Cảm ơn Thành,gởi Thành bài đọc chơi.
Từ "Hán Việt" mà ta thường quen gọi thực ra nó là từ Việt, trừ những từ mới thời hiện đại do người Trung Quốc hay người Nhật Bản dùng chữ Hán dịch các khái niệm xã hội, khoa học kỹ thuật từ tiếng phương Tây, rồi người Việt Nam dịch lại từ những từ bằng chữ Hán đó như "xã hội", "cộng hòa" v.v .Ví dụ từ "quản lý" là ta lấy từ Trung Quốc, nhưng từ ấy không phải do người Trung Quốc đặt ra mà là lấy từ Nhật Bản, do người Nhật dùng hai chữ Kanji(hán tự) là 管理("quản lý”-mà họ đọc là “kanri” gọi là nói theo “gô ôn” tức“Ngô âm”) để dịch khái niệm management. Hai chữ Kanji (Hán tự ) ấy ghép như vậy là đúng cú pháp tiếng Nhật, có nghĩa là "dùng lý mà quản" (vì người Nhật nói ngược ta, "ăn cơm” thì họ nói là "cơm ăn"), người Trung Quốc và người Việt Nam mượn nguyên si từ "Quản Lý" đó về dùng để khỏi phải mất công dịch từ management đều bị sai cú pháp cả , bởi "quản lý" theo cú pháp Hán hay cú pháp Việt đều cho nghĩa là "quản cái lý". Dùng lý mà quản thì mọi việc đều sẽ vào đúng, chứ còn quản cái lý thì làm sao mà quản được? Cho nên trong xí nghiệp của Trung Quốc và của Việt Nam vấn đề management vẫn kém xa xí nghiệp của Nhật Bản là vì vậy.
Còn cây lúa và con lợn thì xuất xứ đầu tiên của nó là từ nền văn minh Văn Lang. Hạt cây lúa người Việt gọi là hạt lúa, hạt lúa phơi khô rồi cất kho gọi là hạt thóc, lúa giống là nói về các giống lúa khác nhau, chứ hạt lúa để làm giống thì gọi là hạt thóc giống. "Thóc” ấy sau người Hán có được từ người Việt nên họ gọi là "cốc". Thóc xay ra thành "gạo", gạo nấu chín thành thứ mềm dẻo gọi là"cơm gạo" và người Việt nói tắt từ “cơm gạo” là “cơm”. Từ “kơm” trong tiếng Việt nghĩa nguyên thủy là “thứ ăn được”, gốc do từ “kin” của tiếng Tày –Thái nghĩa là “ăn”, bởi vậy người Việt có khi bữa ăn chỉ có khoai sắn hay bo bo nhưng vẫn gọi là ăn bữa cơm. Từ “cơm gạo” người Tày gọi là “kin khảu", người Thái Lan gọi là "kin khao" đều nghĩa là ăn cơm. Người Hán ăn sản phẩm gạo ấy từVăn Lang phía nam bán lên nên gọi cây lúa cho ra “gạo” là "đạo" và phải ghép với từ thủy là "thủy đạo" để chỉ cây lúa nước, bởi họ lạ lùng là thứ cây lương thực ấy phải trồng dưới ruộng nước chứ không như lúa mì của họ trồng trên đất khô của thảo nguyên.Người Nhật lại lấy từ "cơm"của tiếng Việt để gọi gạo là "cômê",truyền lên Trung Nguyên phía bắc, người Hán lại gọi “cômê” là "mễ"hay “đạo mễ”nghĩa là gạo(phát âm là “mỉ”hay “tạo mỉ”).Chữ “mễ”mà xuất xứ là từ chữ “cơm” của tiếng Việt như vậy thì chữ “miến”cũng là xuất xứ từ tiếng Việt mà thôi,do người Việt chế biến ra miến từ bột dong và bột đậu xanh.Đến thời mà nghề trồng lúa nước phổ biến khắp vùng nam Trường Giang,lúc ấy xứ các nước Ngô, Sở, Việt đều giàu có và đông dân hơn Trung Nguyên nhiều,và thời ấy dân Ngô,Sở, Việt đều nói các thứ tiếng thuộc hệ ngữ Nam Á-người Ôn Châu ngày nay ở Triết Giang mà nói tiếng Ôn Châu thì người Trung Quốc phía bắc nghe chỉ hiểu được 3%).Giống lúa loài người trồng đầu tiên là lúa nếp,sau dân số đông lên,có đồng bằng rộng lớn mới tìm ra giống lúa tẻ có năng suất cao hơn ,đó là giống thứ hai sau lúa nếp,gọi là lúa “tẻ”(do gen từ “tê”là 2 trong tiếng Khơ Me-Tiếng Việt thuộc hệ ngữ Nam Á ,nhóm ngữ Môn-Khơ Me,người Môn ở bên Mianma).Vì vậy người Văn Lang thường ăn cơm gạo tẻ,còn gạo nếp chỉ dùng khi cúng giỗ nhớ tổ tiên.Người Hán phiên âm chữ “nếp” là “nua”và gọi gạo nếp là “nua mỉ”
