(Tiếp theo)
Nhà vệ sinh rất tốt, nằm cuối một con đường nhỏ, lát đá. Nhà vệ sinh được làm bằng gạch men trắng, có nước suối chảy thường xuyên vào nên không hôi. Đối diện lán ngủ là nhà bếp. Trong bếp các anh em porteur đang nấu cơm. Vàng A Lừ gặp họ mừng lắm, nói liên hồi, khác hẳn với thói kiệm lời khi đi với chúng tôi. Thực ra Lừ không thạo tiếng Kinh chứ không phải kém cởi mở.
Lúc này, trời cón khá sáng sủa, tôi bảo Hòa:
Bây giờ mới 3 rưỡi chiều mà đã nghỉ thì sớm quá, hãy cố đi tiếp đến lán 2800m mà nghỉ đêm.
Hòa chưa nói gì thì A Lừ đã nói:
Ở lán 2800m không có nồi, không có bát lấy gì mà nấu cơm và ăn cơm.
Tôi bảo:
Đã có hai gói cơm nắm đây rồi, đủ ăn cho cả ba người, cứ đi đi.
Lừ hơi chần chừ, nhưng thấy chúng tôi có vẻ hăng nên đành chiều. Thế là sau khi chụp vài cái ảnh ở lán 2200m. Chúng tôi lại tiếp tục lên đường. Trời mùa đông nhanh tối. Mới leo thêm được nửa tiếng, gần 4 giờ chiều thì trời đã xám dần. Đường đi qua một phiến đá nghiêng chênh vênh, rất nguy hiểm.
Phiến đá chênh nguy hiểm, những cánh hoa trắng đã khép lại khi trời về chiều.
May lúc đó trời còn sáng, nhìn rõ đường nên chúng tôi bò qua phiến đã này khá dễ. Lúc này cảnh rừng đã thay đổi. Không còn rừng già âm u như ở cung đường 1 từ Trạm Tôn lên lán 2200m. Thảm thực vật đã thấp hơn, những tán cây thấp lùi dần nhường chỗ cho rừng trúc nguyên sinh. Đây là những đồi bát úp mọc đầy trúc.
Rừng trúc nguyên sinh, có lan can bằng bê tông sơn mầu xanh lá cây
Cây trúc ở đây chỉ cao khoảng trên 1m, lá nhỏ và xanh mướt. Lối đi băng qua rừng trúc đã được làm thành đường mòn rộng khoảng 1m, có lan can bằng bê-tông dẫn hướng. Những thanh lan can được đổ bằng bê tông nhưng bên ngoài sơn mầu xanh lá cây, lẫn vào sắc mầu của rừng trúc rất đẹp. Nhờ những lan can này chúng tôi leo nhanh hơn.
Nhưng đến khoảng 6h thì trời tối hẳn, chúng tôi phải lấy đèn pin ra soi đường. Hòa có cái đèn bắt ếch, đeo trên đầu nên rất tiện. Còn tôi thì cầm cái đèn pin nhỏ ở tay. Lừ thì cầm điện thoại di động bật sáng lên soi đường. Thực ra lúc này chúng tôi mới đi được nửa đường từ lán 2200m lên lán 2800m, chưa đến những chỗ khó khăn nhất của cung đường số 2 này. Nhưng trong đêm tối không nhìn rõ nên vẫn tưởng dễ đi. Bước chân tôi đã nặng lắm rồi, hơi thở gấp hơn và đi rất chậm. Gió ngày càng lạnh. Nhiệt độ tụt xuống khoảng dưới 7 độ C. Nhưng không thấy lạnh lắm vì mồ hôi toát ra nhiều.
