Published using Google Docs
VÀI HIỂU BIẾT VỀ NƯỚC TRUNG HOA CỦA PHƯƠNG TÂY VÀO ĐẦU THẾ KỈ 19
Updated automatically every 5 minutes

VÀI HIỂU BIẾT CỦA PHƯƠNG TÂY VỀ NƯỚC TRUNG HOA ĐẦU THẾ KỈ 19


Carey, Mathew; Lavoisne, M.

Trích dịch từ: A Complete Genealogical, Historical, Chronological, And Geographical Atlas, Geographical and Statistical Map of China. China and the Tributary Kingdom of Corea. For the Elucidation of Lavoisne's Genealogical, Historical, Chronological, & Geographical Atlas, by C. Gros, 1820. No. 64. Philadelphia. Published by M. Carey & Son. J. Yeager, Sc., 1820.

VỊ TRÍ, RANH GIỚI, VÀ KÍCH THƯỚC

Trung Hoa (thuần tuý)[1], nằm giữa 20° và 42° vĩ Bắc, và giữa 98° và 123° kinh đông, được bao bọc, ở phía Bắc bởi các nước Hoa Phiên[2], phân cách bởi một bức tường thành to lớn, dài 500 league (1league ~ 5,556km); ở phía Đông bởi Thái Bình Dương, ngăn cách với Bắc Mĩ; phía Nam bởi (vương quốc) Bắc Kì[3] và biển [Nam] Trung Hoa; và ở phía Tây bởi vương quốc Tây Tạng và sa mạc Gobi. Trung Hoa có chiều dài là 1 450 dậm, và chiều rộng là 1 240 dậm, toàn bộ chiếm một diện tích 1 298 000 dặm vuông.

PHÂN BỐ DÂN CƯ, DIỆN TÍCH

 

Tỉnh

Thủ phủ

Dân số

Dậm vuông

Acres.

1

B.Trực Lệ (Hà Bắc)

Bắc Kinh

38 000 000

58 950

37 727 360

2

Thiểm Tây

Tây An

30 000 000

154 008

98 565 120

3

Sơn Tây

Thái Nguyên

27 000 000

55 268

35 371 520

4

Sơn Đông

Tế Nam

24 000 000

65 104

41 666 560

5

Hà Nam

Khai Phong

25 000 000

65 104

41 666 500

6

Giang Nam (Giang Tô)

Nam Kinh

32 000 000

92 961

59 495 040

7

Tứ Xuyên

Thành Đô

27 000 000

166 800

106 752 000

8

Hồ Quảng (Hồ Bắc)

Vũ Hán

27 000 000

144 770

92 652 800

9

Triết Giang

Hàng Châu

21 000 000

39 150

25 056 000

10

Giang Tây

Nam Xương

19 000 000

72 176

46 192 640

11

Vân Nam

Vân Nam

8 000 000

107 969

69 100 160

12

Quý Châu

Quý Dương

9 000 000

64 554

41 314 560

13

Quảng Tây

Nam Ninh

10 000 000

78 250

50 080 000

14

Quảng Đông

Quảng Châu

21 000 000

79 456

50 851 840

15

Phúc Kiến

Phúc Châu

15 000 000

53 480

34 227 200

 

Total

333 000 000

1 298 000

830 719 300

Báo cáo trên được lấy từ số liệu của phái bộ ngoại giao dưới quyền Bá tước Macartney, do Sir George Staunton biên soạn vào năm 1793, theo yêu cầu của ông, số liệu này được Chow-to-Zhin, một quan Trung Hoa cung cấp, và được lập dưa trên các tài liệu xác thực, lấy từ các công sở ở Bắc Kinh. Tuy nhiên, vì theo số liệu chính thức thu được trong năm 1761, dân số TQ chỉ là 98.214.553 người, nên rất khó tin trong quá trình 32 năm, đã tăng lên gần 135 triệu. Toàn bộ dân số người Hoa thuần tuý và Hoa phiên có lẽ vào khoảng 300 000 000.

LỊCH SỬ TỰ NHIÊN.

