Ðế Quốc Ba-by-lôn
Ba-by-lôn là nơi loài người phát tích.
Chừng 2000 T.C., Ba-by-lôn là cường quốc bá chủ thế giới.
Rồi trong khoảng 1000 năm, thường có chiến tranh giữa Ba-by-lôn và A-sy-ri.
Rồi A-sy-ri nắm quyền bá chủ gần 300 năm (885-607 T.C.).
Lịch sử xứ Ba-by-lôn trong thời kỳ Nô-ê
Sau khi ghi tên 10 vua trị vì trước nạn nước lụt, các bi văn của xứ Ba-by-lôn thời cổ còn thêm rằng: "Bấy giờ nước lụt hủy phá mặt đất."
Rồi có ghi tên 100 vua của 20 đô thị, hoặc triều đại khác nhau, trị vì suốt thời kỳ giữa nạn nước lụt và Hammurabi, là kẻ đồng thời với Áp-ra-ham.
Về phần đầu của thời kỳ nầy, trên các tấm bản thình lình rút ngắn thời hạn của các đời trị vì, rút từ các con số lớn lao quá xuống các con số vừa phải. Như vậy là đánh dấu con đường phân chia giữa "lịch sử" (tức là những bản ghi chép các biến cố đương thời nay) và "tiền sử" (tức là những bản ghi chép các biến cố thời xưa, căn cứ vào khẩu truyền, hoặc dịch từ chữ tượng hình thượng cổ ra chữ tiết hình; và khi ấy người ta không đoán được chữ tượng hình, hay là đã đọc sai).
Những nước gồm một đô thị
Lúc mở đầu lịch sử, có những khu định cư tại Kish, Lagash, Ê-rết, U-rơ, Eridu, Nippur, A-cát, Ba-by-lôn, Larsa, Fara, và nhiều chỗ khác. Có những đô thị nhỏ chung quanh có vách lũy, mỗi đô thị ở dưới quyền cai trị của một vua, hoặc một người vừa làm vua, vừa làm thầy tế lễ. Các vua nầy xung đột với nhau luôn. Thường khi một đô thị kiểm soát được nhiều đô thị khác, và như vậy, tạo thành một tiểu đế quốc. Nền thống trị nầy kéo dài một thời gian, rồi tan rã, hoặc chuyển qua một hoặc nhiều đô thị khác. Các vua nầy ghi chép các chiến công của mình trên những tấm bảng đất sét, và mấy năm gần đây, người ta đã đào bới được cả ngàn tấm bảng như vậy. Tuy nhiên, các tấm bảng không chỉ tỏ các đô thị triều đại nầy đồng thời với nhau, hoặc kế tiếp nhau tới mực nào. Vậy, niên biểu của thời kỳ nầy rất không xác thực.
Sau đây có kê khai những triều đại chánh yếu đã cai trị xứ Ba-by-lôn giữa nạn nước lụt và thời Áp-ra-ham, y theo các tấm bảng ấy. Hãy chú ý: Những trung tâm cư dân nầy vẫn còn tập hợp chung quanh Eridu, là vườn Ê-đen theo truyền thoại, và chung quanh Fara, là nơi cư trú của Nô-ê theo truyền thoại.
Triều đại Kish
Các tấm bảng gọi triều đại nầy là triều đại thứ nhứt sau nạn nước lụt. Kish là một vùng ngoại ô của Ba-by-lôn, gần vị trí của tháp Ba-bên. Ba-by-lôn là đô thị tối cổ, rộng lớn, có từ trước nạn nước lụt, và là thủ đô chính của xứ Ba-by-lôn trong thời kỳ theo sau nạn nước lụt. Chính tại đây mà Tấn sĩ Langdon đã tìm được di tích của lớp do nước lụt làm lắng xuống.
Triều đại Lagash
Lagash là thủ đô nước thứ nhứt của người Sumériens, hoặc dòng dõi Cham, sau nạn nước lụt, ở nam bộ xứ Ba-by-lôn, cũng như Kish là thủ đô của nước Sémitique (dòng dõi của Sem) thứ nhứt ở bắc bộ xứ Ba-by-lôn; hai thủ đô nầy cách nhau chừng 100 dặm. Eannatum, một vua của Lagash, đã trị phục được toàn xứ Ba-by-lôn, và chánh quyền của ông lan rộng tới người Ê-lam ở vùng cao nguyên phía Ðông. Lagash là một trung tâm thơ viện, do Sarzec đào bới năm 1877-1901.