Thêm khoảng nửa giờ nữa thì thực sự khó khăn. Bắt đầu phải leo thang. Người ta bắc những cái thang bằng ống kẽm để cho du khách trèo lên những vách dựng đứng. Có lúc tôi bò nhoài cả tứ chi mà chỉ nhích được từng tí. Một tay cầm gậy, một tay cầm đèn pin, lần mò trong bóng tối, nhìn theo ánh sáng lấp loáng của Vàng A Lừ phía trước. Cái ba lô của tôi chỉ khoảng 6-7kg mà bây giờ nặng như cùm, mỗi bước đi lên, ba lô lại kéo tụt mình xuống. Cái ba lô này là ba lô gia công mua ở Lê Duẩn, quai đeo rất bé, nên chỉ có mấy kilô mà cảm tưởng như dây đeo hằn sâu vào bờ vai. Lúc đang bò lên thì điện thoại reo liên hồi, chẳng biết của ai, đành chịu không nghe. Vì nghe điện thoại thì phải buông tay khỏi vách đá, nguy hiểm lắm. Bấy giờ, trời đã tối hẳn, cứ đi 10 phút chúng tôi lại nghỉ, mà nghỉ đứng, không ngồi. Vì biết ngồi sẽ mệt hơn. Uống vài ngụm nước nhỏ, thở điều hòa lấy sức lại đi tiếp.
Cứ mò mẫm như thế, gần 8 giờ tối thì Lừ lia đèn thấy một lán nhỏ. Lừ bảo:
Cứ vào đây nghỉ tạm qua đêm đã, mà các chú cũng mệt lắm rồi. Còn cháu từ sáng đến giờ mới chỉ có một quá trứng nướng ăn tạm ở quán cô Thắm.
Chúng tôi quyết định nghỉ lại.
Chuẩn bị bữa ăn tối trong lán nhỏ tại cao điểm 2800m.
Ngay trước cửa lán có cái máng nhựa, nước chảy thành dòng nhỏ xíu. Khát quá, tôi vục hai tay vuốt nước lên mặt và uống thử một gụm. Nước suối đêm lạnh sắc, nhưng vẫn có vị ngọt của núi. Thấy đỡ khát, tôi uống thêm liên tục mấy gụm nữa, rồi mới vào lán. Vừa bước lên một bước thì đầu chạm ngay mái lán. Mái thấp quá, chỉ cao cỡ 1,2m. Khom xuống chui vào thì thấy Hòa và Lừ đang ngồi. Lòng lán chỉ khoảng 6 mét vuông. Tôi vừa ghé xuống cái giường nhỏ trong lán, nó liền sịu xuống. Vì cái giường này chỉ là mấy tấm ván nhỏ được kê bằng mấy cây trúc buộc thành chữ A. Hòa cũng rất mệt, vì ba lô to hơn, lại đeo thêm cái máy ảnh cỡ trung nữa. Chúng tôi thu xếp chuẩn bị bữa tối. Không có nồi nấu cơm. Không có gì cả ngoài con dao đi rừng của Lừ. Lừ đi chặt củi, Hòa chất bếp. Củi ướt quá mãi không bắt lửa. Hòa bảo:
Hay là hy sinh tờ Văn Nghệ mới để nhóm lửa nhé!
Trên tờ Văn nghệ ấy có truyện ngắn “Bình cụ thượng” của Dương Duy Ngữ mới đăng. Tôi mới đọc được quá nửa ở trên tầu, đêm qua. Hòa biết tôi thích đọc lắm, nên mới nói là hy sinh. Tôi ngập ngừng rồi đồng ý. Có mồi, lửa bùng lên ngay. Lửa bén vào những thân trúc ướt, nổ lép bép và bốc khói cay ngắt. Lúc sau lửa cháy rực, khói cũng đỡ cay. Lán ấm dần lên, lòng cũng phấn khởi, mà mệt mỏi cũng tiêu dần. Nhưng chân thì hơi đau mỏi do lâu ngày không được rèn luyện. Tôi lấy ít rượu thuốc của Lang y Triệu Thị Hòa mua trên đỉnh Ba Vì ra bóp. Rượu thuốc dân tộc Dao tốt thật. Bóp đến đâu, gân xương dịu đến đấy.