Núi – Dáng vẻ nói chung đất nước ở Trung Quốc là ở bằng phẳng, nhưng các tỉnh Vân Nam, Quý Châu, Tứ Xuyên, và Phúc Kiến có nhiều núi, và Triết Giang có núi cao và dốc về phía Tây. Tỉnh Giang Nam có một khu vực toàn các núi cao, và núi cao cũng có  rất nhiều ở các tỉnh Thiểm Tây và Sơn Tây, nhưng hình như không tỉnh nào trong số đó được người châu Âu biết đến.

Sông - hai con sông chính của Trung Quốc là Hoàng Hà và Dương Tử. Sông Hoàng Hà được gọi là như vậy vì nước sông có nguồn ở những ngọn núi vùng Tây Tạng bị bùn nó cuốn theo đổi thành màu vàng và sau khi chảy về phía Bắc chuyển dòng về hướng Nam, giữa các tỉnh Thiểm Tây và Sơn Tây, sau đó vòng về hướng Tây, ngăn cách tỉnh Sơn Tây với tỉnh Hà Nam, rồi đổ vào biển Hoàng Hải, sau một chặng đường dài 2150 dặm. Dương Tử còn được gọi là Lam Hà, phát xuất gần nguồn của Hoàng Hà, và sau khi chảy về phía Nam, vòng sang Tây Bắc qua thành phố Nam Kinh, rồi đổ vào biển Hoàng Hải cách cửa sông Hoàng Hà 100 dặm miền Nam, chảy suốt 2200 dặm. Hai con sông này được coi là dài nhất thế giới.

Hồ -Trung Quốc có một số hồ nước rộng lớn như hồ Động Đình ở tỉnh Hồ Quảng (Hồ Bắc và Hồ Nam), với chu vi hơn 80 league, và hồ Bà Dương, trong tỉnh Giang Tây, với chu vi 30 league, hoặc, theo một số tác giả, có chiều dài gần 100 league, và cũng giống như biển, có vùng nước  thường xuyên nổi sóng to: một số nơi trong hồ này được cho là làm cá bị tê liệt.

Kênh .-Trung Quốc bị chia xẻ bởi một số lượng lớn các kênh rạch, chiều rộng và chiều dài của chúng là đáng kinh ngạc. Kênh chính được lót bằng đá đẽo, và rất sâu tàu bè lớn có thể đi được, và đôi khi dài trên một ngàn dặm. Các kênh được trang bị với cầu cảng đá, và đôi khi với cầu có cấu trúc tuyệt vời. Những kênh này, và sự đa dạng trên các bờ kênh, làm cho cảnh quan của Trung Quốc rất thú vị, và làm màu mỡ đất ở những nơi bị cằn cỗi tự nhiên. Nổi tiếng nhất là kênh Đại Vận hà (Imperial Canal), kéo dài từ Bắc Kinh tới Quảng Châu, một khoảng cách khoảng 600 dặm, với gián đoạn duy nhất của một cuộc hành trình một ngày, tại một ngọn núi giữa hai tỉnh Quảng Đông và Giang Tây.

KHÍ HẬU, ĐẤT VÀ SẢN XUẤT.

Khí hậu của Trung Quốc thay đổi tùy theo vùng. Về phía bắc không khí lạnh, miền chính giữa ôn hoà, và miền Nam nóng.

Đất hoặc vốn là hoặc do chăm sóc rất hiệu quả trong bất cứ điều có thể điều tiết những nhu cầu cần thiết, tiện nghi hay xa hoa của cuộc sống. Nông nghiệp, theo lời của tất cả các du khách, đạt được mức độ tối đa của sự hoàn hảo. Nông nghiệp được nhà vua bảo hộ rất mực, trong mọi lễ hội long trọng ông đều đi ra ruộng cùng với hoàng gia, triều thần, và khoảng một trăm nông dân, và sau khi đã tự cày ruộng, gieo lúa, lúa mì, đậu, và hai loại kê. Cây trầm hương của Trung Quốc rất khác với trầm hương thông thường, nó có hình dáng và chiều cao như cây ô liu, bên trong lớp vỏ của nó có 3 loại gỗ khác nhau, loại thứ nhất được gọi là gỗ gụ (englewood), chắc và nặng; loại thứ hai, được gọi là calembouc, nhẹ như gỗ mục; và loại thứ ba, về phía trung tâm, gọi là trầm hương (calemba) có một hương thơm tinh tế, và tạo thành loại mùi tuyệt vời chữa choáng và bại, trên nhánh cây có gai nhọn dùng để làm cho móng tay, phi tiêu, và cái xỏ dây.

