“Bằng chứng lịch sử” của Trung Quốc cho chủ quyền ở Biển Đông: có thật hay thêu dệt
(Bài đã đăng trên tạp chí Nghiên Cứu và Phát triển số 6/2012)
Mặc dù căn cứ lịch sử ít có sức nặng trong tranh chấp lãnh thổ theo luật quốc tế nhưng hiện nay Trung Quốc (TQ) vẫn nhấn mạnh tới cơ sở này và cố thuyết phục thế giới bằng cái mà họ cho là bằng chứng lịch sử cho chủ quyền của họ ở Biển Đông, đặc biệt là ở quần đảo Trường Sa. Điều này có thể thấy rõ trong 2 sự kiện nóng mới đây là vụ dằng co của TQ với Philippines ở bãi cạn Scarborough và việc TQ mời nước ngoài đấu thầu thăm dò khai thác dầu khí ngoài khơi Việt Nam, cả hai vụ đều trong vùng đặc quyền kinh tế của hai nước tương ứng. Vì thế, việc xem xét kĩ càng các lập luận của TQ để thấy rõ xem họ thật sự có “bằng chứng không tranh cãi” hay không là điều rất đáng làm. Trong phần thảo luận dưới đây, lập luận chính thức của TQ như được công bố trên trang mạng của Bộ ngoại giao TQ (BNG TQ)[1] cả phiên bản tiếng Trung lẫn tiếng Anh sẽ được dùng và đối chiếu với nhau khi cần thiết. TQ đưa ra 3 lập luận chính: (1) TQ là nước đầu tiên khám phá và đặt tên quần đảo Trường Sa, (2) TQ là nước đầu tiên khai phá quần đảo Trường Sa, và (3) TQ là nước đầu tiên thực thi quyền tài phán trên quần đảo Trường Sa.
Vì lập luận của TQ đi ngược trở lại hơn 2000 năm trước nên một số hiểu biết về thế giới gian cổ của người TQ có thể sẽ bổ ích.
Theo quan niệm truyền thống, người TQ cho rằng TQ là nước trung tâm của thế giới và chỉ có người TQ là văn minh còn tất cả các dân tộc khác đều không văn minh hoặc man rợ. Trật tự thế giới theo quan niệm xưa của người TQ có thể phác hoạ bằng hệ thống triều cống (thiên triều - chư hầu) như thể hiện trong sơ đồ sau:
Hình 1 (Nguồn: http://en.wikipedia.org/wiki/File:Tianxia_en-zh-hans.svg
Để gọi các dân tộc khác ở ngoài biên giới TQ, họ dùng từ di (夷: man rợ) với hàm ý ít nhiều miệt thị.[2] Cụ thể hơn, họ dùng từ man (蛮) hoặc nam man để chỉ các dân tộc phía Nam, di (夷) hoặc đông di để chỉ các dân tộc phía đông, nhung (戎) hoặc tây nhung cho các dân tộc phía tây và địch (狄) hoặc bắc địch chỉ các dân tộc phía Bắc, và còn dùng từ tứ di (四夷) để chỉ chung bốn nhóm người này.[3] Về mặt lịch sử, đúng là một số trong số tứ di này, chẳng hạn như người Tạng, Mông, Mãn, Hồi… và lãnh thổ của họ (nay là Tây Tạng, Nội Mông, Thiểm Tây, bắc Sơn tây…) hiện nay là một thành phần của TQ. Nhưng cũng đúng là cùng với các dân tộc di khác như Triều Tiên, Miến Điện, Thái Lan…, người (Lạc) Việt[4] và lãnh thổ giáp với biển Đông của mình (tên cũ là Giao Châu, Giao Chỉ, Văn Lang, Nam Việt, Đại Việt…) từng rơi vào sự thống trị trực tiếp hoặc từng là nước chư hầu của TQ trong quá khứ nhưng cuối cùng thì dân tộc này đã trở nên độc lập hoàn toàn vào thế kỉ 20.