Trong lúc đó, Lừ rửa thịt bằng nước suối, thái ra từng miếng nhỏ như vuông đậu phụ, xiên vào mấy que trúc, rồi nướng trên bếp lửa. Khoảng 9h00 một bữa tối thịnh soạn gồm có 6 xiên thịt và 2 nắm cơm đã sẵn sàng. Mỗi xiên thịt dài hơn một gang. Còn cơm thì được nắm từ gạo mới của nhà chọn giống lừng danh, PGS-TS Nguyễn Thị Trâm, mới cho. Tôi đói quá, ăn hết ngay một xiên, kể cả những miếng cháy đen. Lừ xát vào thịt hơi nhiều tiêu và muối nên thịt nướng quá mặn. Tôi bị bỏng cả họng nhưng vẫn ăn ngâu ngấu. Ba hôm sau còn đau họng. Hòa ăn chậm hơn, nên không bị đau. Ba chúng tôi uống hết một lít rượu. Hòa bảo uống cho say để dễ ngủ. Chúng tôi ăn gần hết thịt mới bẻ cơm nắm. Ba anh em chỉ ăn hết một nắm.
Ăn xong chúng tôi đi ngủ. Ba người nằm trên một cái phản xếp từ mấy tấm ván và chục cây trúc nhỏ. Tôi nằm trong cùng, lưng kê trên trên năm cây trúc. Kế là Hòa, ngoài cùng là Lừ, gần bếp lửa. Tôi và Hòa thì chui vào túi ngủ. Còn Lừ thì mặc nguyên quần áo và đắp tấm ni lông. Đêm đó rét lắm, nhất là khoảng 11h, sau khi lửa tàn. Có lẽ nhiệt độ ngoài trời chỉ khoảng 4-5 độ C. Tôi không ngủ được, nằm im, thở đều, tập thiền. Lừ thì cựa mình luôn. Trong khi đó Hòa ngủ khá ngon, vì vừa mệt, vừa hơi say rượu. Đến quá canh ba, lạnh quá, tôi bị chuột rút. Chân trái cứng đờ, đau kinh khủng. Tôi nhoài người với chai nhựa đựng rượu Ba Vì, đổ rượu đầy lòng bàn tay, vuốt vào bắp chân. Đúng là rượu thần, vuốt đến đâu, gân dãn đến đấy. Cơn ruột rút nhanh chóng tan biến. Tôi lại nằm thiền, đến khoảng 5 h sáng thì Lừ dậy, nhen lửa. Hòa nằm thêm chút nữa cũng dậy. Hòa vươn vai, chậm dãi ngồi dậy, rồi ra ngoài vệ sinh. Lúc sau Hòa về bảo:
Đêm qua, trời tối quá bọn mình không nhìn thấy lán chính, lại ngủ ở lán phụ, vừa lạnh vừa thiếu tiện nghi.
Quả thật lán chính cách đó năm chục mét, có thể chứa được đến sáu mươi người, đầy đủ bếp ăn và nhà vệ sinh. Qui mô hoành tráng hơn cả lán 1 ở vị trí 2200m. Hòa lấy bên lán chính về một cái siêu và một cái chảo. Chúng tôi đun nước và nấu mì tôm, cuối cùng vẫn có một bữa sáng ngon lành. Ăn sáng xong chúng tôi sắp xếp lại ba lô và lên đường. Đây đã là đỉnh cao 2800m, chỉ còn hơn 300 m nữa là lên đến đỉnh Fansipan 3143m. Chúng tôi nghĩ chỉ đi khoảng cùng lắm một tiếng nữa là đến đỉnh. Thực ra sau mới biết phải là mất hơn 3 giờ nữa. Vì đường ở cung thứ ba này gian nan không kém hai cung đầu.
