Published using Google Docs
Bệnh dạ dày và hành tá tràng
Updated automatically every 5 minutes

Bệnh dạ dày và hành tá tràng

Bài 1. Tự chữa viêm dạ dày mạn tính

Tâm lý, tính tình người bệnh có liên quan trực tiếp đến bệnh viêm dạ dày. Nếu hay cáu gắt, căng thẳng làm dạ dày phải co bóp, các mạch máu nhỏ bị chà xát, bản thân dạ dày bị giảm khả năng tự bảo vệ, vị toan tăng nhanh… thì bệnh sẽ tăng lên. Vì vậy, người bệnh phải lạc quan, tinh thần thư giãn, vui vẻ thoải mái.

Bị kích thích lâu ngày, bị chà xát và tổn thương, ăn uống vô độ không có quy luật, căng thẳng tư tưởng… là những nguyên nhân gây nên bệnh viêm dạ dày mạn tính. Người bệnh đau bụng ngâm ngẩm, có khi đau rát, cảm thấy đầy hơi nhất là sau khi ăn, hơi thở nóng, tiêu hóa kém, không thấy thèm ăn, rêu lưỡi dầy nhớt hoặc vàng nhớt, chất khô. Người bị viêm dạ dày dạng xơ teo mạn tính có khi còn kèm theo thiếu máu dạng thiếu sắt, gầy còm.

Theo Đông y, nếu bệnh có các biểu hiện: mặt trắng bệch, mệt mỏi, mất sức, ăn uống kém… được quy về dạng tỳ vị hư hàn. Nếu đau dạ dày, đau hai bên sườn, miệng khô, đắng, dễ cáu gắt, bí đại tiện, lưỡi có rêu vàng thì được quy vào chứng can hỏa lan đến dạ dày. Còn nếu miệng khô, lưỡi đỏ rêu bóng, ngủ không ngon giấc, nhiều mộng, đại tiện táo thì được quy về dạng tổn thương âm vị.

Đau dạ dày mạn tính là một bệnh rất phức tạp, tới nay chưa có cách điều trị hiệu quả thực sự. Vì vậy, để có cách chữa trị lý tưởng thì phải kết hợp chữa nhiều mặt.

- Không sử dụng các chất kích thích như rượu, thuốc lá, cà phê đặc hoặc trà đặc.

- Ăn uống thanh đạm, ăn những thứ dễ tiêu hóa. Kỵ ăn chua, ăn nguội, quá nóng, quá cay và đồ khô rắn, tránh để đói hoặc no quá.

- Khi ăn phải nhai chậm, nhai kỹ sẽ có lợi cho tiêu hóa. Nên ăn nhiều bữa và số lượng thức ăn trong mỗi bữa có thể ít đi.

- Ăn uống phải đúng giờ, không ăn phàm uống tục.

- Viêm dạ dày dạng co bóp, vị toan tiết ra giảm, nên người bệnh có thể ăn thêm hoa quả chua, sữa chua, canh thịt để tăng thêm dịch vị.

- Nếu vị toan tăng nhiều (bệnh nhân bị ợ chua, nôn nao, cảm thấy nóng ruột, ăn nhiều nhưng dễ đói) có thể ăn thêm rau xanh nhiều xơ, bánh bích quy…

- Kiêng ăn các thực phẩm ướp hoặc xào rán, ít ăn các thực phẩm mặn và các loại bánh quá ngọt.

- Khi bị viêm mũi, viêm họng hoặc khoang miệng phải chữa trị kịp thời để tránh nuốt vi trùng vào dạ dày, gây viêm niêm mạc dạ dày.

- Hạn chế dùng một số thuốc có corticoit, thuốc giảm đau…

- Giảm hoặc tránh động phòng nhiều.

- Tích cực tham gia rèn luyện thân thể, đặc biệt là khí công.

Một số món ăn chữa bệnh

– Sữa chua 50 ml, nước sôi làm ấm hoặc thêm chút đường nha, ăn ngày 2 lần khi đói. Dùng cho người bị viêm dạ dày dạng xơ teo mạn tính (người viêm dạ dày dạng khác thì phải kiêng ăn món này).

- Mía rửa sạch róc vỏ, ép lấy 100 ml nước, chia 2 lần uống sớm tối. Dùng cho người bị viêm dạ dày dạng xơ teo, hoặc viêm dạ dày mạn tính, dạ dày âm bị tổn thương.

- Tiểu hồi hương 6g, gừng tươi 6g, thêm nước nấu, lấy nước đó cho 100 g gạo tẻ nấu thành cháo loãng. Dùng cho người bị viêm dạ dày mạn tính, yếu lạnh đau bụng.

- Cải củ tươi 200 g, giã nước, pha nước sôi rồi để cho ấm, chia lần uống nóng.

- Dạ dày lợn 1 bộ, rửa sạch, đậu tương 100 g, thêm nước vừa đủ, đun nhừ chia bữa ăn. Dùng cho người viêm dạ dày mạn tính, sức khỏe kém.

(Theo Khoa học và Đời sống)

Bài 2. 5 loại thực phẩm dễ gây viêm loét dạ dày

Các bác sĩ đã đưa ra lời khuyên cho người bị viêm loét dạ dày nên tránh thực phẩm và đồ uống dưới đây để tránh tình trạng viêm loét nặng thêm.

1. Thịt đỏ

Khi ăn thịt đỏ vào cơ thể sẽ làm cho cơ thể cảm thấy khó khăn hơn trong quá trình tiêu hóa chúng vì các protein động vật thường có hàm lượng axit cao.

Vì thế, khi muốn tiêu hóa các loại thịt đỏ này, cơ thể phải tăng sản xuất nhiều hơn các axit trong dạ dày. Sự gia tăng axit này sẽ dẫn đến những khuấy động không tốt bên trong dạ dày và có thể dẫn tới nhiều sự khó chịu cho chủ nhân nếu bạn có một dạ dày nhạy cảm hoặc đã bị loét dạ dày tá tràng trước đó.

2. Thực phẩm chiên

Những thực phẩm chiên và các loại thực phẩm giàu chất béo khác như khoai tây chiên kiểu Pháp, bánh rán cũng thường khiến dạ dày và gan phải làm việc chăm chỉ hơn so với khi bạn ăn các thực phẩm ít chất béo khác.

Điều này cũng gây căng thẳng gia tăng cho quá trình tiêu hóa, gây kích thích và đau đớn cho dạ dày, dễ dẫn đến viêm loét dạ dày tá tràng.

3. Thực phẩm và đồ uống chứa nhiều caffeine

Những thực phẩm giàu caffeine hoặc đồ uống chứa caffeine khi đi vào cơ thể thường sản xuất axit trong dạ dày. Các axit này lại tiếp tục kích thích niêm mạc dạ dày và điều này có thể gây đau, khó chịu cho dạ dày của bạn nếu dạ dày của bạn trước đó đã có vết loét hoặc đang gặp các vấn đề về dạ dày.

Theo đó, bạn nên tránh những thực phẩm và đồ uống chứa nhiều caffeine bao gồm sô cô la nóng, ca cao, cà phê và trà…

4. Đường và bột tinh chế

Những thực phẩm có chứa đường tinh chế cũng gây khó khăn cho dạ dày khi tiêu hóa chúng. Ngoài ra, bạn nên tránh những thực phẩm có chứa bột tinh chế, bao gồm bánh mì trắng, bánh quy giòn,và các loại bánh ngọt được sản xuất thương mại khác.

5. Thực phẩm chứa nhiều gia vị cay

Nhiều người cho rằng những thực phẩm cay có thể gây ra viêm loét dạ dày tá tràng. Tuy nhiên, lại có rất ít bằng chứng y tế đằng sau lời đồn thổi này.

Và thực tế đã chứng minh, hầu hết viêm loét dạ dày tá tràng là do vi khuẩn và một số loại thuốc chứ không phải đổ lỗi hoàn toàn do các thực phẩm cay.