Bây giờ chúng ta hãy trở lại với lập luận của TQ.
Trước hết, chúng ta xem xét 3 quyển sách cổ chủ chốt mà họ có nêu với chi tiết cụ thể.
Nói tóm lại, cả 3 quyển sách mà BNG TQ nêu với chi tiết chỉ là các truyện kể thậm chí có hư cấu thêm, không là các tài liệu lịch sử chính thống. Hơn nữa, một cuốn thì không còn nguyên bản, một cuốn thì đã bị mất, còn cuốn còn lại thì có chứa các chi tiết không chính xác, thiên lệch. Đặc biệt là các trích dẫn mà BNG TQ rút ra từ chúng, nếu theo bản gốc như thảo luận trên, có vẻ phản lại hơn hậu thuẫn cho lập luận của TQ.
Bây giờ chúng ta xét tiếp tới các bằng chứng bản đồ. BNG TQ nêu ra 2 ‘bản đồ’ với nhiều chi tiết.
Như vậy, hai bản đồ cổ chủ chốt này cũng có nhiều điều đáng ngờ giống như các sách cổ nêu trên nên khó lòng có thể hậu thuẫn cho lập luận của TQ.
Trong khi BNG TQ không thể đưa ra được một bản đồ nào ra hồn hậu thuẫn cho đòi hỏi chủ quyền của họ, trên mạng lại có nhiều bản đồ “cổ” thoạt nhìn có vẻ làm được việc này, chẳng hạn như bản đồ sau đây (hình 2).
Hình 3 (Nguồn:http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/c/ca/Qing_Dynasty_1820.png
Tuy nhiên, dễ thấy rằng bản đồ này có những điều chỉnh hiển nhiên vì nó có chứa cả đường 11 chấm mà cho mãi tới năm 1947 mới được vẽ ra lần đầu[22] và các chữ “tranh chấp với An Nam” dù lúc đó An Nam là một nước chư hầu không thể nào dám tranh chấp với thiên triều nhà Thanh, và cùng với những điều chỉnh khác nữa.
Trong khi đó lại có rất nhiều bản đồ và sách địa lí chính thống phản lại lập luận của họ. Chẳng hạn như về sách cổ, trong Đại Nguyên nhất thống chí (大元一统志), Đại Ming nhất thống chí (大明清一统志), Đại Thanh nhất thống chí (大清一统志), Thanh Sử Cảo (清史稿)… không có địa danh nào có tên Tây Sa, Nam Sa hoặc các tên tương tự chỉ hai quần đảo này, hay trong Minh Sử (明史) ngay cả Đài Loan cũng không được nói tới.[23].Về bản đồ, có Mao Khôn đồ (茅坤图: bản đồ Mao Khôn) in trong tập sách toàn thư về quân sự Vũ bị chí (武備志)[24] cuối triều Minh có bản lưu ở Thư viện quốc hội Mĩ, Hoàng dư toàn bản đồ (皇舆全版图) là bộ bản đồ địa lí Trung Quốc được đo vẽ trên thực địa trên phạm vi toàn quốc theo chỉ dụ của vua Khang Hy với sự chủ trì của các giáo sĩ phương Tây từ năm 1708-1718, hay Đại Thanh nhất thống toàn đồ (大清一统全图) hiện có bản lưu ở Thư viện quốc gia Úc ở Canberra(xem hình 3).[25]…. Tất cả bản đồ này đều nhất quán với các sách trên ở chỗ: lãnh thổ TQ kết thúc ở phía Nam với đảo Hải Nam.