Cây trà là cây làm nên một trong các ngành thương mại lớn của Trung Quốc, nó rậm rạp, giống như cây hoa hồng, và những cánh hoa mở rộng giống như cánh hoa hồng. Lá lớn và già ít được ưa chuộng, và được dành cho các tầng lớp thấp, lá non được hái một năm ba lần, lần đầu tiên vào mùa xuân, và hai lần trong mùa hè, lá được đặt trên đĩa bằng đất, hoặc sắt, mảnh hơn rất nhiều hơn so với các nghệ nhân ngoài TQ có thể làm được, đĩa được đặt trên than củi, sấy cho độ ẩm còn lại trong lá rút ra dần, để lá trở nên khô và dòn. Màu sắc và vị chát của trà xanh được cho là bắt nguồn từ giai đoạn đầu mà lá được hái, như trái cây chưa chín, chúng nói chung có màu xanh và có mùi hăng. Cây bông là một trong những điều giàu có lớn lao của Trung Quốc, vì phần lớn người dân được mặc quần áo từ nó tạo ra. Cây tallow (cây mỡ bò) có chiều cao của một cây anh đào phổ biến, lá của nó màu đỏ, hình trái tim, trái của nó có tất cả các đặc tính của mỡ động vật.

Trung Quốc cũng sản xuất tất cả các kim loại và khoáng chất được biết đến trên thế giới. Đồng trắng[4], được gọi là bạch đồng (baitong) là kim loại độc đáo của TQ. Than có rất nhiều ở vùng núi Thiểm Tây, Sơn Tây, và Bắc Trực Lệ. Mỏ đá cũng có rất nhiều ở hầu hết các tỉnh.

CHÍNH QUYỀN.

Nguyên thuỷ chính phủ Trung Quốc là chế độ gia trưởng, gần như theo ý nghĩa chặt chẽ nhất của từ này. Việc kính trọng và phục tùng cha được khuyên phải tuân theo một cách nghiêm ngặt nhất trong từng gia đình, và hoàng đế được xem như là cha chung của toàn thể dân chúng. Từ khi bị người Phiên xâm lược, TQ đã trở thành một chế độ quân chủ tuyệt đối, tuy nhiên không có sự thay đổi về chính trị và phe thắng trận luôn tìm mọi cách để gìn giữ các nguyên tắc cơ bản của chế độ cũ. TQ có 15 tỉnh, mỗi tỉnh tương đương với một vương quốc rộng lớn, được chia thành một số quận huyện, dưới sự quản lí của các quan, dưới quyền của một quan đầu tỉnh gọi là Tổng đốc.

Tại thủ phủ của mỗi tỉnh có hai công đường, một lo việc hộ, một lo việc hình, tất cả phụ thuộc vào sáu bộ thẩm quyền ở Bắc Kinh. Bộ thứ nhất là Bộ Lại, trông coi tất cả các quan lại của đế quốc, và tâu cho Hoàng đế biết mỗi khi có chỗ trống, chỗ trống này có thể được lấp đầy ngay lập tức, bộ thứ hai là Bộ Hộ, coi sóc việc dân sự, bộ thứ ba là Bộ Lễ chăm lo các nghi lễ liên quan đến việc cúng bái, tiếp nhận sứ thần, lễ hội công cộng, bộ thứ tư là Bộ Binh lo việc chiến tranh, bộ thứ năm là Bộ Hình, đó là bộ lo về việc hình của đế chế, nhưng án tử hình phải được Hoàng đế phê chuẩn, bộ thứ sáu là Bộ Công, chủ trì các công trình công cộng, sửa chữa cung điện của Hoàng đế, đền thờ, cổng khải hoàn, đê điều, cầu đường, và trông coi cả hải quân. Các bộ này được phân nhỏ thành nhiều ngành, nhưng tất cả đều phụ thuộc vào Hội đồng tối cao của Hoàng đế, trong đó bao gồm các quan nhất phẩm, họp dưới sự hiện diện của nhà vua.

Quý tộc ở Trung Quốc không cha truyền con nối, ngoại trừ đối với hoàng gia, do đó tất cả tước hiệu là phước lộc riêng cho tài đức cá nhân.