Con lợn người Việt gọi là "Lợn", người Tày gọi là "Đồn", người Hán phiên âm thành "Thún", chữ ấy lại gọi là "iếng Hán cổ",nay không dùng, người Hán gọi là "Tru" tức "chư".Lợn , gà và vịt thả đồng gắn liền với nông nghiệp lúa nước.Những loài chim thuần dưỡng rồi nuôi ở nhà để lấy thịt và trứng,người Hán gọi là “gia cầm”,nhưng chữ “cầm” thì lại do người Hán phiên âm chữ “chim”của tiếng Việt và họ đọc là “xín”(vì họ không phát âm được âm ngậm có “m”cuối).Điều náy chứng tỏ nghề nuôi chim nhà lấy thịt là xuất xứ từ Đông Nam Á.Người Hán dòng giống Mông Cổ là dân du mục đồng cỏ.Họ có nuôi chim thì chỉ là nuôi vài con chim ưng để giúp săn thỏ trên thảo nguyên chứ không có nền nông nghiệp nuôi chim nhà để lấy thịt và trứng.Người Hán gọi chim là “niẻo”tức “điểu”.Người Thái chắc là thuần dưỡng gà đầu tiên.Nhà ở của người Thái có biểu tượng con gà ở hai chái nóc nhà.Người Việt có tục cưới xong thì chú rể lại mặt nhà gái bằng một con gà trống.Tục cưới của người Tày nhất định phải có một đôi gà,nếu vì lý do ví dụ chiến tranh chú rể đi xa không có mặt trong lễ cưới được thì trong lễ cưới cô dâu bế một con gà trống.
Thăm núi Ba Vì 17-18/7/2010 kỷ niệm 30 năm thành lập Trung Tâm 80(B10 VKTQS),viết bài “Kể cháu con nghe”
Ta về đây,đất họ Hùng
Cái nôi gốc Tổ Việt Mường vạn năm
Một thời rực rỡ Văn Lang
Rộng dài tỏa khắp Đông Nam Á này
Hai Bà chín suối có hay
Nghiệp Hùng xưa đã từ nay ửng hồng
Kể chuyện
Tục thờ Vua Bà-Hai Bà Trưng,
tục thờ anh hùng cứu nước của nhân dân Bách Việt
“Kể năm hơn bốn nghìn năm
Tổ tiên rực rỡ ,anh em thuận hòa
Hồng Bàng là tổ nước ta
Nước ta lúc ấy gọi là Văn Lang”— Hồ Chí Minh
Từ thời Lạc Long Quân,lãnh thổ đã chia rõ Bắc và Nam,phía Bắc sông Dương Tử là dân của Khan nên gọi là người Hán,phía Nam sông Dương Tử là dân của Lang đó là người Bách Việt. Sự kiện Lạc Long Quân lên làm vua và phân định Bắc-Nam còn để lại đến ngày nay di tích là ngôi đền thờ trên núi Thiên Đài cao 179m gần sông Tương thuộc thành phố Trường Sa tỉnh Hồ Nam(Hồ của người Nam-TQ),với đôi câu đối:
天台代代分南北
靈地年年與越常
THIÊN ĐÀI ĐẠI ĐẠI PHÂN NAM BẮC
LINH ĐỊA NIÊN NIÊN DỮ VIỆT THƯỜNG
(Thiên Đài Nam-Bắc chia đôi
Đất thiêng mãi mãi là nơi Việt Thường)
Nước Văn Lang của người Lạc Việt (tức Nác Việt—Nước Việt) của người Bách Việt,là các dân tộc anh em ,cùng gen Mongoloit-phương Nam,cùng hệ ngữ Nam Á, bắc giáp hồ Động Đình(vùng Hồ Nam),đông giáp Đông Hải,tây giáp Ba Thục(vùng Tứ Xuyên,lúc đó là nước của người Ba,là dân tộc cổ đại nay đã tuyệt diệt),nam giáp Hồ Tôn(vùng Nam Bộ Việt Nam ngày nay).Đây là điều mà trong cổ thư chữ Hán bên Trung Quốc và trong Đại Việt sử ký toàn thư của Việt Nam đều có nói.