Hình 3: Đại Thanh nhất thống toàn đồ (大清一统全图, tựa bản đồ đọc từ phải qua)
(Nguồn: http://www.nla.gov.au/apps/cdview?pi=nla.map-lms639-s1-v)
Đặc biệt là J.V.G. Mills, một học giả Anh vào năm 1970 (nghĩa là trước khi xảy ra các xung đột ở biển Đông manh nha nổ ra năm 1973, và không có một ý niệm nào về mục đích chính trị hiện nay) dựa vào nhiều công trình rất đáng tin cậy kể cả Minh Sử, Mao Khôn đồ và Doanh nhai thắng lãm giáo chú (瀛涯胜览校注: Khảo sát tổng thể bờ biển [1433]),[26]… đã nhận dạng và lập ra danh sách không dưới 715 địa danh ở Đông Nam Á và Ấn Độ Dương nhưng không thấy có tên một rạn đá, bãi ngầm thuộc quần đảo Trường Sa trong những địa danh đã được ghi chép trong danh sách này[27]
Theo lẽ thường khi có bằng chứng vững chắc thì người ta sẽ trình ngay ra trước để bảo vệ lập luận của mình một cách hiệu quả. Như thảo luận trên, tất cả các sách cổ mà BNG TQ nêu ra với chi tiết để hậu thuẫn cho lập luận của họ thì hoặc là bị chỉnh sửa hoặc là không còn, đặc biệt là chúng chỉ là sách kể chuyện thậm chí có hư cấu, không có tính lịch sử, hơn nữa nội dung của chúng lại nói về những thứ bên ngoài biên giới TQ (Giao Châu, Di, Phù Nam) mà BNG TQ muốn bẽ ngoặc thành của TQ. Còn các bản đồ mà họ chú trọng nhiều hơn thì cũng không chính thống và cũng không nguyên gốc. Vì vậy, khó có thể chấp nhận mà không nghi vấn về tính tin cậy của ‘rất nhiều sách sử địa’ hoặc ‘hơn cả trăm loại sách’ và bản đồ mà họ nêu ra chung chung, dù trong đó cũng có một số là tài liệu chính thống.
Ngoài ra, nếu xét thêm các sự kiện lịch sử khác liên quan tới việc đi lại trên biển trong toàn vùng thì lập luận của TQ còn đáng ngờ hơn nữa. Có thể nêu ra ở đây vài sự kiện như vậy: Nhật Nam (nay thuộc tỉnh Quảng Nam) từng có phái bộ của La Mã đến vào năm 166,[28] Óc Eo (nay ở Nam Việt Nam) có thể từng là một hải cảng nhộn nhịp của Phù Nam từ thế kỉ 1 tới 7 và giao dịch cả với người La Mã, Ấn Đô, Ba Tư, Hi Lạp…,[29] và người Chàm hiện sống ở miền Trung Việt Nam, là con cháu của các di dân gốc Malayo-Polynesian từ Borneo tới vùng đất liền Đông Nam Á vào thời đại văn hoá Sa huỳnh thế kỉ 2 và 1 trước Công nguyên[30] …Các sự kiện này cho thấy là các dân tộc này có nhiều khả năng đã đi lại và khám phá các đảo trong biển Đông trước người TQ.
Mặc dù cũng cho rằng TQ là nước đầu tiên đặt tên cho các đảo nhưng BNG TQ không trình bày điều gì đặc biệt hơn ngoài việc nêu ra một vài tên gọi như Trướng Hải, Khi Đầu, Thạch Đường, Vạn lí Trường Sa…. trong lập luận của họ. Để biết điều này có đúng không, chỉ cần so sánh một ít tên các đảo bằng tiếng Trung với tên quốc tế bằng tiếng Anh tương ứng như: Bei dao = North Island, Shi dao = Rocky Island, Nansha zhou = South Sand,…, Anbo shazhou = Amboyan Cay, Xidu tan = Dido Bank, Mengzi Jiao = Menzies Reef, Aoyuan Ansha = Owen Shoal, Zhubi jiao = Subi Reef, … Các tên tiếng Trung này chỉ là tên có được qua dịch (như Bei = North, Nansha = South Sand, Shi = Rocky) hoặc qua phiên âm (như. Anbo ~ Amboyan, Xidu ~ Dido, Mengzi ~ Menzies …). tên tiếng Anh tương ứng mà thôi. Do đó, khá chắc chắn là tên tiếng Trung không thể có trước tên tiếng Anh, nhất là trong trường hợp sau. Như vậy, điều mà TQ cho rằng mình là nước đầu tiên đặt tên các đảo cũng không có cơ sở.