Các quan lại của nhà nước được phân thành hai loại, quan văn và quan võ. Quan võ được chia thành 9 phẩm (bậc), có số lượng được cho là 150 000. Thượng thư, Thị Lang, các quan lại cao cấp các bộ, tổng đốc, phó tổng đốc các tỉnh, các thành phố lớn… được chọn từ ba bậc đầu tiên. Để tránh tình trạng thiện vị, các quan không được giữ bất kì chức vụ nào ở tình thành quê mình. Tất cả các quan lại được bổ nhiệm trong ba năm, sau đó họ trải qua một kì thi, và bị giáng chức hoặc được thăng chức tuỳ theo mức độ xứng đáng của họ.

TÔN GIÁO.

Người TQ xưa tôn thờ một Đấng Tối Cao gọi là Thượng đế, hoặc Trời (Thiên) họ cũng thờ cúng thần thánh, mà họ nghĩ là đang ngự trị trên các vương quốc, tỉnh, thành, sông, núi. Kể từ thế kỉ thứ mười lăm, nhiều người trong giới nho sĩ TQ đã chấp nhận một hệ thống mới, vì vậy có hai phái khác nhau: nho sĩ với tín lí được các hoàng đế noi theo, thừa nhận một nguyên tắc phổ quát, mà họ gọi Taiki, và hi sinh theo tinh thần của triết gia và nhà lập pháp vĩ đại Khổng Tử, sinh năm 3453AM , và mất năm 3523AM; họ cũng phải thực hiện một loại thờ cúng đối với người đã khuất, qua việc đốt hương, và cúng trái cây trước di ảnh người đã khuất. Giáo phái khác được phần lớn những người dân bình thường tin theo là đạo Phật, hoặc Xanca, được du nhập từ Ấn Độ khoảng một ngàn năm sau cải cách của Khổng Tử. Đó là một loại của tín ngưỡng theo thần tượng (idolatry) còn thô trộn lẫn với chủ nghĩa vô thần. Các tu sĩ của giáo phái này, gọi là các nhà sư, là các thầy cúng và thầy tướng số, tin vào sự luân hồi của linh hồn. Cũng có một số người Hồi và người Do Thái ở Trung Quốc.

TÍNH CÁCH, PHONG TỤC, TẬP QUÁN QUỐC GIA

Người Trung Quốc trưởng thành có khổ người trung bình, khuôn mặt rộng, mắt đen và nhỏ, mũi thẳng và hếch, họ có xương gò má cao và môi lớn. Họ nhổ râu tận gốc phần dưới khuôn mặt bằng nhíp, để lại một vài cọng không có thứ tự thay cho râu hàm. Họ cạo hết tóc trên đầu, trừ một lọn duy nhất mà họ để lại trên đỉnh đầu. Da của họ, về phía Bắc là trắng, nhưng ngăm đen về phía Nam; sự béo tốt được đánh giá cao như là một vẻ đẹp của đàn ông, nhưng là nhược điểm sờ thấy đối với phái đẹp, họ nhắm tới việc giữ gìn một nét thon thà và thanh tú về vóc dáng. Đàn ông nho sinh để móng tay ra rất dài cho thấy rằng họ không làm công việc tay chân. Phụ nữ có đôi mắt nhỏ, môi đầy đặn hồng hào, tóc đen, đường nét đều đặn, và tinh tế, mặc dù làn da rất tươi mát. Bàn chân nhỏ được coi như một phần chủ yếu của vẻ đẹp của phụ nữ, nên việc quấn chân là điều phải chuyên tâm thực hiện  khi họ còn trẻ nhằm tạo được kết quả đó, hậu quả của điều này làm họ bi tê liệt đến nỗi khi lớn lên họ chỉ bước đi chập chửng chứ không thể bước bình thường.

Cử chỉ bề ngoài của Trung Quốc rất câu nệ, bao gồm nhiều động tác uốn mình khác nhau, cùng với cúi đầu, quỳ gối hay thẳng gối, và chấp tay lại hoặc tách tay ra, nhưng khi hết những nghi thức đó, họ trở lại trạng thái thoả mái và quen thuộc. Trong tiếp xúc với người lạ, họ không rụt rè, nhưng thể hiện mình với một vẻ tự tin dễ dàng, như thể họ coi mình là cấp trên, và không có bất kì điều gì trong cách cư xử hay dáng vẻ của họ có thể là thiếu sót hoặc không chính xác.