Chúng tôi lại hăm hở leo, nhưng sáng nay cẩn thận hơn, leo từ từ, vừa leo vừa giữ nhịp thở. Leo được hơn một giờ thì đi đến núi mặt quỉ. Cứ đi quanh núi mãi, rồi đường xuống dần, xuống thăm thẳm. Tôi nghĩ Lừ quên đường, đã dẫn sai, vì hơn 5 năm rồi Lừ chưa đi Fansipan. Tồi liền gọi điện cho Nam ở tour du lịch. Nam bảo đúng, phải xuống dốc hơn 40 phút. Chúng tôi đều tiếc công leo. Đường xuống dốc chênh vênh và khó đi lắm, toàn phải bám vào các bụi trúc bên đường để khỏi ngã. Rừng trúc trên độ cao hơn 2500m là rừng trúc thân to, cây nào cũng cao đến 3-4m. Thân trúc cỡ 35-30mm. Tôi đi sau cùng, khoảng được trăm thước thì thấy cái gùi của Lừ để ven đường, mà không thấy anh đâu. Hóa ra anh vào rừng tìm nước. Người dân tộc không uống bừa nước suối như tôi. Họ có dấu hiệu riêng, chỉ uống nước từ các mó nước sạch chảy qua khe đá, không lẫn lá mục và côn trùng. Uống xong họ để một que chữ thập để đánh dấu cho người sau. Dấu chữ thập ký hiệu mó nước sạch (có thể uống trực tiếp) thực một biểu hiện của văn minh cộng đồng. Người sau không phải tìm kiếm và phát minh lại những gì người trước đã tìm thấy.
Núi mặt quỉ, khi đã lên gần đến đỉnh lại phải tụt xuống thăm thẳm gần 200m nữa.
Đến 8h30 sáng ngày 29-10-2010 chúng tôi đã đi quanh qua núi mặt quỉ. Bắt đầu vào con dốc cuối cùng để lên đỉnh Fansipan. Tôi vẫn chậm chạp leo sau Hòa và Lừ. Vừa đi vừa chụp ảnh. Những đỉnh núi phía xa đã dần dần thấp hơn chỗ đứng của mình, nhìn xuống dưới thấy mấy trắng xóa, lượn từ những khe núi dưới thấp lên. Tầm mắt được mở rộng. Cảnh xung quanh chỉ còn mấy mầu: sắc xanh của núi gần, sắc chàm của núi xa, sắc trắng của mây, nhìn cao hơn nữa là bầu trời trong vắt xanh thẳm. Dưới đồng bằng không bao giờ thấy được mầu xanh thẳm đó. Rất xanh, rất trong, không khí mát rượi. Tầm mắt có thể phóng đến ngút ngàn. Đi một đoạn nữa thì đến đỉnh một trái núi ngay dưới chân Fansipan. Đỉnh này khá phẳng, cỏ rạp đổ cả vì gió. Bùn dưới bãi cỏ khá đen, đen như than. Chân ngập sâu trong bùn, nên phải cẩn thận để tránh. Chỗ này mà làm một điểm dừng chân trước khi lên đỉnh thì tuyệt đẹp. Chúng tôi gọi đây là quảng trường thời đại.
Những đỉnh núi phía xa đã thấp hơn, mây bồng bềnh xen núi
Vượt qua quảng trường thời đại, lại đi vào một rừng trúc nữa. Tôi đang nhoài mình ra bám vào mấy cây trúc để leo lên, thì chuông điện thoại đổ liên hồi. Nhìn điện thoại thấy không phải số quen trong danh bạ, nhưng tôi vẫn nghe. Một giọng xa và mạnh bạo vang lên:
Có nhận ra ai không?
Tôi đoán được đến 80% là giọng của một bạn quen, nhưng không chắc lắm, bèn nín thở, trả lời liều:
Nhận ra chứ!
Người đầu bên kia liền nói một mạch về độ nén và độ uốn của một loại gạch men lát nền nhà. Tôi im lặng nghe và nhận rõ bạn ấy là ai. Đây là một nữ doanh nhân ở Sài gòn, bốn mươi năm trước học cùng tôi tại trường Nguyễn Trãi, Hà nội. Bạn ấy nhập gạch men, phải mang thí nghiệm ở viện Vật Liệu Xây Dựng, muốn nhờ tôi giúp. Tôi liền bảo gửi email cho tôi, tôi không nghe được nhiều vì đang leo Fansipan. Bạn ấy liền hỏi:
Đi xả tress à?
Không phải! Đi rèn luyện sức khỏe thôi. Tôi nén hơi thở, bình tĩnh nói.