Song cũng phải công nhận một điều, các thực phẩm nhiều gia vị và gia vị cay cũng có thể gây kích ứng loét niêm mạc dạ dày. Vì thế, nếu bạn đã có một vết loét trên dạ dày, hãy hạn chế và tránh xa ớt tươi, ớt bột vì chúng là những gia vị cay nóng không có lợi cho dạ dày của bạn.

Theo aFamily

Bài 3. Bài thuốc đơn giản chữa dứt bệnh đau dạ dày chỉ trong 15 ngày

Những lợi ích cho sức khỏe con người của đậu rồng có thể thấy rất rõ. Nhưng ít người biết, đậu rồng chữa đau dạ dày cực kỳ hiệu nghiệm.

Đậu rồng chấm với mắm tôm chà là món ăn khoái khẩu của người dân Nam Bộ, nhất là ở Gò Công (Tiền Giang) – nơi sản xuất mắm tôm chà đặc biệt, hoặc chấm với nước mắm kho quẹt, nước tôm rim.

Thực ra toàn cây đều sử dụng được chứ không riêng gì quả. Lá làm rau ăn, hoa dùng trong các món bánh, rễ giống như khoai tây nhưng giàu chất dinh dưỡng hơn, hạt có mùi giống măng tây nên khi phơi khô đem rang sẽ chế biến được loại thức uống có hương vị rất ngon.

Những lợi ích cho sức khỏe con người của đậu rồng có thể thấy rất rõ vì nó có hàm lượng canxi cao nhất trong số tất cả các loại đậu, rất có lợi cho khung xương của con người, nhất là trong việc phòng chống loãng xương.

Đậu rồng cũng là một nguồn khoáng sản tự nhiên cung cấp cho con người rất nhiều vitamin (A, C), là những vitamin giúp gia tăng sức đề kháng và chống lão hóa tế bào.

Trong quả đậu rồng còn có chất sắt giúp phòng chống thiếu máu, nhiều men tiêu hóa thiên nhiên rất tốt cho sức khỏe. Là một cây họ đậu nên đậu rồng cũng chứa hàm lượng cao protein có thể thay thế cho protein từ động vật, tốt cho người ăn chay và phòng bệnh suy dinh dưỡng.

Các món ăn chế biến từ đậu rồng tiêu biểu nhất là thái mỏng, trộn chung với xà lách, hành tây, tỏi, thêm xốt chanh chua ngọt để làm món rau ghém; chế biến thành món dưa chua để dành dùng dần; hạt khô pha với các loại hạt khác như đậu nành, đậu đen, đậu xanh… xay thành bột để dùng như sữa bột giúp chữa bệnh suy dinh dưỡng, trẻ em bụng ỏng da xanh xao.

Nên mua đậu rồng lúc mới hái và còn tươi, không có đốm nâu trên trái, không bảo quản lâu trong tủ lạnh vì nó sẽ bị biến màu và giảm chất lượng.

Trước khi ăn cần rửa sạch dưới vòi nước, để ráo, cắt bỏ cuống. Muốn bảo quản dùng dần thì nên cho vào bao ni lông gói kín, để trong tủ lạnh nhưng tối đa cũng chỉ nên giữ trong 2 ngày.

Chữa dứt bệnh đau dạ dày bằng hạt đậu rồng già

Nếu răng bạn còn khỏe, hãy lấy hạt đậu rồng già, rang với muối cho vàng thơm hong để cháy.

Sáng sớm bụng đói, nhai khoảng 10 – 12 hạt.

Nếu răng yếu, thì xay nhuyễn, vẫn phải nhai 1 muổng cafe bột đó, mà nhai 20 lần rồi mới nuốt từ từ…

Liên tục trong khoảng 15 buổi sáng là khỏi bệnh, nếu người bị nặng thì cần dùng trong thời gian lâu hơn.

(Theo Tri Thức Trẻ)

Bài 4. Loét dạ dày, hành tá tràng

“Xin bác sĩ cho biết về bệnh loét dạ dày và hành tá tràng, triệu chứng và nguyên nhân. Khi bị bệnh trên thì nên ăn uống như thế nào?”.

Trả lời:

Loét dạ dày và hành tá tràng là hai bệnh mạn tính có chung một cơ chế do mất cân đối giữa các yếu tố bảo vệ niêm mạc và các yếu tố tấn công dạ dày. Nguyên nhân chung gây bệnh là do tiết quá nhiều axit HCl, do vi khuẩn H. Pylori và do dùng thuốc chống viêm. Các yếu tố thuận lợi gây bệnh là cà phê, rượu, thuốc lá, stress, thời tiết (mùa lạnh mắc bệnh nhiều hơn).

Triệu chứng:

Loét dạ dày: Đau hoặc tức bụng, khó chịu vùng dưới mỏ ác. Đau tăng sau khi ăn, kèm buồn nôn hoặc nôn, giảm cân do chán ăn hoặc ăn vào thấy đau.

Loét hành tá tràng: Đau rất rát hoặc như xói vùng dưới mỏ ác, nhiều khi có cảm giác đầy, tức bụng. Thường đau khi đói, vào ban đêm và giảm nhanh khi ăn hoặc uống thuốc. Người bệnh không sụt cân nhưng đau dai dẳng, có thể dẫn đến thủng và chảy máu dạ dày.

Bệnh có thể gây các biến chứng như chảy máu dạ dày, thủng ổ, loét, hẹp môn vị, loét ung thư hoá.

Bệnh nhân cần tránh các thức ăn dễ kích thích như rượu, gia vị (ớt, hạt tiêu), chất chua. Không hút thuốc, ăn chậm, nhai kỹ. Tuỳ từng giai đoạn và các biến chứng mà có chế độ ăn riêng. Nếu đang bị chảy máu dạ dày thì người bệnh cần nằm tại chỗ, ăn thức ăn lỏng, chia thành nhiều bữa đến khi hết đau.

BS Trịnh Hoàng Minh, KH&PT

Bài 5. Thuốc trị loét dạ dày – tá tràng

Bệnh loét dạ dày tá tràng (DDTT) đang có chiều hướng tăng. Ở các nước phát triển có khoảng 10% dân số bị mắc, ở nước ta, tỷ lệ này khá cao, khoảng trên 25% trong các bệnh nội khoa, đứng đầu các bệnh tiêu hóa.

Bệnh nguyên của loét DDTT do nhiều yếu tố như rối loạn hoặc mất thăng bằng cơ chế bảo vệ niêm mạc, u tiết gastrin, stress tâm lý, hút thuốc lá, uống rượu, thuốc chữa bệnh (thuốc chống viêm không steroid (NSAIDS), các corticosteroid…). Trong trường hợp loét dạ dày thì sự trào ngược các chất chứa từ tá tràng lên dạ dày và sự chậm chuyển thức ăn từ dạ dày xuống ruột cũng là yếu tố liên quan.

Từ năm 1983, mốc quan trọng tìm ra vi khuẩn Helicobacter pylori (HP), liệu pháp kháng HP đã được nghiên cứu và sử dụng. Thuốc phải đạt được 4 yêu cầu: giảm đau nhanh, liền sẹo lâu dài ổ loét, ngăn ngừa biến chứng và giảm tái phát.

Tam liệu pháp mà Gastrostrat là đại diện đã thu được kết quả tốt ở nước ta khoảng 10 năm nay. Thuốc gồm có một hợp chất bismuth (thường dùng là bismuthat trikali dicitrato) và hai thuốc kháng sinh (tetracyclin và metronidazol) dùng trong 10-14 ngày. Có công thức dùng muối bismuth khác và thay tetracyclin bằng amoxicilin. Theo thống kê, thuốc này có kết quả điều trị loét DDTT tới 80-90% bệnh nhân. Tuy nhiên, việc tuân thủ nghiêm ngặt cách điều trị như uống đủ liều (bộ thuốc) đúng giờ, lần uống, lượng thuốc… là một khó khăn không nhỏ với người bệnh.