Việc ăn mặc của TQ là hoàn toàn theo quy định khuôn phép, thậm chí đã định rõ những màu sắc phân biệt các tầng bậc khác nhau. Hoàng đế và các hoàng tử độc quyền mặc màu vàng, một vài quan lại được mặc satin nền đỏ, nhưng chỉ vào những ngày lễ, còn nói chung họ đều mặc quần áo màu đen, xanh, hoặc tím. Màu trắng chỉ được mặc khi dự đám tang, và không thể dính bụi đất quá nhiều cho dịp này vì cho thấy một sự khinh suất và coi thường chăm sóc cá nhân và trang phục. Những người dân thường chỉ được mặc quần áo màu xanh hoặc màu đen luôn luôn làm bằng bông sợi. Đàn ông đội mũ hình chuông, những người thuộc tầng lớp quý tộc có đính thêm đồ trang sức. Phần còn lại của trang phục của họ là thoải mái và lỏng lẻo, bao gồm một chiếc áo khoác và thắt lưng, với một chiếc áo choàng trồng lên người, giày ủng bằng lụa, đệm với bông, và một quần đùi. Phụ nữ thường mặc bên trong một lưới lụa, thay thế cho vải lanh, một áo gilê và một củng lụa, cắt nhỏ hoặc viền với lông thú trong thời tiết lạnh, bên ngoài là một chiếc áo choàng satin dài, duyên dáng xếp nếp xung quanh vòng eo và được thắt lại với một dây thắt lưng . Các phần khác nhau của trang phục của họ thường là mỗi một thứ có màu sắc riêng, theo sự lựa chọn và tương phản của chúng mà những người mặc chủ yếu biểu lộ thị hiếu của họ.

Trong hôn nhân, hai bên trai gái không bao giờ nhìn thấy nhau trước ngày cưới do cha mẹ quyết định, thường diễn ra khi họ chỉ là những trẻ nít, khi đám cưới được tổ chức, cô dâu, dù chưa được chú rể nhìn thấy, được kiệu đến nhà của chú rể trên một chiếc kiệu mạ vàng xa hoa, treo vòng kết hoa nhân tạo, đi theo là gia tộc, khách dự và các người hầu của cô bưng của hồi môn, đó là phần quà duy nhất do cha mẹ của cô cho trong hôn nhân .

Sau việc hiếm muộn con, điều tệ hại lớn nhất là đẻ con gái, và nếu một người phụ nữ của gia đình nghèo có ba hoặc bốn cô gái liên tiếp, không phải không thường xảy ra, bà ta sẽ bỏ chúng ngoài đường đi, hoặc ném chúng xuống sông, điều mà các cha mẹ không thể nuôi nổi nhiều con gái được phép làm, nhưng họ cột trái bầu vào đứa trẻ trước để cho nó có thể nổi trên mặt nước, và trong tình huống này đôi khi nó sẽ gặp người có của cải, do xúc động bởi tiếng khóc của đứa trẻ, sẽ giải thoát nó khỏi cái chết sắp xảy đến

Người TQ, ngoài các mê tín dị đoan khác, đặc biệt thận trọng về thời gian và nơi chôn cất người chết. Sự chậm trễ xảy ra trong việc quyết định hai điều này thường khiến các quan tài phải lưu lại nhiều ngày trước khi đem chôn, nhưng đối với người nghèo thì sự khốn khó buộc họ phải vượt qua các đắn đo thận trọng đó, và đem đi chôn ngay di hài của người thân họ vào nơi an nghĩ cuối cùng với lễ tang nhỏ. Nghĩa trang công rất rộng, do sự tôn trọng dành cho người đã chết nên người TQ không cho phép họ đặt một ngôi mộ mới tại nơi mà các dấu vết của một ngôi mộ cũ vẫn còn thấy trên mặt đất.

Mỗi người Hoa lưu trong nhà của mình một bài vị, trên đó có viết tên của cha, ông nội, ông cố … và họ thường đứng trước đó đốt hương, và quỳ lại, và khi người cha trong gia đình mất, tên ông cố được lấy ra để thêm tên người vừa khuất vào.