Triều đại Ê-rết
Ê-rết cũng gọi là Uruk, hoặc Warka, một trong những đô thị do Nim-rốt xây cất, chỉ cách vườn Ê-đen theo truyền thoại có 50 dặm. Một vua của Ê-rết tên là Gilgamesh. Một vua khác tên là Lugalziggissi, là vua đầu tiên tiến tới Ðịa Trung Hải từ nhiều thế hệ trước khi Áp-ra-ham ra đi theo tiếng Ðức Chúa Trời kêu gọi. Vua nầy tự xưng là "chúa của thế giới." Ê-rết do Roldewey đào bới năm 1913, lại do Noldeke và Jordan đào bới năm 1928-33. Họ nhận thấy Ê-rết là một trong những đô thị cổ nhứt, có 18 lớp tiền sử đặc biệt. Ê-rết là trung tâm thờ lạy thần Ishtar, và trong cuộc thờ lạy nầy, người ta bắt buộc phải phạm tội gian dâm.
Triều đại A-cát
A-cát, cũng gọi là Sippar, là một đô thị khác do Nim-rốt xây cất, và cũng là một trung tâm thơ viện. A-cát cách Fara, nơi cư trú của Nô-ê theo truyền thoại, chừng 100 dặm về phía tây bắc. Tại đây đã phát xuất SARGON đệ nhứt, là một chiến sĩ lừng danh trước thời Áp-ra-ham; ông cai trị từ xứ Ê-lam đến núi Si-na-i, và tự xưng là "vua của bốn phương thế giới." Ông là một nhà đại chinh phục, đại kiến thiết, và đã phát triển văn học. Ông sáng lập một thơ viện đồ sộ. Người ta tưởng rằng ông gần đồng thời với Chéops, là người xây cất Kim tự tháp Lớn ở Ai-cập.
Các triều đại U-rơ
U-rơ chỉ cách Eridu, vườn Ê-đen theo truyền thoại, có 12 dặm. Sau nạn nước lụt, thành U-rơ đã bị các đô thị tiếp cận cướp phá ít lâu. Nhưng đương thời Áp-ra-ham, U-rơ đã trở thành đô thị quan trọng bậc nhứt thế giới. Dưới đời trị vì của hai vua danh tiếng hơn hết, là Ur-engur và Dungi, U-rơ đã thống trị từ vịnh Ba-tư tới Ðịa Trung Hải.
Triều đại Ba-by-lôn
Vào khoảng Áp-ra-ham di cư qua xứ Ca-na-an (2000 năm T.C), thành Ba-by-lôn, dưới sự trì vì của Hammurabi, đã chiếm được ngôi bá chủ. Hammurabi, một chiến sĩ lừng danh, đã xây nhiều miễu thờ, đào nhiều con kinh, và soạn thảo một bộ luật. Người ta thường cho ông là một với Am-ra-phên ở Sáng thế ký 14:1.
Lịch sử xứ Ba-by-lôn trong thời kỳ Áp-ra-ham
Những cuộc đào bới tại U-rơ,
quê hương của Áp-ra-ham
U-rơ, cũng gọi là Mugheir và Mugayyar, xưa kia là một hải cảng trên vịnh Ba-tư, ở cửa sông Ơ-phơ-rát, cách xa Eridu, vị trí của vườn Ê-đen theo truyền thoại, 12 dặm. Ðây là một đô thị trước nạn nước lụt, bị nước lụt phá hủy, rồi được xây cất lại. Ngay trước thời Áp-ra-ham, U-rơ là đô thị tráng lệ nhứt thế giới, là một trung tâm chế tạo, nông nghiệp và hàng hải trong một xứ phì nhiêu và giàu có lạ lùng. Những thương đội đi ra bốn phương, tới các xứ xa xôi, những chiếc tàu đi từ các bến của U-rơ dọc theo vịnh Ba-tư, chở rất nhiều đồng và đá cứng. Ðoạn, vào khoảng thời Áp-ra-ham, U-rơ bị thành Ba-by-lôn làm cho lu mờ, nhưng vẫn còn là một đô thị quan trọng cho tới thời đế quốc Ba-tư. Vào khoảng nầy, vịnh Ba-tư đã lùi ra phía biển, và sông Ơ-phơ-rát đổi đường, chảy 10 dặm về phía đông; còn thành U-rơ bị bỏ hoang vu và bị chôn vùi bởi những trận bão cát của sa mạc.