Các cuốn sách này, nhất là hai cuốn của Nhật quả có cho ra những ghi nhận khách quan rằng người dân TQ với tư cách các tư nhân đã tới và thực hiện một vài hoạt động ở các đảo này, một điều mà chẳng một ai kể cả các nước đang có tranh chấp phủ nhận. Tuy nhiên,cần lưu ý rằng người dân của những nước ven biển khác chẳng hạn Chàm, Việt, Philippines, Malaysia … , hay bên ngoài như Nhật, Ấn, Á Rập, châu Âu… cũng có mặt và thực hiện các hoạt động ở đó có thể sớm hơn. Đặc biệt cũng lưu ý thêm là các hoạt động của người Việt ở đó là do Nhà nước tồ chức. Chứng cứ cho điều này có thể tìm thấy trong nhiều tài liệu cổ, kề cả của TQ. Ví dụ, trong Hải Ngoại kỉ sự (海外紀事) của nhà sư TQ Thích Đại Sán năm 1695 có mô tả về các hoạt động thường xuyên do triều đình nhà Nguyễn tổ chức ở Hoàng Sa và Trường Sa. Hoặc trong Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn năm 1776 cũng có các miêu tả chi tiết về tình trạng địa lí, tài nguyên ở Hoàng Sa, Trường Sa và việc khai thác hai quần đảo này của các chúa Nguyễn. Cuốn sách này cũng có ghi nhận rằng khi đi làm nhiệm vụ ở đó, dân Việt Nam cũng có gặp dân TQ trên biển. Cũng lưu ý rằng các mô tả này cũng được hậu thuẫn bằng các văn bản chính thức của triều Nguyễn, cho thấy rằng các hoạt động đó đã được hai đội Hoàng Sa, Bắc Hải của triều Nguyễn và ngư dân tiến hành liên tục. Do đó, những quyển sách BNG TQ nêu không thể nào là chứng cứ để hậu thuẫn rằng TQ là nước đầu tiên khai phá biển Đông và đặc biệt là Trường Sa. Kết luận như thế cũng không có cơ sở pháp lí vì các hoạt động này chỉ do các tư nhân TQ thực hiện chứ không phải do nhà nước TQ tổ chức.
Một lần nữa, đối với tuyên bố này BNG TQ .chỉ cố vặn vẹo lời văn, bẽ cong sự kiện hoặc làm mọi thứ trở nên mập mờ khiến mọi người, nhất là những người không rành rẽ văn hoá và ngôn ngữ TQ bị nhầm lẫn rằng tuyên bố họ có cơ sở, còn hầu như họ chẳng có chứng cứ gì thuyết phục
Nói tóm lại, tất cả các tài liệu, sự kiện mà BNG TQ coi như là chứng cứ hậu thuẫn cho các tuyên bố của họ thật ra lại ít nhiều phản lại các tuyên bố này. Hơn nữa, hầu như với mỗi tài liệu BNG TQ đưa ra không truy cập được người ta có thể đưa ra một tài liệu tương ứng có thể tìm trên mạng hoặc ở các thư viện nước ngoài có nội dung phản lại các tuyên bố của họ. Tất cả những điều đó cho thấy việc TQ tuyên bố là họ có bằng chứng lịch sử rất nhiều và rất vững hậu thuẫn cho chủ quyền của họ ở biển Đông, nhất là quần đảo Trường Sa có vẻ chỉ là chuyện thêu dệt chứ không là sự thật. Có lẽ nắm rõ thực trạng này nên Lí Kim Minh, một chuyên gia lão làng về biển Đông, đã thành thật khi mới gần đây khuyến nghị rằng chính phủ nước ông cần bắt đầu ngay bây giờ việc tích luỹ cho đủ các chứng cứ chứng minh rằng biển Đông thuộc về TQ vì TQ không từ chối trọng tài quốc tế vô thời hạn.[35] Có lẽ TQ khó có thể làm được gì nhiều theo lời khuyên này ngoài việc tiếp tục cố ý trì hoãn đưa ra chứng cứ minh bạch, thụ động để công dân họ lan truyền bản đồ, tài liệu cổ giả, bóp méo tài liệu/sự kiện[36] như đã bàn… chờ dịp dùng ‘lí của kẻ mạnh’ như đã từng làm ở Hoàng Sa và một số đảo của Trường Sa, còn tài liệu cổ, sự kiện, ngay cả của chính TQ dường như không chiều theo tham vọng lãnh thổ của họ.