Ít năm nay, công thức kết hợp được cải tiến gồm có omeprazol + một nitro imidazol (tinidazol) + một kháng sinh như amoxicilin đặc biệt là clari thromycin tỏ ra hiệu quả hơn. Thuốc chỉ cần dùng 7 ngày. Thuốc có thể loại trừ hết HP trên 98% trường hợp. Các biệt dược đóng thành một bộ hiện có trên thị trường như pylokit, pylobact, pylorex là tam liệu pháp cải tiến đó.

Công thức kết hợp khác thay omeprazol bằng ức chế thụ thể H2 như ranitidin + 2 kháng sinh cũng có hiệu quả nhưng phải dùng trong 14 ngày hoặc kết hợp một phức chất của ranitidin với một muối bismuth (bismutrex) + một kháng sinh amoxicilin hoặc clarithromycin và dùng thuốc trong 14 ngày.

Hiện nay, công thức kết hợp thuốc vẫn được cải tiến như dùng tam liệu pháp với omeprazol thành tứ liệu pháp , ngũ liệu pháp (tức là tứ liệu pháp + vitamin B2) tỏ ra có hiệu quả hơn, đó cũng là liệu pháp tối ưu dễ được chấp nhận.

Việc dùng một nitroimidazol (omeprazol) trước khi dùng liệu pháp thuốc kết hợp sẽ làm giảm hiệu lực của liệu pháp. Nhưng nếu dùng khoảng 3-4 tuần nữa, sau khi dùng liệu pháp kết hợp thì hiệu quả hơn.

Các liệu pháp khác như trung hòa hoặc ức chế tiết acid, đối kháng thụ thể histamin H2 trước đây đã được dùng rộng rãi, nhưng phải dùng lâu dài có khi tới 8-12 tuần. Các thuốc ức chế bơm proton (như omeprazol, lansoprazol, pantoprazol) ức chế sâu và lâu dài việc tiết acid dạ dày, tỷ lệ khỏi loét tá tràng gần 100% sau 2-4 tuần, nhưng với loét dạ dày chỉ đạt khoảng 80% sau 4 tuần dùng thuốc. Omeprazol được ưu tiên lựa chọn. Các thuốc chống acid kết hợp giữa nhôm và magiê (không nên dùng loại đơn độc nhôm hoặc magiê ít hiệu quả và nhiều tác dụng phụ) như maalox, gasvicon và các thuốc tương tự có tỷ lệ khỏi bệnh ngang với thuốc ức chế thụ thể H2 trong loét hành tá tràng nhưng đạt tỷ lệ thấp với trường hợp loét dạ dày.

Trong dược văn còn nói đến các prostaglandin ức chế tiết acid ở dạ dày thuốc tương tự alprostadil như misoprostol cũng làm vết loét lành lại, lại có tác dụng phòng chống loét do các thuốc NSAIDS và corticosteroid. Thuốc kháng muscarin chọn lọc M1 pirenzepin cũng được dùng để chữa loét dạ dày – tá tràng do ức chế tiết acid dạ dày. Các phức chất sucrose nhôm sucralfat cũng được ưa dùng.

Loét do thuốc (NSAIDS và corticosteroid): ngừng ngay dùng thuốc gây loét và dùng liệu pháp kháng HP nếu xét nghiệm dương tính, nếu không có HP thì dùng thuốc khác. Nếu vẫn phải dùng CVPS, corticosteroid thì dùng ranitidin hoặc famotidin, tốt hơn là omeprazol để bảo vệ. Trường hợ

9/19/2003 4:27:09 PM Tác giả: – Theo Báo SK&ĐS – 05

Bài 6. Để điều trị tốt bệnh loét hành tá tràng

Những hiểu biết về cơ chế sinh bệnh và cách điều trị bệnh loét hành – tá tràng (LHTT) đã được đổi mới sâu sắc trong những năm 90 nhờ việc phát hiện ra Helicobacter pylori (HP).

Đây là loại trực khuẩn Giam âm có hình xoắn, urease dương (biến đổi trê thành ammoniac), được tìm thấy chủ yếu vùng hang vị dạ dày và là nguyên nhân gây ra nhiều bệnh dạ dày – tá tràng: LHTT (95% các trường hợp); loét dạ dày (70% các trường hợp); viêm dạ dày mạn tính; ung thư tuyến dạ dày; u lympho bào dạ dày; rối loạn tiêu hóa không do loét. HP được phát hiện trực tiếp bằng cách: sinh thiết hang vị rồi đọc trên kinh hiển vi (xét nghiệm mô học: xem hình trang 23); cấy bệnh phẩm sinh thiết hang vị; tìm HP bằng phương pháp sinh học phân tứ. HP được phát hiện gián tiếp bằng cách: làm test với Urê (cao- test); test huyết thanh học; test hô hấp với trê. Khi nào phải xét nghiệm tìm HP? Khi bệnh nhân bị loét dạ dày và LHTT; u lympho bào dạ dày; viêm dạ dày có nếp thô; viêm thực quản mạn tính. Cần diệt HP để phòng ngừa không mắc bệnh ung thư tuyến dạ dày, khi bệnh nhân bị loét dạ dày và LHTT; u lympho bào dạ dày, kể cả một số rối loạn tiêu hóa.

3 VIỆC CẦN LÀM

Điều trị tấn công loét hành tá tràng chế độ ăn và sinh hoạt Bỏ hẳn thuốc lá. Hàng ngày, ăn vào giờ cố định, nhai kỹ, không làm việc trong khi ăn. Kiêng rượu, cà phê, các đồ uống có ga. Ngưng dùng các thuốc chống đông (thuốc chống kết tập tiểu cầu) trừ trường hợp bắt buộc phải dùng. Không dùng các thuốc có hại cho dạ dày (thuốc kháng viêm không steroid, aspirin, corticoid). điều trị bằng thuốc Diệt HP: HP có mặt ở 95% các ca LHTT. Nếu đã tìm thấy HP là phải diệt ngay bằng thuốc chống tiết (như mopral) kèm với hai kháng sinh (như amoxicillin + clarithromycin) trong 1 tuần.

Điều trị tổn thương loét: Sau 1 tuần dùng ba thuốc trên, bắt đầu điều trị tổn thương loét. Lúc này ngừng 2 kháng sinh trên và tiếp tục dùng thuốc chống tiết trong 3 tuần nữa. Tổng cộ ng thời gian điều trị là 4 tuần. Cuối đợt điều trị nếu bệnh nhân có một trong ba điểm sau đây thì mới phải nội soi dạ dày lại:

Trước khi làm phẫu thuật; Khi cần phải dùng các thuốc có hại cho dạ dày (aspirin, thuốc kháng viêm không đặc hiệu) hoặc thuốc chống đông; Các triệu chứng vẫn tồn tại dù đã điều trị đúng cách. nếu điều trị thất bại Cần xem lại bệnh nhân có thực hiện đúng các nội dung điề u trị ớ trê n khô ng. Phái loại trừ những nguyên nhân sau: HP kháng với kháng sinh: sinh thiết hang vị để lấy bệnh phẩm cấy và làm kháng sinh đồ; Tái nhiễm HPL LHTT thứ phát của một số bệnh nội khoa: suy thận, tă ng tiết acid, cường tuyến cận giáp… Điều trị củng cố loét hành tá tràng Điều trị củng cố không còn cần thiết nữa kể từ khi người ta đã diệt được HP bởi vì tỷ lệ tái phát đả giảm từ 75% xuống dưới 5%. Chỉ cần điều trị củng cố trong 2 trường hợp:

Phòng biến chứng: chảy máu, hẹp; Bệnh nhân cần phải dùng các thuốc hại cho dạ dày để chữa các bệnh khác. Nội dung điều trị củng cố là: tuân thủ chế độ ăn, sinh hoạt và dùng thuốc, chẳng hạn: thuốc chống tiết loại kháng histamin H2: ranitidin (Raniplex) viên 150mg, uống 1 viên trước khi đi ngủ buổi tối và thuốc chống loét: sucralfat (Keal) 1 gói làm x 2 lần/ngày. Xét điều trị phẫu thuật. Nếu bệnh nhân có các đặc điểm sau đây:

• Loét có chảy máu;

• Loét gây hẹp;

• Loét không đáp ứng với thuốc điều trị.