Các di tích của U-rơ. -- Có một số đô thị chồng chất lên nhau, và đô thị của Áp-ra-ham ở gần dưới cùng. Những đô thị nầy gồm một gò nỗng cao, chung quanh có những gò nỗng phụ thuộc thấp hơn, chiếm một khoảng dài chừng 2 dặm từ Tây-bắc tới Ðông-nam, và rộng chừng nửa dặm. Trên khoảng dài 2 dặm rưỡi, người ta đã dò thấy di tích của bức vách bao quanh thành, dày chừng 23 thước tây và cao chừng 26 thước tây. Khu thánh địa, gồm những miễu thờ và cung điện, có bức vách bên trong bao quanh, dài chừng 130 thước tây, và rộng chừng 65 thước tây.
Bảo tàng viện Ðại học đường Pennsylvania và Anh quốc Bảo tàng viện đã cử một phái đoàn hỗn hợp dưới quyền điều khiển của C.L.Woolley, đi làm việc suốt 12 mùa (1922-1934), mỗi mùa gồm 4 hoặc 5 tháng tiết đông. Với 200 công nhân làm việc mỗi mùa, phái đoàn đã hoàn toàn khám phá các bí mật của những di tích nầy.
Ziggurat, hoặc Miễu Tháp, làm theo kiểu mẫu tháp Ba-bên, hiện nay là gò nỗng cao nhứt; và đương thời Áp-ra-ham, nó là công trình kiến trúc dễ nhận thấy nhứt trong đô thị. Nó đã được Nabonidus xây cất lại vào thế kỷ thứ 6 T.C., trên đi tích của miễu thờ đương thời Áp-ra-ham; còn chính miễu thờ nầy cũng đã được xây cất lại trên nền (nay vẫn còn) của một miễu thờ khác xây từ thời tiền sử.
Theo như Áp-ra-ham được thấy, tháp nầy hình vuông, có hiên, và xây bằng gạch vững chắc; các hiên kế tiếp nhau có trồng cây lớn và cây nhỏ; trên đỉnh tháp có miễu thờ thần Mặt Trăng.
Các miễu thờ: Hai miễu thờ lớn nhứt là miễu thờ Nannar; nam thần Mặt Trăng và miễu thờ Ningal, nữ thần Mặt Trăng; hai nữ thần nầy nổi tiếng đương thời Áp-ra- ham; có rất nhiều bàn thờ, phòng nhỏ, nơi ở của các nam tế sư, nữ tế sư và tôi tớ. Ðó là các thần mà thân phụ Áp-ra-ham đã thờ lạy.
Các lăng tẩm: Lạ lùng hơn hết là đã khám phá được những bửu vật vô giá trong lăng tẩm của hoàng hậu Shubad Mes-kalam-dug và một vua vô danh, ở từng dưới của một nghĩa địa, thuộc về khoảng giữa thời Áp-ra-ham và nạn nước lụt. Cùng với hài cốt hoàng hậu nầy, còn tìm thấy một vương miện bằng vàng, một khăn trùm đầu, rất nhiều ngọc, vòng đeo cổ và đồ nữ trang bằng vàng, bạc, bửu thạch, tách, dĩa, hộp đựng đồ trang điểm, chén đựng thuốc vẽ mặt, và một đờn thụ cầm bằng vàng. Cũng có hài cốt của 40 cung nữ đã bị chôn chung với hoàng hậu, cùng vô số dụng cụ bằng đồng, thau, đá và đá lửa, để hầu hạ hoàng hậu trong đời sau; có di tích của một chiếc xe ngựa cùng với hài cốt những con vật đã kéo nó. Ngày nay ta có thể xem thấy mọi vật nầy tại Bảo tàng viện Ðại học đường Philadelphia. Nó chứng minh một mức kỹ xảo rất cao trong thời thượng cổ đó, và tỏ ra lúc ấy họ đã dâng mạng người làm tế lễ và tin có đời sau.