[1] Xem http://www.fmprc.gov.cn/chn/gxh/zlb/zcwj/t10648.htm và http://www.fmprc.gov.cn/eng/topics/3754/t19231.htm.
[2] Chữ Hán đuợc cấu tạo bởi 2 phần: "bộ gốc" để chỉ nghĩa và "bộ chỉ âm" để gợi ý về cách đọc. Nhiều từ miệt thị được viết với bộ "khuyển /cẩu (chó)/" 犬 hay 犭, chẳng hạn Địch 狄 với bộ khuyển 犭và bộ hoả 火 chỉ âm… Man 蠻 với bộ trùng (sâu bọ) 虫 và bộ loan 䜌 chỉ âm… Xem http://en.wikipedia.org/wiki/Barbarian
[3] Xem Wikipedia: Barbarians, http://en.wikipedia.org/wiki/Barbarian, Xem thêm Traditional Chinese World Order, Li Zhaojie {James Li), có trực tuyến ở: http://chinesejil.oxfordjournals.org
[4] Xem Geoff Wade, Guangdong: Archaeology and Early Texts: (Zhou-Tang), Otto Harassowitz KG Wiesbaden 2004: “…yuè is also considered as being ‘beyond China’.” (… người Việt cũng được xem là ‘bên ngoài TQ’)
[6]Ibid.
[8] Trong Nam Châu dị vật chí đá có từ tính được mô tả với chi tiết kì lạ rõ rệt: Zhanghai qitou, shui qian er duo cishi, waijiao ren cheng da chuan, jieyi tie die die zhi. Zhi ci guan, yi ci, bu de guo (涨海崎头, 水浅而多磁石, 外缴人乘大船, 皆以铁探探之 . 至此关, 以磁, 不得过: [Ở] các đầu rạng đá ngầm trong Trướng Hải, nước thì cạn nhưng có nhiều đá có từ tính. Người đi tuần bằng tàu lớn có vỏ bằng các lá sắt khi tới gần khu vực này thì bị hút không vượt qua được)
[9] Điều này cũng phù hợp với những phát hiện rằng Trướng Hải chính là biển Quỳnh Châu như nêu trong Quỳnh Châu phủ chí (琼 州府志:) (xem Phạm Hoàng Quân, Những ghi chép liên quan đến biển Đông Việt Nam trong phương chí Trung Hoa, xem trực tuyến tại: http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai22/201122_PhamHoangQuan.pdf)
[10] Phần cực Nam của lãnh thổ nhà Hán vào khoảng 18ºN hay hơn một ít (và ngay chính đảo Hải Nam cũng không thuộc nhà Hán, xem Han Dynasty map, có trực tuyến ở at: http://ngm.nationalgeographic.com/ngm/0402/feature1/images/mp_download.1.pdf) trong khi đó quần đảo Trường Sa ở dưới 12ºN.