Có hai loại phẫu thuật là: cắt 2/3 dạ dày hoặc cắt bỏ hang vị và cắt dây thần kinh phế vị. Phẫu thuật viên sẽ chọn cách mổ tùy từng trường hợp cụ thể.

VIỆC KHÔNG CẦN LÀM

Không dùng đồng thời hai loại thuốc chống loét (Mopral, Lanzor…). không kéo dài thời gian điều trị tấn công (tức là quá 4 – 8 tuần, tùy loại thuốc) bằng thuốc chống loét (trừ phi các triệu chứng vẫn tồn tại).

Không điều trị củng cố bằng thuốc chống loét khi đang dùng thuốc diệt HP.

Không tiêm các thuốc chống loét nếu bệ nh nhân vẫn uống được.

Không dùng các thuốc chống tiết (Rangtidin, Mopral..,) với liều cao hơn liều thường dùng để điều trị chảy máu tiêu hóa do loét.

Không dùng thuốc chống loét để điều trị các rối loạn tiêu hóa đơn thuần (nghĩa là không kèm theo các triệu chứng trào ngược dạ dày – thực quản, nóng rát thượng vị và sau xương ức).

Không điều trị bệnh nếu trước đó chưa nội soi để khẳng định chẩn đoán và tìm HP.

Không cần phải làm kháng sinh đồ ngay từ đầu khi nội soi đã phát hiện được HP.

Không cần phải nội soi lại để xem tổn thương loét dã liền chưa và/hoặc HP đã bị diệt hết chưa sau đợt điều trị chỉ khi nào bệnh nhân đã từng có biến chứng trong tiền sử, hoặc khi họ cần phải dùng lại các thuốc kháng viêm không đặc hiệu, corticoid, aspirin, thuốc chống đông mới phải làm như vậy.

Không cần phải nội soi lại trước khi điều trị cơn đau tái phát trong vòng hai năm sau khi bệnh nhân đã được chẩn đoán là LHTT.

Bài 7. LOÉT DẠ DÀY – TÁ TRÀNG

PGS. PTS HOÀNG MINH

Dạ dày – tá tràng đóng vai trò quan trọng trong tiêu hóa thức ăn. Thức ăn sau khi được cắt nhỏ, nghiền nát, nhào quyện với nước bọt ở miệng đến dạ dày tá tràng được các dịch tiêu hóa ở đây tiếp tục quá trình tiêu hóa. Ở dạ dày dịch tiêu hóa chủ yếu là dịch vị, ở tá tràng có dịch tá tràng, dịch tụy, dịch mật từ túi mật đổ xuống. Đau dạ dày là từ dân gian để chỉ quá trình bệnh lý (viêm, loét, ung thư…) không chỉ ở vùng dạ dày mà cả vùng tá tràng. Hai vùng này có những điểm chung nhưng cũng có nhiều điểm khác nhau về quá trình bệnh lý. Ở đây chỉ khu trú vấn đề trong loét dạ dày – tá tràng. Bệnh này thường xảy ra ở người lớn tuổi (thanh niên, trung niên, người già). Loét tá tràng thường gặp ở người trẻ hơn (thanh niên, trung niên). Loét dạ dày ở người lớn tuổi hơn (trung niên, người già.

* Người loét dạ dày tá tràng có đặc điểm là hay đau bụng vùng trên rốn (thượng vị) nhiều năm từ vài ba năm đến hàng chục năm. Đau có tính chu kỳ, thường về mùa rét, mỗi lần 5-10 ngày. Các đợt đau thường liên quan đến các chấn thương tinh thần, tình trạng căng thẳng thần kinh, thường về mùa rét. Loét tá tràng thường đau khi đói, đau về đêm, ăn vào bớt đau nên người bệnh luôn có sẵn thức ăn (kẹo, bánh quy…) bên mình. Loét dạ dày ít đặc điểm này. Đau có chu kỳ với những đặc điểm trên là triệu chứng quan trọng nhất của loét dạ dày – tá tràng.

* Để chẩn đoán, phải chụp X quang có cản quang (baryt) vùng dạ dày – tá tràng hoặc nội soi tìm ổ loét.

Đối với loét dạ dày, ổ loét có thể ở vùng bờ cong nhỏ, bờ cong lớn hoặc vùng hang vị, môn vị. Loét bờ cong nhỏ dễ bị ung thư hóa hơn loét bờ cong lớn. Loét vùng môn vị tá tràng dễ gây hẹp môn vị, sa dạ dày. Chỉ có loét dạ dày mới có thể ung thư hóa. Hầu như không gặp điều đó ở loét tá tràng.

Ảnh ổ loét trong loét tá tràng có thể giúp đánh giá kết quả điều trị và tiên lượng bệnh. Xét nghiệm dịch vị trong loét dạ dày ít có thay đổi có giá trị. Có thể độ axit bình thường, hoặc có thể ít hoặc tăng. Trong loét hành tá tràng độ axit tăng rất rõ. Loét dạ dày dễ bị thủng hơn loét hành tá tràng, loét hành tá tràng hay thấy chảy máu hơn. Biến chứng chảy máu hoặc thủng nhiều khi là biểu hiện đầu tiên ở người bệnh không có triệu chứng rõ ràng. Chính do các biến chứng này mới xác định được bệnh cho người bệnh. Loét dạ dày có thể kết hợp với xơ gan. Tỷ lệ này gặp ở 10-17% người xơ gan trên thế giới. Ở nước ta 10% có thể loét với u tụy gây ra hội chứng Zollinger ellison với các dấu hiệu: tiêu chảy, phân mỡ, dạ dày tá tràng có nhiều ổ loét ở những vị trí bất thường. Ở nước ta chúng tôi cũng phát hiện được một số bệnh nhân có hội chứng này.

* Nguyên nhân gây loét được nói đến rất nhiều. Thô sơ nhất trước đây có người coi loét dạ dày – tá tràng liên quan đến vấn đề ăn uống (uống nhiều rượu, ăn nhiều gia vị, chất kích thích dạ dày…). Có giả thuyết nêu lên do tình trạng tinh thần (Loét thường hay có ở người có chấn thương tình cảm, hay xúc động, sốc tinh thần. Thời kỳ chiến tranh số người mắc bệnh tăng lên. Thành phố Leningrad trong thế chiến 2 thời gian bị Đức Quốc xã bao vây có rất nhiều người loét dạ dày – tá tràng…), thần kinh (người ta nói đến vai trò thần kinh 10 trong bệnh này vì thế đã nhiều phẫu thuật viên cắt thần kinh 10 để điều trị loét) v.v… Gần đây nhất giả thuyết nguyên nhân sinh bệnh do mất thăng bằng giữa yếu tố gây loét và yếu tố chống loét được nêu: dịch vị có độ axit cao vượt quá khả năng chống đỡ của niêm mạc hành tá tràng bình thường, hoặc do niêm mạc dạ dày giảm dinh dưỡng nên không đủ khả năng chống lại dịch vị có độ axit ít hoặc bình thường.

* Những lý thuyết trên đã dẫn người ta đến các cách xử trí rất khác nhau. Phổ biến nhất trước đây là cắt bỏ phần dạ dày mà người ta cho rằng tiết nhiều axit (vùng hang vị, phần dạ dày phía dưới): phẫu thuật Bilroth 1, Bilroth 2, Polya, Finsterer v.v… hoặc cắt dây thần kinh 10 đoạn phân nhánh cho dạ dày v.v… nhưng kết quả đạt được không như người ta nghĩ. Năm 1972 khái niệm mới coi niêm mạc dạ dày là nơi tiếp nhận histamin H2 được nêu. Khái niệm này đã đưa đến việc dùng các thuốc ức chế nơi tiếp nhận histamin H2: burinamide, metiamide và mới nhất là cimétidine (biệt dược là tagamet) rồi ranitidine (biệt dược là azantac, raniplex).