Một khu nhà ở đương thời Áp-ra-ham cũng đã tìm thấy: nào nhà ở, tiệm buôn, trường học, miễu thờ, và cả ngàn tấm bảng, giấy tờ buôn bán, giao kèo, biên lai, bài hát, lễ thức, vân vân. Ngày nay ta có thể thấy chính các đường phố mà Áp-ra-ham đã đi. Nhà xây bằng gạch, có hai từng, ngang với mặt đường, và bên trong có sân.
Ðế quốc Ba-by-lôn mới
606-536 T.C. Thường khi gọi là đế quốc Neo ("Neo nghĩa là "mới") Ba-by-lôn. Ðây là đế quốc đã phá tan oai lực của A-sy-ri, và trong cuộc tiến qua phía Tây, đã tiêu diệt nước GIU-ÐA cùng chinh phục Ai-cập. Các vua của đế quốc Ba-by-lôn là:
Nabopolassar (625-604 T.C.), phó vương Ba-by-lôn. Ông bẻ gãy ách của người A-sy- ri (625 T.C.), và kiện toàn nền độc lập của Ba-by-lôn. Với sự giúp đỡ của Cyaxares, người Mê-đi, ông đã chinh phục và phá hủy thành Ni-ni-ve (607 hoặc 612 T.C.). Năm 609 T.C., con trai ông, là Nê-bu-cát-nết-sa, làm thống tướng các đạo quân của ông; và năm 606 T.C., Nê-bu-cát-nết-sa đồng trị với cha mình.
Nê-bu-cát-nết-sa (606-561 T.C.) là vua có danh tiếng hơn hết trong các vua Ba-by-lôn, và cũng là một trong những hoàng đế oai hùng nhứt của mọi thời đại. Ông trị vì 45 năm. Ðế quốc Ba-by-lôn do ông tạo thành một phần lớn. Ông mở rộng quyền lực của Ba-by-lôn trên hầu hết thế giới mà ta biết thời đó, và làm cho thành Ba-by-lôn đẹp đẽ gần như quá trí tưởng tượng. Ông là vua đã bắt dân Giu-đa đi làm phu tù, kể cả Ða-ni-ên và Ê-xê-chi-ên. Ông hết sức quí chuộng Ða-ni-ên, và đặt ông nầy làm một cố vấn chánh yếu của mình. Chắc ảnh hưởng của Ða-ni-ên đã làm cho số phận của những phu tù Giu-đa được dễ chịu hơn. Xem thêm về Nê-bu-cát-nết-sa cùng đồ trang sức của ông làm bằng đá ngũ sắc, và về thành Ba-by-lôn ở mục: "Sách Ða-ni-ên."
Ê-vinh-Mê-rô-đác (II Các vua 25:27; 561-560 T.C.); Neriglis-sar (559-556); Labash-Marduk (556).
Nabonidus (555-536 T.C.).-- Con trai ông, là Bên-xát-sa, đồng trị với ông trong mấy năm sau chót đời trị vì của ông. Ðế quốc Ba-by-lôn sụp đổ. Quyền bá chủ sang qua Ba-tư. Về truyện bàn tay viết trên tường và sự sụp đổ của Ba-by-lôn, xin xem mục: "Sách Ða-ni-ên."
Ðế quốc Ba-by-lôn tồn tại được 70 năm. 70 năm người Giu-đa phải làm phu tù chính là 70 năm Ba-by-lôn thống trị thế giới. Chính năm Si-ru, vua Ba-tư, chiến thắng Ba-by-lôn (536 T.C.), thì ông cho phép người Giu-đa trở về cố hương.
Ba-by-lôn, đế quốc hà hiếp dân của Ðức Chúa Trời trong đời Cựu Ước, đã lưu danh của mình cho Hội Thánh bội đạo mai sau sẽ hà hiếp dân của Ðức Chúa Trời (Khải- huyền 17).