[11] Là Trung Lang triều Ngô nên việc ‘tướng’ Khang Thái còn là một nhà hàng hải nổi tiếng như BNG TQ nêu là rất đáng ngờ, có thể vì họ muốn người đọc ấn tượng về khả năng, kinh nghiệm đi biển của ông ta.
[12] Theo Nam Tề Thư (南齊書) thì cả hai được Thái thú Giao Châu Lữ Đại (Lu Dai/ 呂岱) cử đi sứ các nước phía nam. Khang Thái và người đồng sự là Chu Ứng (Zhu Ying/ 朱應) theo thuyền buôn nước ngoài đến Phù Nam.
[13] Xem Charles Willemen: Buddhism’s Maritime Route to China, Belgium Royal Academy of Sciences, có trực tuyến tại http://longquanzs.org/articledetail.php?id=4814
[14] Xem Lee Yihsien, "Dao Yi Zhi Lue" (Description of the Barbarians of the Isles), Council for Cultural Affairs, có trực tuyến tại http://taiwanpedia.culture.tw/en/content?ID=3444
[15]Xem http://en.wikipedia.org/wiki/Kangnido hay www.umac.mo/fsh/hist/.../hama2_flyer(A4).pdf (from University of Macao), xem thêm Jianming Shen, China's Sovereignty over the South China Sea Islands: A Historical Perspective, 2002 tại http://chinesejil.oxfordjournals.org/content/1/1/94.full.pdf,
[16] Một số triều đại TQ cổ bổ nhiệm trực tiếp Thứ sử/Thái thú tài shŏu (太守:governor) cai quản Vietnam, xem Khai Leong Ho, Connecting & Distancing: Southeast Asia and China, Singapore Society of Asian Studies, Institute of Southeast Asian Studies, 2009, p. 7.
[17] “Các cống vật bao gồm từ dược liệu , gia vị, nữ trang địa phương cho tới những hang hoá quý khác như thú vật, dụng cụ kim loại, vải vóc, trái cây, gái đẹp, thợ lành nghế, bản đồ…” xem Khai Leong Ho, Connecting & Distancing: Southeast Asia and China, Singapore Society of Asian Studies, Institute of Southeast Asian Studies, 2009, p. 8.
[18] Cũng lưu ý rằng vào năm 1226, Hoàng tử Lí Long Tường (李龍祥,:이용상/ Yi Yong Sang), đại đô đốc của triều Lí (1009-1225) của Đại Việt cùng với hơn 6000 thân tộc và thuộc hạ đã trốn qua Trei62u Tiên bằng tàu vào năm 1226 để tránh bị giết bởi triều Trần mới soán ngôi. Về sau ông trở thành tướng của Triều Tiên được gọi là Hoa Sơn tướng quân (Hwasan Sanggun).(xem http://en.wikipedia.org/wiki/Ly_Long_Tuong và xem thême Ch’oe Sang-su, Exile and Naturalization of Annamese Prince Ly, Korea Journal June 1, 1969, có trực tuyến tại: http://www.ekoreajournal.net/issue/view_pop.htm?Idx=600l). Từ các sự kiện này, việc cho rằng Việt Nam và Triều Tiên đã biết về địa lí của nhau và khả năng các nhà vẽ bản đồ Triều Tiên có dùng các kiến thức này là điều có thể xảy ra.
[20] Canh lộ bạ hiện nay được dịch đúng hơn là Book on Voyage Routes khi sách này được dùng làm chứng cứ về chủ quyền của TQ trong vụ dằng co ở bãi cạn Scarborough. Xem http://ph.china-embassy.org/eng/xwfb/t935925.htm.
[21] http://big5.xinhuanet.com/gate/big5/www.hq.xinhuanet.com/focus/2011-11/14/content_24130670.htm (Chinese).