Cuộc khởi nghĩa của hai bà Trưng chống cuộc xâm lăng của Hán Vũ Đế đã được sự hưởng ứng của toàn dân Bách Việt,trong đó có 162 nữ tướng ở 65 châu đã đứng lên cầm quân đánh đuổi Tô Định và Mã Viện của nhà Hán.Sự oanh liệt của cuộc khởi nghĩa và sự hy sinh trác liệt trong chiến trận của Hai Bà đã lưu lại tục thờ Vua Bà ở năm tỉnh phía nam sông Trường Giang(TQ) và ở Việt Nam ,còn lại trong tín ngưỡng dân gian của người Việt Nam ở Việt Nam và của người Hoa ở vùng Hoa Nam cho đến ngày nay.
Ở Hồ Nam có đền thờ Vua Bà, có đôi câu đối như sau:
一劍南湖惊武帝
千刀北岭鎮劉龍
NHẤT KIẾM NAM HỒ KINH VŨ ĐẾ
THIÊN ĐAO BẮC LĨNH TRẤN LƯU LONG
(Hồ Nam Vũ Đế kinh hồn
Gươm đao Bắc Lĩnh đuổi dồn Lưu Long)
Ở một đền thờ khác cũng thuộc tỉnh Hồ Nam có đôi câu đối như sau:
積稠洞庭威鎮漢
芳流名史力扶徵
TÍCH TRÙ ĐỘNG ĐÌNH UY TRẤN HÁN
PHƯƠNG LƯU DANH SỬ LỰC PHÙ TRƯNG
(Quân đông bạt Hán Động Đình
Lưu thơm danh sử dốc lòng phù Trưng)
Miếu thờ ba nữ tướng do Trần Thiếu Lan cầm đầu hưởng ứng khởi nghĩa Hai Bà Trưng đánh Tô Định ở Hồ Nam có đôi câu đối như sau:
慷慨扶徵時不利
短長逐定節肝云
KHẢNG KHÁI PHÙ TRƯNG THỜI BẤT LỢI
ĐOẠN TRƯỜNG TRỤC ĐỊNH TIẾT CAN VÂN
(Gian nan vẫn với Bà Trưng
Đánh đuổi Tô Định một lòng tâm can)
Ở bến Bồ Lãng ngã ba sông ,vùng thượng du sông Trường Giang, nơi giáp Tứ Xuyên có đền thờ ba danh tướng đã hy sinh trong cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng,có đôi câu đối như sau:
江上三英扶女主
浦浪百族哭神徵
GIANG THƯỢNG TAM ANH PHÙ NỮ CHÚA
BỒ LÃNG BÁCH TỘC KHỐC THẦN TRƯNG
(Phò Bà ,miền thượng theo chân
Trăm họ Bồ Lãng khóc thần Vua Trưng)
Nhắc lại trận chiến oanh liệt ở miền thượng, giáp Tứ Xuyên,đền thờ Hai Bà Trưng ở Ngọc Động Gia Lâm Hà Nội cũng có đôi câu đối như sau:
载北息征塵功劳逐定
浦浪揚怒浪義重扶徵
TÁI BẮC TỨC CHINH TRẦN CÔNG LAO TRỤC ĐỊNH
BỒ LÃNG DƯƠNG NỘ LÃNG NGHĨA TRỌNG PHÙ TRƯNG
(Đuổi Tô Định,bụi Bắc chinh
Sóng hờn Bồ Lãng nhớ tình phò Trưng)
