HẺM  NHỎ

Duy rời phòng Giám đốc sau khi xin phép nghỉ dài hạn một tháng không lương và trở lại bàn mình, chung quanh chàng mọi người vẫn bình thản làm việc. Duy thèm muốn được bình thản như họ. Hình như chàng đã mất rồi sự yên bình từ ngày vợ chết và nay thêm lá thư của mẹ vừa gửi sang khiến chàng thêm bất ổn..  

Màn hình vi tính trước mặt chàng khi ẩn, khi hiện những dữ kiện, những con số theo từng thao tác của tay chàng trên phím máy và con chuột. Bất giác trong tự nhiên, Duy có cảm tưởng chàng đang clic những mũi tên trên màn hình đi lùng sục trong quá khứ quãng đời thơ ấu của chàng. Quãng đời của một thằng bé chỉ có mẹ mà không có cha và  bà mẹ của nó giờ nầy  đang chờ nó trở về.

 

.....Người ta kháo nhau rằng thời Chánh Hưng, vùng đất nổi bên kia cầu chữ Y còn là lãnh địa của loạn tướng Bình Xuyên Bảy Viễn, Ba Cụt thì mẹ Duy mới ra đời. Mẹ chàng, một cô gái có khuôn mặt, vóc dáng của một thằng con trai và mang họ Trịnh, tên Chờ với chữ « văn » lót giữa, họ bảo cha mẹ cô muốn có con trai nối dõi, nhưng chỉ sinh muộn màng một bé gái duy nhất nên đặt tên cô như vậy, hy vọng tên xấu và lạ sẽ thành xấu « háy » mà không bị « ông bà trên trước » dòm ngó, quở phạt để bé sống khoẻ mạnh, dài lâu. Ngay từ nhỏ bé gái đó chỉ vận quần đùi, áo thun ba lỗ, chơi thảy đáo, bắn ná với lũ con trai cùng xóm, tóc cắt ngắn kiểu lính mới tò te và hình như lũ con nít không ai biết nó là gái. Nhà nó ở trong một ngõ hẻm, đường vào miễu Vạn, hẻm thì nhỏ nhưng ngôi miễu lại khá lớn, khang trang, tiện cho những ngày thỉnh sắc, những buổi hội tề.Tthỉnh thoảng có người mướn làm nơi chiếu phim Ấn Độ hay những gánh cải lương lớn, nhỏ thiếu rạp trong thành phố ghé về mướn hát tạm vài ba buổi chầu. Một đôi lần hiếm hoi có cả đoàn Thanh Minh – Thanh Nga của bà bầu Thơ cũng dừng chân trình diễn trong khi chờ rạp lớn. Cải lương ngày xưa hưng thịnh, đi đến đâu cũng có khán giả ủng hộ dù hát đình, hát miễu hay hát rạp đàng hoàng. Ngoài sau miễu Vạn là nhà nó.Đi sâu vào trong hơn nữa có đường thông ra bến sông kinh Tàu Hủ. Trên đường đi đó có một khoảng trống, không phải nghĩa địa nhưng  um tùm lau lách với hai ba nấm mộ cổ còn sót lại từ thời người tứ xứ mới đến đây khai hoang lập đất.

 Người lớn, trẻ nhỏ trong xóm đều gọi nó là « thằng » Chờ chứ chẳng ai kêu nó là « con » Chờ, cha mẹ nó cũng không buồn đính chính. Thời còn để chỏm, đến trường với chữ « văn » lót giữa họ và tên, nó đuợc sắp xếp học chung lớp nam sinh.  Nó không để ý chuyện mình là trai hay gái. « Thằng » hay « con » gì thì nó cũng là con đợi con chờ của cha mẹ nó như lời ông bà thường nói. Vả lại làm « thằng » coi bộ khoẻ hơn làm « con » vì được đi thảy đáo, bắn bi ngoài nắng không sợ đen da, cháy tóc như mấy đứa con gái xí xọn hay làm dáng, được theo mấy  thằng lớn hơn nó xách ná đi bắn chim, bắn dơi trên những cành cây, nhánh dừa trong khi mấy đứa con gái chỉ biết chơi đánh đũa, nhảy cò cò. Nó học chưa hết lớp nhì thì ở nhà, vì không muốn đi học nữa. Cha mẹ nó cũng chẳng ép nài, thời buổi đó chuyện học hành giống như một thứ xa xí phẩm đối với những người bình dân lam lũ ; học cho lắm cũng làm thợ đốt lò hay thợ chằm lá của mấy lò than, mấy vựa chằm lá chạy dọc suốt bến Ba Đình mà thôi. Nguyên cả cái xóm nầy ông bà có thấy ai làm thầy, làm ông  đâu. Nếu có thì cũng là dân ở đâu đến, chứ dân xóm miễu Vạn nầy dù học bao nhiêu thì chữ nghèo cũng đeo đuổi không tha. Bỏ học, nó long nhong ngoài đuờng nhiều hơn ở nhà, chuyện nhà có mẹ cha nó lo hết, nó đi đâu thì đi. Đến bữa ăn ông bà cũng phải chờ nó về mới chịu ngồi vào bàn cầm đũa. Đã bảo nó là con đợi con chờ mà !