Năm 1982 hai nhà khoa học người Autralia là Barry Masshall và S. Robinson Warren phát hiện ra Helicobacter pylori và chứng minh chính vi khuẩn này là nguyên nhân gây viêm loét đã tạo nên sự đổi mới hoàn toàn trong điều trị bệnh này.

Hiện nay người ta điều trị loét dạ dày – tá tràng bằng kháng sinh Amoxicillin, Klien có tác dụng với H. Pylori, thuốc ức chế nơi tiếp nhận histamin H2: Cimétidine (tagamet), Nanitidine (azantac), thuốc chống tiết dịch dạ dày (ức chế bơm proton): Lanzor, Omez…, thuốc kháng axit và băng rịt: Gastropulgite, Kremil S, Maalox, Phospha lygel v.v… Phẫu thuật được dùng cho những trường hợp ổ loét xơ chai, không điều trị khỏi bằng phương pháp nội khoa, có biến chứng: thủng dạ dày, hẹp môn vị v.v… Người bệnh được khuyên có chế độ ăn uống, làm việc, nghỉ ngơi hợp lý, phù hợp với tình trạng sức khỏe.

Bài 8. Thực phẩm nên tránh của người có bệnh dạ dày và đường ruột

Các bệnh về dạ dày và đường ruột có thể trầm trọng thêm do ăn uống không lành mạnh.

Vì vậy, với những người có dạ dày và ruột yếu, nên tránh các loại thực phẩm không phù hợp với mình.

1/ Tránh thức ăn chiên

Các loại thực phẩm chiên luôn luôn nhiều dầu và chất béo rất cao. Nếu bạn đang gặp rắc rối với tình trạng viêm ruột, ăn nhiều thực phẩm chiên có thể gây tiêu chảy. Do đó, cần giảm tiêu thụ các loại thực phẩm chiên càng nhiều càng tốt.

2/ Giảm ăn hành tây sống

Hành tây dồi dào các chất dinh dưỡng bảo vệ tim. Tuy nhiên, lượng hành tây sống cũng có thể gây đau bụng cho bạn. Hành tây nên được nấu chín để phân hủy hoàn toàn một số hợp chất hóa học.

3/ Không nên ăn bông cải xanh và cải bắp chưa nấu chín vào bữa tối

Mặc dù các chất dinh dưỡng như cellulose có thể cải thiện sức khỏe cho bạn, nhưng chúng có thể tạo khí trong ruột bên trong cơ thể. Cách tốt nhất để giải quyết vấn đề là bạn nên đun sôi bông cải xanh và cải bắp để phân hủy triệt để các chất lưu huỳnh có thể tạo ra khí.

4/ Nên kiểm soát mức độ tiêu thụ sôcôla

Ăn quá nhiều sô cô la có thể làm giãn cơ vòng thực quản dưới, là nguyên nhân gây ra trào ngược dịch dạ dày.

5/ Tránh nước cam

Các loại nước trái cây có tính axit có thể làm nhiễu loạn đường tiêu hóa và kích thích các dây thần kinh nhạy cảm. Nếu mọi người uống nước cam trong lúc đói cồn cào, đường tiêu hóa có thể sẽ bị các chất có tính acid lấp đầy và gây ra đau bụng. Ngoài ra, nước chanh cũng có thể gây tiêu chảy đối với một số người bị bệnh đường ruột.

6/ Không nên ăn đào

Đào có giá trị dinh dưỡng khá cao và có nhiều thành phần dinh dưỡng. Ví dụ, đào chứa nhiều chất sắt, đóng vai trò quan trọng trong việc ngăn ngừa bệnh thiếu máu cho cơ thể.

Pectin có trong đào cũng có thể ngăn ngừa táo bón. Tuy nhiên, với bệnh nhân bị bệnh dạ dày, ăn đào khá nguy hiểm vì vấn đề tiêu hóa. Ngoài ra, ăn nhiều đào cũng có thể gây đầy bụng.

7/ Nên tránh ăn kem vào mùa hè

Chất béo trong kem khá cao. Những bệnh nhân bị bệnh dạ dày và đường ruột sẽ gặp khó khăn khi tiêu hóa kem. Ngoài ra cũng dễ bị đau bụng hơn.

Theo Trân Trân – Thế giới đàn ông

Bài 9. Những loại thực phẩm không dành cho người đau dạ dày

1. Hành tây sống

Hành tây và tỏi có chứa rất nhiều hợp chất thực vật. Trong đó, rất nhiều hợp chất có lợi cho việc bảo vệ tim mạch, tuy nhiên cũng có một số loại sẽ gây đau bụng. Bởi vậy khi sử dụng hành tây và tỏi tốt nhất nên làm chín. Như vậy cơ thể vừa có thể hấp thụ được chất dinh dưỡng vừa giảm được tác dụng phụ.

2. Súp lơ xanh, bắp cải sống

Súp lơ xanh và bắp cải là những loại rau có chứa nhiều chất xơ, có lợi cho sức khỏe. Tuy nhiên khi đi vào đường ruột, nó lại dễ sinh ra nhiều khí gây đầy bụng. Vì vậy cách tốt nhất nên làm chín súp lơ xanh và bắp cải trước khi sử dụng.

3. Các chế phẩm từ đậu

Các sản phẩm được làm từ đậu phụ có chứa các chất dinh dưỡng phong phú song nó cũng có thể gây đau dạ dày. Bởi chỉ có enzyme trong bụng mới có thể phân giải được được loại thực phẩm này. Tuy nhiên nếu chúng ta không thường xuyên ăn đậu thì bụng sẽ không có đủ enzyme để tiêu hóa và kết quả là chúng ta rất dễ bị trướng bụng.

4. Chocolate

Đối với những ai bị mắc bệnh đau dạ dày tốt nhất không nên ăn chocolate bởi nó sẽ gây trào ngược axit trong dạ dày.

Lê Nguyễn

Theo Phap luật Viet Nam, 2/3/2012

Bài 10. Tự xoa bóp phòng chống viêm loét dạ dày, tá tràng

Việc xoa bóp có thể làm giảm cơn đau bụng cấp do viêm loét dạ dày, tá tràng khi không có thuốc và bác sĩ ngay tại chỗ. Nó cũng là cách phòng bệnh tích cực và có thể hỗ trợ cho các phương pháp trị liệu khác.

Quy trình tiến hành cụ thể:

- Xoa bụng: Dùng một hoặc hai bàn tay đặt chồng lên nhau, xoa bụng theo chiều kim đồng hồ với một lực ấn vừa phải trong 5 phút. Trước đó, có thể dùng một loại dầu nóng xoa khắp bụng một lượt.

- Day ấn huyệt Trung quản: Dùng ngón tay cái hoặc ngón tay giữa day ấn huyệt Trung quản trong 2 phút sao cho có cảm giác tức nặng tại chỗ và lan sâu vào bên trong dạ dày.

Vị trí huyệt Trung quản: Từ rốn đo thẳng lên trên 4 tấc (1 tấc bằng chiều ngang của ngón tay cái). Đây là một huyệt vị trí hết sức quan trọng, có công dụng giảm đau, điều hòa chức năng co bóp và bài tiết của dạ dày.

- Day ấn huyệt Nội quan: Dùng ngón tay cái day ấn huyệt Nội quan trong 2 phút sao cho đạt cảm giác tê tức tại chỗ là được.

Tìm huyệt Nội quan: Từ giữa lằn chỉ cổ tay đo lên trên 2 tấc, huyệt nằm giữa hai gân cơ gan tay lớn và gan tay bé (nắm bàn tay và gấp nhẹ vào cẳng tay sẽ làm nổi rõ hai gân này).