[22] Xem Li Jinming & Li Dexia, The Dotted Line on the Chinese Map of the South China Sea: A Note, The School of Southeast Asian Studies Xiamen University Xiamen, Fujian, China, 2002, available at http://www.tandfonline.com/doi/pdf/10.1080/00908320390221821.
[23] Hồ Bạch Thảo, Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa)có được nói đến như là đất Trung Quốc trong Thanh Sử Cảo và Đại Thanh Nhất Thống Toàn Đồ không? Có trực tuyến tại: http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai18/201018_HoBachThao.htm (Vietnamese).
[24] Xem Appendix 1 'China in Southern Asia, 1433 in Ying-ya sheng-lan : 'The overall survey of the ocean's shores' [1433], Cambridge [Eng.]: Published for the Hakluyt Society at the University Press, 1970.
[25] Muốn biết chi tiết hơn, xem phần 12 của bộ bản đồ này: Guǎng dōng quán tú (广东全图: bản đồ Quản Đông), có trực tuyến ở http://www.nla.gov.au/apps/cdview?pi=nla.map-lms639-s12-e
[26]Doanh nhai thắng lãm viết bởi Mã Hoan, người từng tháp tùng 3 trong 7 chuyến đi của đô đốc Triịnh Hoà tới các biển phía Tây, quyển sách này được các nhà nghiên cứu về TQ trên thế giới xem là nguồn tài liệu chính về lịch sử thám hiểm hải quân của triều Minh, lịch sử Đông Nam Á và lịch sử Ấn Độ (xem http://en.wikipedia.org/wiki/Ma_Huan).
[27] Như ghi chú 22.
[32] Như ghi chú 21
[33] Theo nhiều nhà nghiên cứu, chẳng hạn như Phạm Kim Hùng, bản đồ cổ TQ cho tới thời kì đầu của Trung Hoa Dân Quốc (ngoài trừ bản đồ thế giới hay bản đồ các nước phiên thuộc) có thể truy cập được đều không có vẽ “Tây Sa” và Nam Sa như TQ khẳn định. Xem Phạm Kim Hùng, Đị tìm sự thật về lịch sử hai quần đảo, có ở http://vietnam.vn/c1023n20110804160923687/di-tim-su-that-ve-lich-su-hai-quan-dao-o-bien-dong.htm
[34] Tuyên bố Cairo nêu “tất cả lãnh thổ Nhật đã cướp của TQ như Mãn Châu, Đài Loan và Bành Hồ sẽ trả về cho Trung Hoa Dân Quốc." http://www.ndl.go.jp/constitution/e/shiryo/01/002_46/002_46tx.html và Tuyên ngôn Potsdam chỉ nói "Các điều khoản của Tuyên bố Cairo sẽ được thực hiện và chủ quyền của Nhật sẽ chỉ giới hạn ở các đảo Honshu, Hokkaido, Kyushu, Shikoku và những đảo nhỏ như chúng tôi quyết định" http://www.ndl.go.jp/constitution/e/etc/c06.html.
[35] Zhang Jie, et al., [US forcefully pushes internationalization of South China Sea issue, Yang Jiechi uses seven arguments to counter Hillary’s “incorrect points”].
[36] Một ví dụ nóng hổi về vặn vẹo sự kiện là, Cùng một sự kiện Quách Thủ Kính thời nhà Nguyên đi đo đạc thiên văn tại một nơi ở biển Đông ghi trong Nguyên sử, trong vụ dằng co mới đây với Philippines ở bãi cạn Scarborough BNG TQ nói rằng Quách Thủ Kính thực hiện đo đạc ở Scarborough, nhưng vào năm 1980 khi tìm cách chứng minh chủ quyền ờ Hoàng Sa họ lại nói rằng cính Quách Thủ Kính đã tới đo đạt thiên văn ở Hoàng Sa! Xem http://ph.china-embassy.org/eng/xwfb/t935925.htm và Sách trắng BNG TQ:Chủ quyền Trung Quốc đối với quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa là không thể tranh cãi,1980.