Hai Bà Trưng quyết lãnh đạo nhân dân đánh đuổi quân xâm lược để “dựng lại nghiệp xưa họ Hùng”.Mười tám thời đại Hùng Vương nối tiếp nhau trải gần 3000 năm của nước Văn Lang,ở mỗi thời đại đó, người lên làm vua đều gọi là Vua Hùng,một thời kỳ lịch sử của nền văn minh Lạc Việt rực rỡ.Hãy nghe kể chuyện xưa…
Nghe kể chuyện xưa
Tôi nghe kể chuyện mấy ngàn năm
Dân Việt cần cù vượt khó khăn
Đắp đập, ngăn đê khi lũ lụt
Khơi sông, tát suối lúc khô cằn
Ghe thuyền ra biển tôm cá bắt
Cung nỏ lên rừng thú vật săn
Đo nắng, ngắm trăng nên lịch pháp
Muôn đời truyền mãi sách kinh văn.
Minh Xuân
Họa lại bài Nghe kể chuyện xưa
適應自然,興旺農林魚商,鴻庬氏已千年越困
明知日月,創造陰陽五運,越洛書得萬世流傳
THÍCH ỨNG TỰ NHIÊN,HƯNG VƯỢNG NÔNG LÂM NGƯ THƯƠNG,
HỒNG BÀNG THỊ DĨ THIÊN NIÊN VIỆT KHỐN.
MINH TRI NHẬT NGUYỆT,SÁNG TẠO ÂM DƯƠNG NGŨ VẬN,
VIỆT LẠC THƯ ĐẮC VẠN THẾ LƯU TRUYỀN.
Ngàn năm thích ứng thiên nhiên
Hồng Bàng con cháu vươn lên cần cù.
Vạn năm sách Việt không mờ
Âm Dương Bát Quái bây giờ còn soi
Chuyện trầu cau
Tôi nghe kể chuyện miếng trầu cau
Tình cảm gia đình mãi đậm màu
Tân Lang,Lưu thị đều trọng nghĩa
Anh em chồng vợ chết vì nhau.
Dưới trời cao vút ngọn cây cau
Quấn quít xanh xanh cánh lá trầu
Đá vôi nồng vị do lòng đất
Trầu nhai cho nước đỏ lên màu.
Nước hồng có phải nước Hồng Bang?
Xích Quỉ—Quẻ Ly đất của Lang
Câu chuyện trầu cau lưu truyền mãi
Ngàn năm têm đậm nghĩa xóm làng.
Minh Xuân
Họa lại bài Chuyện trầu cau
Quẻ Ly có phải tấm lòng?
Giữa sàn nhà, bếp lửa hồng lung linh (*)
Ba chân kiềng,một vòng cong
Muôn năm vững chãi một lòng chữ Tâm.(**)
(*)Loại nhà sàn có bếp đặt ở giữa sàn nhà,đồng bào ta vẫn gọi là “nhà quẻ ly”.
(**)Chuyện ba người chung tình cùng nhảy vào đống lửa chết là hình ảnh của chữ Tâm có bốn nét là ba chân kiềng một vòng cong,nhưng bốn nét của chữ Tâm lại là từ bốn nét của quẻ Ly,nghĩa là Lả(lửa).Người Việt thường nói “lửa lòng”mà ít nói “nhiệt huyết”.