- Day ấn huyệt Túc tam lý: Dùng ngón tay cái hay ngón tay giữa đồng thời day ấn cả hai huyệt Túc tam lý trong 2 phút, sao cho có cảm giác tê tức tại chỗ và lan xuống mặt ngoài hai bàn chân là được.

Vị trí huyệt Túc tam lý: Sờ bờ trước xương ống chân (mào chày) từ dưới cổ chân ngược lên, đến gần khớp gối, ngón tay bị mắc lại ở đâu thì đó là lồi củ trước xương chày, từ đây đo ra ngoài một tấc là vị trí huyệt, ấn vào sẽ có cảm giác tê tức lan xuống bàn chân. Đây là một huyệt vị rất quan trọng, điều hòa công năng dạ dày và ruột, nâng đỡ sức đề kháng của cơ thể.

Quy trình trên cần được tiến hành kiên trì, đều đặn mỗi ngày 2 lần vào buổi sáng và tối. Khi có cơn đau cấp, có thể làm thêm lần thứ ba.

ThS Hoàng Khánh Toàn, Sức Khỏe & Đời Sống

Bài 11. Phát hiện ung thư dạ dày

“Tôi bị đau dạ dày đã lâu, được nội soi và kết luận là viêm dạ dày, dùng thuốc theo đơn nhưng không khỏi. Nếu muốn phát hiện ung thư dạ dày thì có phương pháp khám xét gì chắc chắn?”.

Tùy từng tình huống mà có phương pháp thích hợp.

1. Nếu mới bị ung thư dạ dày hoặc ổ loét cũ vừa mới ung thư hóa thì:

- Khi chụp X-quang dạ dày, trên một loạt phim chụp trong cùng một tư thế (để so sánh) sẽ thấy bờ cong bé co bóp thiếu mềm mại, tại chỗ thấy có hiện tượng “cứng đơ” (như một tấm ván nằm trên mặt nước gợn sóng).

- Soi dạ dày để kiểm tra trực tiếp tình hình tại khu vực nghi vấn, nhất là để làm sinh thiết tại đó (lấy một mẫu mô để làm xét nghiệm giải phẫu bệnh). Nếu thấy hiện diện những tế bào bất thường, phải mổ sớm cắt đoạn dạ dày; sau đó tiếp tục làm xét nghiệm trên mảnh cắt nhằm xác định thêm và phân loại để có hướng theo dõi và chữa tiếp sau phẫu thuật (hóa trị liệu nếu cần).

2. Nếu ung thư đã để hơi muộn, chụp X-quang dạ dày sẽ thấy có hình khuyết nơi bờ cong bé; hình khuyết này tồn tại trên một loạt phim chụp trong cùng một tư thế. Lúc này, thủ thuật soi dạ dày không cần thiết nữa; tốt nhất là bệnh nhân vào viện sớm để xét mổ, sau đó cho xét nghiệm mảnh cắt. Có thể phải cắt tới 3/4, thậm chí 4/5 dạ dày (ung thư càng ở cao càng phải cắt rộng); sau mổ phải kết hợp thêm hóa trị liệu.

Trong trường hợp ung thư để hơi muộn, nhiều khi bệnh nhân tự phát hiện các hạch nằm trên xương đòn trái.

3. Nếu ung thư đã để khá muộn, có thể sờ thấy một đám rắn chắc vùng thượng vị (dưới mỏ ác), thường có hạch rõ trên xương đòn trái. Lúc này, triệu chứng đã quá rõ, việc chụp X-quang chỉ nhằm khẳng định thêm mà thôi (sẽ thấy vùng hang vị bị thu hẹp lại do ung thư ôm lấy nó). Trường hợp này, nếu còn mổ được thì phải cắt toàn bộ dạ dày (đưa một phần ruột non lên khâu với thực quản). Đây là một phẫu thuật nặng nề và nhiều nguy cơ biến chứng.

Do vậy, nếu bị loét dạ dày, bệnh nhân phải hết sức cảnh giác phòng nguy cơ bị ung thư hóa, nhất là khi loét ở phần đứng của bờ cong bé. Điều trị nội khoa thật tích cực một thời gian, nếu không thuyên giảm, nên phẫu thuật sớm để tránh hậu họa (trái lại, loét tá tràng không dẫn đến nguy cơ trên).

Bài 12. Khi nào phải mổ cắt đoạn dạ dày?

“Anh bạn tôi trên 50 tuổi, bị loét hành tá tràng lâu năm, mấy tháng nay đau liên miên không chịu nổi, hầu như không ăn uống, người gầy mòn. Bạn muốn mổ nhưng gia đình lại can ngăn. Xin cho biết khi nào thì phải mổ cắt đoạn dạ dày?”.

Bạn hãy chuyển đến người thân của anh bạn một số tình huống phải mổ để họ tham khảo:

a) Nói chung, loét hành tá tràng đau theo chu kỳ sau đây: đói đau, ăn vào đỡ, trời lạnh đau hơn trời ấm, khi đầu óc căng thẳng đau nhiều hơn khi thanh thản… Khi đau không theo chu kỳ nữa có nghĩa là bệnh đã nặng. Trong trường hợp này, nếu chữa chạy tích cực một thời gian ngắn không đỡ thì phải nghĩ đến phẫu thuật, cho dù bệnh nhân còn trẻ, thậm chí đang tuổi thiếu niên.

b) Loét hành tá tràng cũng có nguy cơ ăn thủng vào tụy, vào gan, cho nên khi thấy đau liên miên, hãy nghĩ đến tình huống này và sớm tới bệnh viện để xét mổ.

Trường hợp anh bạn kia nằm trong cả (a) và (b).

c) Khi một ổ loét bị thủng đã mổ khâu cấp cứu, người ta khuyên 6 tháng sau nên mổ cắt đoạn dạ dày (chỉ định là tương đối nếu loét hành tá tràng, tuyệt đối nếu loét bờ cong nhỏ).

d) Nếu ổ loét chảy máu nặng hay kéo dài mà chữa nội khoa không kết quả, lối thoát duy nhất là cắt đoạn dạ dày.

Tại sao phải cắt tới 2/3 dạ dày?

“Khi mổ loét dạ dày – tá tràng, tại sao bác sĩ cứ phải cắt bỏ tới 2/3 dạ dày, mà không tiến hành khoét chỗ loét đi rồi khâu lại, có phải nhẹ nhàng hơn không?”.

Nếu “sáng kiến” của bạn mang lại kết quả tốt thì hay biết mấy! Rất tiếc là không thể làm như vậy, bởi vì nếu chỉ khoét bỏ ổ loét đi rồi khâu lại thì sau khi mổ, một ổ loét mới sẽ xuất hiện ngay tại nơi đã xử trí.

Vì sao vậy? Loét dạ dày hay loét tá tràng là hậu quả của hiện tượng đa toan (nhiều axit) của dạ dày; nếu không thanh toán được nguyên nhân này thì phẫu thuật sẽ thất bại.

Người ta chia dạ dày thành 3 vùng, tính từ dưới lên, như sau:

- Vùng hang vị: Chiếm non 1/3 cuối của dạ dày, chuyên việc tiết chất kiềm.

- Vùng thân vị: Chiếm khoảng già 1/3 giữa, chuyên tiết chất toan (axit).

- Vùng phình vị, chiếm khoảng non 1/3 trên, tiết hỗn hợp kiềm-toan.

Khi thức ăn xuống dạ dày, vùng hang vị bị kích thích đầu tiên, tiết ra chất kiềm; chính chất kiềm này sẽ khởi động việc tiết ra chất toan của vùng thân vị.

Ở người bị loét dạ dày-tá tràng được mổ cắt 2/3 dạ dày (nghĩa là cắt hết vùng hang vị và gần hết vùng thân vị), thì mức tiết toan của dạ dày chủ yếu do vùng phình vị đảm nhiệm, luôn ở mức bình thường. Nếu bác sĩ cắt bỏ không đủ 2/3 dạ dày (nghĩa là để lại quá nhiều tổ chức của vùng thân vị) thì về sau, ngay tại miệng nối của dạ dày với ruột non sẽ sinh ra một ổ loét mới, gọi là loét miệng nối. Trường hợp này phải xử trí lại bằng một phẫu thuật phức tạp, thậm chí nguy hiểm.