NGHỆ THUẬT VÀ KHOA HỌC.

Thiên tài của Trung Quốc là đặc biệt với chính họ, vì họ không có quan niệm về cái gì là đẹp trong viết văn, cân đối trong kiến trúc, hoặc tự nhiên trong vẽ tranh, và tuy thế, trong làm vườn và hoạch định đất đai, họ thể hiện sự tuyệt vời và đẹp đẽ  thật sự. Họ thực hiện tất cả các phép tính số học nhanh chóng phi thường, nhưng khác với người châu Âu. Cho đến khi người châu Âu tới, họ chưa hiểu biết về toán học, không có máy móc thích hợp cho quan sát thiên văn, và việc nghiên cứu siêu hình chỉ dành cho các nhà triết học. Người ta thường cho rằng họ biết in ấn trước người châu Âu, dù điều đó chỉ có thể nói cho phương pháp in ấn khối, bằng cách đục chữ trên các khối gỗ, họ có niên giám, đóng dấu từ các tấm hoặc các khối, nhiều thế kỉ trước khi nghề in được phát hiện ở châu Âu. Việc phát minh ra thuốc súng có vẻ đúng là của họ, và đã được sử dụng để chống lại Thành Cát Tư Hãn và Thiết Mộc Chân, nhưng ứng dụng việc sử dụng hợp chất huỷ diệt này chỉ giới hạn vào súng thần công (pháo binh),  họ hoàn toàn không quen với việc sử dụng vũ khí nhỏ. Họ cũng nổi trội về pháo bông. Ngành công nghiệp của họ là tuyệt vời trong trồng trọt trên đồng ruộng, đào kênh rạch, san lấp núi, nâng cao vườn, và điều khiển tàu thuyền.

SẢN XUẤT VÀ THƯƠNG MẠI.

Trung Quốc nằm ở vị trí tốt, và sản xuất một loạt các nguyên vật liệu cho chế biến mà có thể nói đó là quê hương của công nghiệp, nhưng là ngành công nghiệp không hương vị hay thanh tú, mặc dù được thực hiện với nghệ thuật tuyệt vời và sự khéo léo. Họ chế tạo giấy từ vỏ cây tre và các cây khác, cũng như từ sợi bông (cotton), nhưng không sánh được với châu Âu cho mục đích viết hay in ấn. Mực của họ nổi tiếng ở châu Âu, và được cho là một hỗn hợp của keo động vật và muội đèn. Việc sản xuất các loại đồ đất nung thường được biết đến với tên “china” (đồ sứ), hay đúng hơn là “porcelain”, đã từ lâu là một bí mật với người châu Âu, và mang lại những khoản tiền to lớn cho TQ, nhưng bây giờ các nghệ nhân châu Âu xuất sắc hơn nhiều. Lụa TQ thường gồm lụa trơn và lụa hoa, được cho là có nguồn gốc chế tạo ở đây, nơi mà nghệ thuật nuôi tầm được phát hiện trước tiên. Họ cũng sản xuất lụa loại bền hơn; cùng vải bông và các loại vải khác cung cấp quần áo nhẹ và ấm áp.

Có thể truy cập ở: http://www.davidrumsey.com/luna/servlet/detail/RUMSEY~8~1~35482~1200401:Geographical-and-Statistical-Map-of?sort=Pub_List_No_InitialSort%2CPub_Date%2CPub_List_No%2CSeries_No&qvq=w4s:/where/China; q:China; sort:Pub_List_No_InitialSort%2CPub_Date%2CPub_List_No%2CSeries_No; lc:RUMSEY~8~1&mi=78&trs=218


[1] Nguyên bản tiếng Anh là China Proper, tức là TQ không tính các nước chư hầu.

[2] Nguyên bản tiếng Anh là Chinese Tartary, theo văn cảnh toàn bài thì có lẽ là Mông Cổ và Mãn Châu tạm dịch là Hoa Phiên.

[3] Nguyên bản tiếng Anh là kingdom of Tonquin chỉ Bắc bộ Việt Nam (gọi theo một tên cũ của Hà Nội là Đông Kinh)

[4] Hợp kim đồng và nickel