Hiếu với trời đất
Tôi nghe kể chuyện nước Văn Lang
Lang Liêu dâng bố chẳng bạc vàng
Mà tấm lòng thành gom trời đất
Vuông tròn đúc đủ nghĩa thế gian.
Âm Dương một đạo để ngàn đời
Rọi sáng đường đi cả tộc người
Bánh chưng, bánh dầy vui ngày tết
Tưởng nhớ Lang xưa với sách trời.
Minh Xuân
Họa lại bài Hiếu với trời đất
Nghìn năm Dương ở trong Âm
Vạn năm Âm vẫn cứ nằm trong Dương
Viên văn với lại chữ vuông (*)
Bánh cúng nhắn gửi cháu con Lạc Hồng
Trê còn cãi nổi Cóc không? (**)
Vạn năm khoa học tỏ lòng thế gian.(***)
(*)Viên văn là văn tự bằng những nốt tròn đặc và rỗng(mà xưa gọi là chắc và óp) sắp xếp theo qui luật để diến tả ý nghĩa trong Lạc thư và Hà đồ của người Lạc Việt, nó có trước, như gợi nhắc của cái bánh dầy. Bánh dầy tượng trưng cho trời tròn; bánh có màu trắng, không vị của nếp giã thể hiện sự thuần khiết; tính dẻo thể hiện sự thông biến; hình tròn thể hiện sự viên mãn của Dương. Chữ vuông là gợi nhắc của cái bánh chưng, là loại văn tự hình vuông có sau của người Lạc Việt. Từ “văn tự”chính là từ “vuông chữ”của tiếng Việt (nó cũng như người Việt nói “vuông ruộng”, “vuông vườn”, “vuông lụa” hay “mảnh lụa”,và nhỏ hơn tất cả là cái diện tích “vuông chữ” mà người Triều Châu tức Việt Mân đến nay vẫn gọi là “vuông dìa” còn người Quảng Đông tức Việt Đông đến nay vẫn gọi là “mảnh dìa”, vuông lụa với mảnh lụa thì nó chẳng là một thì là gì? “vuông-chữ-nho-nhỏ” sau người Việt tiếp tục vo trong cái nôi hình tròn biểu tượng Âm Dương của người Lạc Việt thì nó bị vò rụng đầu “vuông”và rụng đuôi “nhỏ” đi thì còn cái lõi giữa là “chữ-nho”) là cái diện tích vuông nho nhỏ trong đó có ghi ký tự biểu ý. Lúc đầu nó là những ký tự xếp vuông bằng những kẻ vạch tượng trưng Âm, Dương tạo thành các “vuông chữ” như của bát quái và quẻ dịch, sau nó thành chữ Nôm của người Nam, rồi chữ Nho của người Việt và người Hoa, cuối cùng nó định hình thành những vuông chữ (văn tự) gồm tượng hình và biểu ý và gọi là chữ nho (vì nó là hình vuông nho nhỏ). Người Hán chinh phục Trung Hoa, chuyên làm quan nên gọi là “quan tộc” và tiếng của họ gọi là “quan thoại” tức tiếng phổ thông Trung Quốc ngày nay, từ “vuông chữ” của Việt được họ phiên âm là “wấn dư” tức “văn tự”, vuông chữ tức chữ nho được gọi là Hán Tự(chữ Hán) kể từ thời nhà Hán đến ngày nay.