Tại sao phải cắt đoạn dạ dày cấp cứu?

“Con trai tôi 32 tuổi, kêu đau bụng vùng mỏ ác khoảng một năm thì bị thủng dạ dày, phải đi mổ cấp cứu. Cháu đã ra viện và cho biết bị thủng ổ loét bờ cong bé, được mổ cắt đoạn dạ dày ngay trong đêm vào viện. Thấy cháu bình phục, tôi rất mừng, nhưng vẫn băn khoăn sao phải cắt dạ dày sớm vậy, tưởng thủng thì chỉ khâu chỗ thủng thôi?”.

Thông thường, khi gặp thủng ổ loét tá tràng, bác sĩ chỉ tiến hành khâu lỗ thủng, lau sạch ổ bụng, đặt ống dẫn lưu, rồi đóng bụng lại. Trước khi ra viện, họ dặn bệnh nhân “nếu tiếp tục đau thì sau ít nhất 6 tháng phải trở lại để cắt đoạn dạ dày”.

Sở dĩ họ làm như vậy là vì:

- Một số trường hợp khâu xong thì khỏi luôn, bệnh nhân không đau lại; đó là trường hợp loét chưa lâu năm, bờ ổ loét còn tương đối mềm mại.

- Thời gian 6 tháng cho phép ổ bụng ổn định lại, các chỗ dính giữa quai ruột bớt đi nhiều. Nếu mổ sớm hơn, sẽ gặp nhiều tổ chức dính hơn, gây khó khăn cho tiến trình mổ cũng như giai đoạn sau mổ.

- Khi dạ dày bị thủng, chất dịch và thức ăn tràn ngập ổ bụng, vì vậy chỉ xử trí tối thiểu như trên là an toàn nhất.

Tuy nhiên, có những tình huống buộc bác sĩ mổ phải cân nhắc lợi hại, có thể phải “mạnh tay hơn” thì mới đem lại kết quả cao nhất cho bệnh nhân. Đó là khi gặp phải một số tình huống như sau:

- Vừa thủng dạ dày vừa chảy máu dạ dày (tổn thương mạch máu ngay tại chỗ thủng). Việc cứng nhắc, chỉ tiến hành khâu không thôi thì sẽ nguy hiểm đến tính mạng bệnh nhân (nếu như máu vẫn tiếp tục chảy, chữa không cầm thì lại phải mở ổ bụng để cắt đoạn dạ dày, khiến bệnh nhân mất thêm nhiều máu).

- Thủng ổ loét bờ cong bé: Loét bờ cong bé thường có khuynh hướng ung thư hóa. Nếu chỉ khâu lỗ thủng rồi chờ 6 tháng e không kịp, bởi lẽ, nếu đã ngấm ngầm có hiện tượng ác tính hóa thì cuộc mổ ấy sẽ thúc cho tiến trình đó nhanh lên gấp bội. Mà mổ lại trước 6 tháng sẽ khó hơn vì chưa thật ổn định.

- Chỉ thủng ổ loét tá tràng, nhưng là một ổ loét lâu năm và xơ chai; nếu chỉ khâu không thôi sẽ dễ gây hẹp làm cản trở lưu thông (hẹp môn vị), chỗ khâu có nguy cơ bị bục.

Trong những tình huống nói trên, nếu tình trạng bệnh nhân tốt, ổ bụng tương đối sạch…, bác sĩ sẽ tiến hành mổ cắt đoạn dạ dày luôn. Và khi mổ, nếu xét thấy đã có dấu hiệu ác tính hóa, bác sĩ còn phải cắt rộng hơn (3/4 thay vì 2/3 dạ dày như thường lệ).

Như vậy, trường hợp con trai bác rơi vào tình huống sau cùng, và dù sao cháu cũng may mắn đã gặp được vị bác sĩ có đầu óc tỉnh táo, hết lòng vì bệnh nhân và có kỹ thuật mổ tốt; xung quanh vị đó có những bác sĩ phụ mổ ăn ý, kíp gây mê hồi sức trực có trình độ. Bởi lẽ mổ cắt dạ dày cấp cứu thường không được thuận lợi như mổ theo kế hoạch hằng tuần.

Bài 13. Nôn ra máu nhưng không thấy ổ loét

“Em trai tôi 35 tuổi, đang khỏe mạnh bỗng nôn ra nhiều máu tươi và lâm râm đau bụng; bệnh viện cho thuốc cầm máu và truyền máu thì khỏi. Hơn hai năm nay, nó không đau bụng hoặc nôn, không phải dùng thuốc gì, sức khỏe tốt, chụp X-quang dạ dày không thấy loét. Gia đình rất mừng nhưng vẫn lo vì thấy người ta bảo chảy máu dạ dày là do bị loét dạ dày-tá tràng, phải thuốc men liên tục vì đau, thậm chí bị nôn ra máu tái phát”.

Nếu đúng là kết quả chiếu chụp X-quang cho thấy niêm mạc dạ dày bình thường, bờ cong bé và bờ cong lớn mềm mại, không có ổ loét ở dạ dày hay tá tràng thì nhiều khả năng là cách đây hai năm, em trai bạn bị nôn ra máu không phải do một ổ loét của dạ dày hay tá tràng, mà là do một vết trợt ở niêm mạc dạ dày.

Vết trợt niêm mạc dạ dày (VTNMDD) là một tổn thương cấp tính, ít gặp, xảy ra trên người trước đó không có dấu hiệu gì của bệnh dạ dày-tá tràng, thường ở người trẻ. Chảy máu có thể dữ dội ngay từ đầu nhưng có thể cầm được bằng thuốc men và truyền máu, sau đó vết trợt khỏi hẳn, không để lại dấu vết.

Nguồn gốc của VTNMDD chưa được làm sáng tỏ (không rõ thức ăn thức uống nhất thời hay vi khuẩn Helicobacter pylori có can dự gì vào đây không?)

Bài 14. Diệt thủ phạm gây loét dạ dày – tá tràng

“Tôi có người em 27 tuổi bị loét hành tá tràng, có người mách nên uống Helikit. Xin cho biết chi tiết về tác dụng của thuốc và cách sử dụng”.

Người ta đã xác định 80-100% trường hợp loét dạ dày – tá tràng là do vi khuẩn Helicobacter pylori gây ra, và đã tìm ra được thuốc điều trị có hiệu quả, trong đó có Helikit.

Helikit được đóng thành vỉ, mỗi vỉ có 3 viên (1 viên nang Omeprazole 20 mg, 1 viên nén Tinidazole 500 mg và 1 viên nén Amoxycillin 750 mg); mỗi hộp có 14 vỉ dùng trong 7 ngày liền, mỗi ngày uống 2 lần vào sáng và tối, mỗi lần 1 vỉ (tức cả 3 viên một lúc). Sau đó, uống thêm Omeprazole 20 mg mỗi ngày 2 viên (chia làm 2 lần) trong 3 tuần liền. Như vậy, liệu trình hoàn chỉnh là 4 tuần, hết một hộp 14 vỉ (khoảng 180 ngàn đồng) và 42 viên Omeprazole.

Omeprazole ức chế mạnh sự tiết axit của dạ dày, tạo thuận lợi cho tác dụng chống Helicobacter pylori của Tinidazole (can thiệp vào việc tổng hợp ADN của vi khuẩn) và của Amoxycillin (kháng sinh phổ rộng, diệt được cả vi khuẩn Gram – và Gram+).

Do đó, phải uống 3 thứ một lúc (cả vỉ), trong 7 ngày liền, thì mới có tác dụng, và sau đó dùng thêm Omeprazole trong 21 ngày liền để tiếp tục ức chế tiết axit.

