. Kế đó là nhiệm vụ của ông góp phần phát huy những ân tứ này. Ông có thể thực hiện một đóng góp lâu bền cho Hội thánh bằng việc huấn luyện những giáo viên. Quyết định dấn thân vào công tác huấn luyện tiêu biểu cho chiều hướng suy nghĩ hoặc sự sốt sắng dạy dỗ người khác để đào tạo môn đệ, chứ không phải việc mỗi năm mở ra một hoặc hai lớp học.
Sự huấn luyện kéo dài và góp phần vào sự sống của Hội thánh đòi hỏi bạn phải lập những chỉ tiêu cho mỗi năm. Những chỉ tiêu này liên quan đến số lượng người được huấn luyện, số giờ dạy và cơ hội thực tập với những trợ huấn cụ khác nhau. Khi bạn lên khung chương trình học và đặt những chỉ tiêu, thì những học viên sẽ thấy tầm quan trọng của những gì bạn đang làm. Họ cũng thấy có một giá trị lâu dài của điều họ đang làm. Huấn luyện những giáo viên là một chức vụ liên tục mà bạn phải giữ cho sống động và tích cực nếu bạn muốn thấy hội chúng của bạn lớn lên, phát triển về mặt thuộc linh và tiến tới đời sống Cơ đốc nhân trưởng thành.
Vì những tín hữu trong Hội thánh bạn sẽ phản chiếu những giá trị của bạn, bạn xem điều nào đó là quan trọng họ cũng thấy là quan trọng. Vì vậy, bạn cần động viên những người gắn bó với công tác dạy dỗ và tuyên dương công nhận họ. Điều này nâng cao công tác dạy dỗ và khuyến khích những người khác tham gia vào sự huấn luyện. Nên nhớ mục sư không nên giữ độc quyền những trách nhiệm dạy dỗ trong Hội thánh. Mặc dù bạn có thể làm hầu hết hoặc tất cả công tác dạy dỗ khi bạn mở mang một Hội thánh mới, nhưng một trong những nhiệm vụ hàng đầu của bạn là giao phó trách nhiệm này cho những người khác.
Mục tiêu 6: Xếp đặt cho phù hợp những hướng dẫn cho một chương trình dạy cân đối với một hoạt động sinh động.