Tôi vừa leo tiếp vừa nghĩ rằng tại sao trong óc bạn nữ doanh nhân của tôi việc lên Fansipan lại là đi xả tress? Lạ thật. Chắc bạn ấy biết cuộc đời tôi có lắm khúc quanh co, nhiều trắc trở nên nghĩ tôi bị tress chăng. Từ hai ngày qua tôi đã được hưởng một niềm hạnh phúc vô hạn mà nếu không đi Fans tôi không thể ngộ ra được. Leo núi mệt lắm. Lại ngủ đêm trong mưa lạnh, ăn thì chỉ có cơm nắm và mì úp, nước thì uống ở suối. Cái hạnh phúc vô bờ mà ta có thể cảm nhận được là hơi thở. Leo càng mệt càng phải thở gấp, dốc càng cao càng phải thở nhiều. Tôi đã đếm nhịp thở trong một phút và nhận thấy rằng có nhiều lúc mình thở rất vội rất nhanh, vì quá mệt, nhưng nhìn chung vẫn giữ được nhịp 20 lần trong một phút. Tức là 1200 lần trong một giờ, 28800 lần/ngày, hơn 10 triệu lần/năm, hơn 1 tỉ lần/một đời người, nếu đời người sống đủ trăm năm. Hơi thở là một làn sóng không khí từ thân tâm. Trên đời này có người kiếm được hàng trăm tỉ bạc, nhưng họ khó có thể thở nhiều hơn một tỉ nhịp. Mỗi sự kiện trong đời như một bè lau thả trên làn sóng hơi thở. Có những lúc bè lau cuộc đời ấy chìm vào làn sóng hơi thở kia mà ta không biết. Ta đang lãng phí những năm tháng kỳ diệu, không nhận biết được làn sóng hơi thở, chỉ biết về những bè lau tiền bạc và danh vọng. Mà có khi bè lau của đời ta chìm vì bao khúc mắc, chẳng thể nổi lên trên bề mặt của sóng hơi thở. Khi hiểu được đời chỉ là một tỉ nhịp thở, tôi thấy hạnh phúc vô cùng. Hỡi nữ doanh nhân ơi, bạn thương tôi vì tress mà lên Fansipan. Nhưng không phải, tôi vừa khám ra một hạnh phúc vô bờ trên vùng cao nhất của Tổ Quốc Việt nam đấy. Có những lúc tôi nhận thấy thân mình biến đi, chỉ còn lại là một khối khí ấm lan khắp từng cơ bắp, từng khớp xương. Khối khí ấy nhu động theo bước đi. Khi hơi thở loạn nhịp, khối khí ấy tan ra, khi hơi thở điều hòa, khối khí ấy tụ lại. Rõ ràng, hơi thở có thể điều biến mệt nhọc, lo toan, cả những tress thành một khối khí ấm hạnh phúc. Sự điều biến này gần giống như sự điều biến sóng âm thanh và hình ảnh trong kỹ thuật điện tử. Nếu trong một năm ta thở được 10 triệu nhịp, mà có đến 80% số nhịp thở bị loạn nhịp thì ta chỉ nhìn thấy đời là chuỗi dài những lo âu, toan tính. Những lo âu toan tính đó nhấn chìm nhịp thở vào một biển những sự kiện buồn tẻ. Và ta gọi biển những sự kiện buồn tẻ ấy là cuộc đời. Ngược lại, chỉ cần trong 10 triệu nhịp thở kia có đến 60% là các nhịp an bình thì cuộc đời thực sự là một chuỗi hạnh phúc. Tôi dã thực tập được sự chuyển hóa hơi thở trong quá trình leo Fansipan. Đó chính là thành quả quí giá nhất mà tôi thu nhận được từ chuyến đi này.
Tràn ngập niềm vui, tôi cứ bước đi từng bước vững chắc, vượt nốt cung đường cuối cùng, chụp thêm nhiều ảnh. Vừa chụp được mấy bức về những đỉnh mây khói phía Bắc, thì đã thấy Hòa quay lại, bình thản nói:
Đây rồi, đỉnh đây rồi!