Bài 15. ĂN KHOAI TÂY CÓ LỢI CHO CHỮA BỆNH DẠ DÀY

PTS. BS NGUYỄN MINH HẢI

(Theo Ứng dụng các thức trong chữa bệnh – TQ)

Trung y học cho rằng khoai tây vị ngọt, tính bình, có công hiệu kiện tỳ hòa vị, ích khí điều trung, có thể chữa trị được các chứng bệnh như đau dạ dày và bí đại tiện. Y học hiện đại cho rằng chất nightshade có trong khoai tây có thể làm giảm sự tiết ra dịch vị, có tác dụng chống co giật dạ dày, có hiệu quả nhất định đối với chữa bệnh đau dạ dày.

1/. Những người vị toan (gastric acid) quá nhiều, trước mỗi bữa ăn nửa giờ, ăn 100g cháo khoai tây nấu đặc, có thể có hiệu quả chữa trị nhất định.

2/. Những người buồn nôn, bị nôn mửa, ăn uống giảm sút và có bệnh về chức năng giác quan thần kinh, có thể dùng 100g khoai tây, 100g gừng tươi, 1 quả quít rửa sạch, thái nhỏ, giã nát, vắt lấy nước trước bữa ăn, uống 15ml nước đó, sẽ có hiệu quả chữa bệnh rất tốt.

3/. Khoai tây tươi cạo vỏ, rửa sạch, giã nát, cho lượng nước sôi để nguội hòa vào, rồi vắt lấy nước. Hàng ngày, sớm và tối, lúc bụng đói, uống 1 chén nước đó. Liên tục uống trong 1 tháng, sẽ có tác dụng chữa trị rất tốt đối với bệnh loét hành dạ dày và loét tá hành tràng. Nếu hàng ngày, sớm tối, vào lúc đói, uống 15ml nước ép đó có hòa thêm một ít mật ong, thì hiệu quả càng tốt hơn.

4/. Khoai tây tươi 1.000g, sau khi cạo rửa sạch, thái nhỏ, giã nát, cho thêm nước, dùng khăn sạch vắt lấy nước, lại dùng nước đó cho vào trong nồi đun nhỏ lửa. Khi đã đặc lại, đổ ra bát, để nguội, hòa ít mật ong vào và ăn. Mỗi lần ăn 15ml chia 2 lần vào lúc đói, có thể có tác dụng tốt trong chữa trị bệnh dạ dày và loét hành tá tràng; đồng thời cũng chữa được bí đại tiện do thói quen.

Cũng cần phải biết thêm về độc tính của khoai tây để có biện pháp đề phòng bị trúng độc.

Như trên đã nói, trong khoai tây có chứa chất độc nightshade – một loại kềm sinh vật (alkaloid) có kết cấu glucoside. Trong trường hợp bình thường, khoai tây có chứa lượng chất rất ít. Nhưng nếu bảo quản không hợp lý hoặc vì thời tiết oi bức, khoai tây lên mầm hoặc bị úng thối, thì hàm lượng chất độc hại này lại tăng lên rất nhiều.

Qua kiểm nghiệm đối với các loại khoai tây, đã chứng minh rằng: Trong trường hợp bình thường, các bộ vị trong khoai tây đều có chất nightshade (trong đó hàm lượng ở trong các mầm khoai tây là cao nhất, kế đến là ở vỏ khoai, còn trong phần chất thịt của khoai thì ít nhất) Lượng nightshade có chứa trong mầm khoai tây so với trong chất thịt của khoai tây cao gấp 100 lần. Chất nightshade có chứa trong vỏ khoai tây so với trong chất thịt của khoai tây cao gấp 7-8 lần. Hàm lượng nightshade trong vỏ các loại khoai tây thì chênh lệch nhau không lớn, nhưng ở những củ khoai có vỏ xanh, khi đã gọt vỏ, hàm lượng chất nightshade trong chất thịt của khoai vẫn còn khá cao. Qua ngâm nước, xào nấu, chất nightshade thực ra không giảm mấy. Điều này chứng tỏ chất nightshade có tính ổn định chứ không bị nhiệt phá hủy, không tan trong nước, dù có ngâm cũng không thể trôi ra nước được. Rất nhiều tài liệu nghiên cứu chứng tỏ: khi ăn khoai tây chất nightshade hấp thu vào cơ thể chỉ cần 0,2g là đã có thể bị trúng độc. Nếu hấp thu từ 0,3-0,4g một lúc là có thể gây trúng độc nghiêm trọng. Chất nightshade có tác dụng làm tan máu, (phá hủy hồng cầu) có tác dụng kích thích rất mạnh đối với niêm mạc. Triệu chứng trúng độc có những biểu hiện ở đường tiêu hóa như: khô miệng, tê lưỡi, buồn nôn, đau bụng, đi tháo, v.v… Người bị nặng có thể gây khó khăn trong hô hấp, bị co giật, v.v… Vì vậy, cần tránh ăn các loại khoai tây đã lên mầm và đã biến thành màu xanh. Đồng thời phải chú ý ăn lượng vừa phải. Nếu khi ăn khoai tây mà cảm thấy ở miệng bị tê tê, phát ngứa, v.v… thì cần phải ngưng ăn ngay lập tức

Nguồn : Báo Sức Khoẻ Và Đời Sống.

Bài 16. Viên nghệ mật ong

Viên nghệ mật ong là sự kết hợp hoàn hảo của tinh bột nghệ và mật ong rừng thơm ngon. Cùng với những tác dụng vượt trội và sự tiện ích của nó mà sản phẩm này ngày càng trở nên cần thiết trong cuộc sống hàng ngày.

Theo y học cổ truyền, củ nghệ có nhiều tác dụng đặc biệt là tác dụng hành khí, phá ứ huyết, lương huyết, thông kinh lạc. Dân gian coi nghệ là vị thuốc có tác dụng hàn gắn vết thương nên thường bôi lên các mụn nhọt sắp khỏi để mau liền miệng, lên da non và không để lại sẹo xấu.

 

Có thể dùng nghệ với liều lượng 1-6 g/ngày (dưới dạng bột hoặc thuốc sắc) để chữa bệnh đau dạ dày, vàng da, đau bụng sau sinh. Để điều trị bệnh viêm loét dạ dày, tá tràng, y học cổ truyền thường phối chế nghệ với mật ong.

Bên cạnh đó, mật ong cũng là vị thuốc phổ biến trong y học cổ truyền.

 

 Nó được sử dụng làm thuốc bổ cho người lớn và trẻ em, chữa bệnh loét dạ dày và ruột, an thần, viêm họng... với liều 20-50 g/ngày. Mật ong cũng thường được dùng làm tá dược chế thuốc viên hay các dạng thuốc khác. Theo các kết quả nghiên cứu của Nga, mật ong giúp giảm axit trong dạ dày, làm hết các triệu chứng đau xót khó chịu của bệnh loét dạ dày và ruột. Sau một thời gian điều trị bằng mật ong, các bệnh nhân đều lên cân, tiêu hóa tốt.

 

Chính vì những tác dụng đặc biệt trong việc chữa lành vết thương của nghệ và mật ong nên viên nghệ mật ong thực sự phát huy hết tác dụng của nó trong sự kết hợp hoàn hảo với nhau. Sự dụng viên nghệ mật ong rất hiệu quả cho những bệnh nhân viêm loét dạ dày. Chúng ta có thể sử dụng thường xuyên viên nghệ mật ong như một bài thuốc bổ dưỡng để cải thiện tình hình sức khỏe đặc biệt dành cho những bệnh nhân viêm loét dạ dày.

Sản phẩm Rich Bees của chúng tôi chỉ làm từ viên nghệ và mật ong, không sử dụng nguyên liệu khác, vò viên thủ công đảm bảo sạch và an toàn thực phẩm, cải thiện rõ rệt trong điều trị viêm loét dạ dày, viêm dạ dày hổ trợ tiêu hóa và chức năng làm đẹp cho phụ nữ.

Theo http://viennghematong.com/