Bánh chưng tượng trưng cho đất vuông.Từ trong ruột ra ngoài vỏ của bánh chưng là thịt heo màu đỏ tượng Hỏa, đậu xanh màu vàng tượng Thổ, gạo nếp màu trắng tượng Kim, nước và diệp lục tố màu thâm tượng Thủy, lá dong màu lục tượng Mộc, đó là thứ tự của chiều ngũ hành tương sinh.Thuyết Âm Dương Ngũ Hành là lý thuyết khoa học của người Lạc Việt giải thích sự hình thành vũ trụ là từ Dương ban đầu sinh ra Âm, như câu nói “mẹ tròn con vuông”, và tương tác của năm loại vật chất. Nó là cơ sở của lý học, khoa học phong thủy, khoa học đông y. (Chữ “vũ” nghĩa là “khoảng không gian chứa”, chữ “trụ” là “thời gian”, ghép lại thành từ “vũ trụ” nghe có vẻ cao siêu, lại viết bằng hai chữ Nho đã bị Hán cướp nên gọi là chữ Hán càng thấy cao siêu nữa. Chứ thực ra chữ “trụ” là từ chữ “trời” của Việt là mặt trời tạo ra thời gian như trống đồng nào cũng có hình mặt trời chính giữa mặt trống. Chữ “vũ” cũng từ Việt mà ra : bắt đầu từ “vỏ” là cái bầu bên ngoài chứa cái bên trong, đến “vò” là bầu chứa rượu, “vó” là cái chứa cá, “vú” là bầu chứa sữa, “vũ” là bầu không gian chứa tất cả, “hũ” là bầu chứa mắm, “bồ” chứa lúa, “rổ” chứa rau, “rọ” chứa lợn, “tộ” chứa cá kho, “tô” chứa canh, cái “mo” chứa nang cau là buồng nụ hoa cau còn chưa nở, mà tất cả các từ Việt ấy đều do từ “propro” của tiếng Khơ Me bị vo tròn trong nôi Âm Dương của người Lạc Việt nên rụng đầu , rụng đuôi còn lại âm tiết lõi giữa là cái “ổ” tức cái chứa trăm trứng Bách Việt là dòng giống Việt và Hoa anh em cùng gen ngày nay, loại trừ Hán trong cái hợp chủng quốc Trung Quốc ngày nay vì Hán thuộc gen tiểu chủng Mongoloit , chứ không phải gen Mogoloit phương nam). Còn biểu tượng hình tròn Âm Dương có hai con nòng-nọc cái-đực bên trong chính là một bít thông tin, có hai giá trị xác suất là 0 và 1, cơ sở của hệ đếm nhị phân và tin học. Cái bọc tròn biểu tượng Âm Dương ấy cũng là một cái “nôi khái niệm” để cái “nôi” ấy sinh ra mọi “nời” “nói”Việt, theo kiểu tự phân đôi để sinh sản của một tế bào. Lúc đầu là tế bào “mỗi”, nó tự tách đôi thành “mập-mờ”còn dính nhau mang nghĩa chưa rõ là 0 cũng chưa rõ là 1. Hai cái phôi dính nhau ấy lớn lên, nở ra, tách rời hẳn nhau thành “mô” tức con số 0 và “một” tức con số 1, đó là hai từ đầu tiên của muôn muôn từ trong tiếng Việt, mà mỗi tiếng đơn âm tiết ấy như một cái trứng , là một từ, mang một khái niệm cụ thể rõ ràng. Bởi vậy người Việt gọi tiếng của dân tộc mình là tiếng mẹ đẻ.
(**)Chuyện Trê và Cóc. Cóc rời khỏi nước tức mất nước, nước mất một nghìn năm. Chữ Nòng-Nọc đã bị hủy diệt ,nhưng tổ tiên vẫn nhắn gửi cháu con hãy nhớ lấy văn hóa dân tộc qua chuyện Trê Cóc, qua tranh Thầy đồ Cóc, qua câu “Con Cóc là cậu ông trời”
Thiên thư vốn tự sách trời
Qua tay kẻ khác vẫn đòi về ta.
(***)Các ngành khoa học hiện đại đang chứng minh cho thế giới thấy rõ nguồn gốc của văn minh Đông phương chính là văn minh Lạc Việt, nền văn minh của nước Văn Lang, đã bị tàn phá và cướp lấy. Nhưng da Hàng Thịt vẫn không che mờ nổi hồn Trương Ba. Kẻ du mục chăn thả ăn thịt không cướp đoạt nổi bản quyền tác giả của nền văn minh lúa nước.
Đến khi nòng-nọc đứt đuôi
Lại về với Cóc, cái nôi Việt nhà.
(Xem thêm các bài của Lãn Miên trên mạng “lyhocdongphuong.org.vn”)