Thực không! Tôi thì thầm hỏi lại.
Hòa gật đầu nhè nhẹ. Nhìn lên đã thấy Vàng A Lừ im lặng nhẩy tưng tưng, Lừ không nói, cũng không cười. Anh nhẩy qua các mỏm đá, lên đến mốc đỉnh Fansipan hình tháp bằng thép không rỉ. Chúng tôi cởi ba lô, gác gậy trúc, tháo găng, bình tĩnh ngắm xung quanh. Trên đỉnh cao tuyệt đối của nước Việt, ngắm ra xung quanh thấy lòng tràn trề sung sướng. Nước Việt mình đẹp vô ngần. Nhìn về hướng Tây Bắc qua Lai Châu có cảm tưởng đang được tiếp xúc với những đỉnh xa xăm của dãy Hymalaya chìm trong mây trắng. Nhìn về phía Đông, thấy bồng bềnh những sóng mây đục, đang từ biển Đông dồn về. Phía Nam, phía Bắc cũng vậy. Một mầu mênh mang. Đỉnh Fansipan này đã trụ ở đây có lẽ ngàn vạn năm rồi, vẫn là đỉnh cao nhất nước Việt. Mây trắng hàng ngày vẫn lúc lên lúc xuống, khi cao khi thấp hơn đỉnh. Mây và núi hòa nhau. Trên cao này còn có cả nắng vàng rực rỡ quanh năm nữa. Hôm nay chúng tôi đến đây, được hòa chung với mây nắng, đất trời. Cám ơn mẹ Việt Nam. Cám ơn bao thế hệ đã giữ gìn non sông tươi đẹp này.
Mây Núi Nắng Gió trên Fansipan
Phạm Văn Hòa trên đỉnh Fansipan
Nguyễn Thế Hùng trên đỉnh Fansipan
Núi mây quện vào nhau
Các đỉnh phía nam
Ở lại với Fansipan hơn nửa giờ thì chúng tôi xuống núi. Đường về gian nan không kém, nhưng lòng vui nhiều. Chúng tôi đã biết được lẽ vô thường của núi non, mây nước và đời người, biết được một tỉ nhịp thở của kiếp nhân gian. Và hơn nữa biết được ta đang sống để làm gì. Xin chép lại đây những dòng cuối cùng của cuốn sách “Văn hóa Cổ Việt Nam” mà tôi vừa hoàn thành trước khi leo Fansipan, sau đó xin báo cáo thêm với Giám đốc Vườn Quốc Gia Hoàng Liên Sơn Ninh Anh Vũ về những thu hoạch sau chuyến đi.
Đoạn kết của sách “Văn hóa cổ Việt Nam”:
“Vậy, ý nghĩa tích/tản của đời người là gì? Người ta được sinh ra trên đời này không khác gì một thanh củi được quăng vào lò. Hãy nhìn một con kiến bám trên con vịt, còn con vịt thì đang được quay trên một cái bếp lò. Con người cũng vậy, kể từ lúc ra đời, mỗi người chúng ta cũng như con kiến. Chúng ta đang đứng hai chân trên mặt đất, còn trái đất thì đang quay quanh mặt trời, mỗi năm một vòng. So sánh hệ mặt trời Copernicus với lò vịt quay của anh Hai béo trên phố Hàng Mắm như trên, kể ra hơi thô về mặt vật lý, nhưng nó lại cho phép ta hình dung rõ ràng về thân phận cá nhân trong vũ trụ. Quả vậy, mỗi ngày, ta đang tích/tản cả ba bậc. Có người tích/tản rất ít và như thanh củi ướt để mãi trong lò chẳng bao giờ bắt lửa. Họ tích ít, mà tản cũng ít. Họ “hiện diện” dưới ánh sáng mặt trời ít năm rồi lại “ẩn diện” dưới dạng các nguyên tử mà ngao du trong vũ trụ. Có những người tích/tản đủ tầm. Tích đủ nuôi thân, tản đủ nuôi con. Cái sức cháy của “củi thân xác” ấy vừa đủ làm ấm một mái nhà nho nhỏ. Lại có hạng người tích đến độ đậm đặc, để tản ra những ngọn lửa sáng chói, tỏa ánh sáng cháy rực vào những miền xa xăm. Để rồi ngay cả khi thân xác đã tan rữa thì cái thành quả sáng tạo của họ, cái tư tưởng của họ, còn tiếp tục tích/tản mãi trong không gian bao la tới vô lượng kiếp. Đối với hạng người ấy, khi đã chuyển kiếp thành những hạt nguyên tử tích/tản bậc nhất, rong chơi như mây khói trong vũ trụ đại ngàn, thì chính những hạt ấy còn có thể cảm nhận được ánh sáng của thân kiếp trước đang lan tỏa nữa. Bạn có thể chọn ý nghĩa cuộc đời theo ba cách trên: không cháy, cháy nhỏ, hoặc cháy sáng. Hoặc giả ngay trong kiếp này thực hành cả ba cách cháy. Và nghệ thuật bậc cao là biết cháy trong cả những hoàn cảnh không thể cháy.”
BÁO CÁO THU HOẠCH VỀ CHUYẾN ĐI KHẢO SÁT FANSIPAN
Kính gửi Giám đốc Ninh Anh Vũ,
Trước hết xin chân thành cám ơn Giám đốc đã giúp đỡ chúng tôi rất nhiều trong chuyến đi này. Mấy trang nhật ký và những bức ảnh chụp trên là một phần thu hoạch của chuyến đi. Chúng tôi xin viết thêm đôi dòng nữa. Fansipan vừa đẹp, vừa hùng vĩ, lại vừa linh thiêng. Nếu có một kế hoạch làm cáp treo lên Fansipan thì không hay bằng giữ nguyên những con đường mòn. Những chỗ hiểm trở thì bổ sung các biện pháp phòng ngừa để tránh tai nạn. Nếu không, đường lên Fansipan sẽ bị cái “hiện đại làm hại” mà trở thành tầm thường. Thay vì một kế hoạch cáp treo, chúng ta nên làm một con đường tái hiện lịch sử mở nước và giữ nước của toàn dân tộc Việt nam. Hiện nay, đường lên Fansipan chia thành ba cung, mỗi cung khoảng 5-6km. Cung nào cũng có nhiều dốc đèo. Tại mỗi đỉnh dốc dựng một nhà tưởng niệm, kể lại những năm tháng lịch sử, bi hùng mà oanh liệt, từ hồi mông mị đến thời nay. Mỗi nhà tưởng niệm ghi tên các vị anh hùng dựng nước và giữ nước của từng thời kỳ. Ví dụ tại Trạm Tôn là điểm xuất phát, ta dựng nhà “Huyền Thoại kể về bọc trăm trứng”. Đi được vài trăm mét, đến bãi nghỉ đầu thì dựng nhà tưởng niệm các Vua Hùng. Qua suối cạn thì dựng nhà tưởng niệm về ngàn năm thuộc Bắc với những Phùng Hưng, Lý Nam đế, Khúc Thừa dụ,…. Rồi có các nhà tưởng niệm các vị vua Lý Trần Lê, các danh tướng, các nhà văn hóa, các nghệ nhân,…trên các cung đường tiếp sau. Lên gần đỉnh thì dựng quảng trường thời đại tưởng niệm về hai cuộc chiến tranh vĩ đại vừa qua.
Trên đỉnh Fansipan thì để tự nhiên không làm gì cả. Để mỗi khi chạm đến đỉnh cao tuyệt đối của nước Việt, ai cũng thể tự vấn lòng mình, trước sự bao la của trời đất và sự linh thiêng của tổ tiên dân tộc Việt. Con đường đó gọi là con đường lịch sử của dân tộc Việt.
Đây là ý tưởng chúng tôi nảy ra từ chuyến đi vừa rồi. Kính trình Giám đốc xem xét.
Kính thư.
Nguyễn Thế Hùng
Viện Vật Lý,
Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
Rừng già được bảo tồn rất tốt.
Rừng trúc trên độ cao 2800m
Mây núi rất xa về phía Hymalaya