Lớn hơn một chút với những đổi thay dạng hình thể chất, Chờ trở thành một cô gái với nhan sắc của một chàng trai, chỉ khác là chàng trai  nầy không cần cạo râu mỗi sáng và hơi thanh mảnh hơn những bạn trai cùng trang lứa. Màu hồng trên má của một cô gái tuổi dậy thì đã bị nắng trời nhuộm nâu, trong những ngày cô cùng lũ bạn trai rong chơi đầu trên xóm dưới.  Cô chỉ thay chiếc áo thun « lá » bằng chiếc áo sơ mi tay ngắn rộng thùng thình nhưng dài ngang gần tới gối để che bộ ngự. Bộ ngực thanh tân con gái bị cô ép chặt dưới chiếc áo lót bó sát da như những cô trinh nữ ngày xưa thường làm vì xấu hổ phải giấu giếm phần đẹp nhất của mình. Cô vẫn mặc quần đùi, vẫn hớt tóc « bom bê » và vẫn theo đám con trai trong xóm tụm năm, tụm ba phá làng, phá xóm. Cái xóm Chánh Hưng – Hưng Phú của cô  bắt đầu được  phát triển bằng đất xáng thổi lấy từ lòng sông kinh Đôi phía sau bến Nguyễn Duy.Những dãy nhà lô cất lên san sát. Dân cư vùng đất nổi gia tăng thấy rõ. Sinh hoạt trong vùng sôi động hẳn lên và cô cũng « học đòi » đuợc nhiều điều mới lạ hơn. Cô biết phì phà hút thuốc lá, thả khói vòng khi ngồi gát  chân uống cà phê trong tiệm nước ; biết nốc rượu đế khi nhâm nhi con khô mực, dĩa đậu rang, biết thục bi-da ăn tiền như dân chơi chuyên nghiệp. Duy một điều, lũ bạn không thấy Chờ chọc gái như họ bao giờ. Ban đầu không ai để ý, nhưng sau cả đám đứa nào cũng có « mèo » để khoe,  nào « em » sexy, « em » hiền thục, « em » bà  chằng, « em » đảm đang, đủ loại. Dần dần chúng kháo đùa nhau rằng Chờ bán nam, bán nữ nên không râu và đùi thon như con gái. Những lần như thế cô nổi quạu văng tục chẳng khác gì một anh đứng bến xe và đám bạn trời ơi đất hỡi đó được dịp cười hô hố với đầy vẻ nghi ngờ.

Và ngày mặt trời soi rọi ánh dương cho ra sự thật đã đến. Trong một buổi thách thức ăn thua trên bàn bi-da gần chợ Chuồng Bò. Hôm đó, cả bọn chơi cá độ bida như thường lệ, không hiểu hên thế nào mà cô thắng mấy bàn liên tiếp, lũ bạn reo hò bắt cô dẫn chúng đi ăn khao. Gì chứ ăn uống qua lại với họ có bao giờ cô sợ.Hơn nữa, tiền cá cược đang rủng rỉnh trong túi cô mà. Cả đám sáu người, cô và năm thằng bạn « bờ bụi » cùng trang lứa kéo nhau vào quán chú Chón đầu hẻm, kêu một chai đế nếp than Long An thơm nồng, thêm ba dĩa hủ tíu xào gan, cật heo nóng hổi rồi đánh chén với nhau. Lúc đó khoảng sáu, bảy giờ chiều, lại nhằm ngày có gánh cải lươngTân Thinh về hát trong miễu Vạn, tuồng hát sẽ kéo màn lúc tám giờ và vãn lúc mười một giờ rưỡi. Cô và lũ bạn ăn hết ba dĩa hủ tíu xào nhưng không chịu về mà còn ngồi lại kêu thêm mấy chai rượu đế vừa uống khơi khơi  vừa chỉ trỏ « bàn dân thiên hạ » đi coi cải lương qua lại trước mặt. Không biết vô tình hay cố ý, mấy thằng bạn cô cứ ép nài cô uống nhiều hơn thường lệ, uống mãi đến hơn mười một giờ khuya, chú Chón ra dẹp bàn. Cô móc túi trả tiền, số tiền ăn bi-da còn lại rớt vung vãi ra ngoài, cô lúc đó đã say khước, cúi lượm tiền và ngả chúi xuống đất nằm soài không dậy nổi. Một tên trong nhóm kéo cô đứng dậy, choàng tay cô qua vai hắn đưa cô ra khỏi tiệm. Một cái gì ấm áp, êm nhẹ dưới lớp áo sơ mi rộng thùng thình từ người cô chạm vào da thịt hắn. Hắn khựng lại, đưa bàn tay « thẩm tra » cho chắc ăn rồi gật đầu cười đắc chí kèm theo một cái nheo mắt điếm đàng cùng với lũ bạn trai còn lại đang đứng vây quanh. Con hẻm vắng tanh, đường ngang qua miễu nghe bên trong vọng ra từng hồi lời ca, giọng hát của đào kép hòa lẫn âm thanh tiếng đàn, tiếng trống xập xình.

Đêm đó, bên trong miễu Vạn đoàn Tân Thinh  đang diễn tuồng « Má Đào Trả Hận Non Sông » kể tích Ả Đào trên bến sông chuốc rượu giết giặc Tàu giúp Bình Định Vương Lê Lợi chống quân Minh xâm lược thì ngoài gò mả hoang cách miễu Vạn không xa có năm tên côn đồ đang biến « thằng » Chờ thành người đàn bà trong trò chơi tập thể sau khi đã chuốc rượu cho nó say mèm. Vãn tuồng, thiên hạ ra về, những ai về theo hướng ra bờ sông kinh Tàu Hủ, đi ngang hai ngôi mộ cổ thấy Chờ nằm phơi người trên bãi đất trống, áo quần xốc xếch, hở hang. Đang mùa nước cạn, nửa mảnh trăng liềm mờ nhạt chênh chếch trên nền trời khuya cho họ nhận ra đó là « thằng » Chờ trong xó. Vài người hảo tâm khiêng Chờ vế nhà nó gần đấy. Đêm vẫn tối đen nhưng mọi việc đã sáng tỏ rõ ràng, từ đấy người trong xóm không kêu Chờ bằng « thằng » mà gọi nó bằng « con » hay lịch sự hơn một chút, họ kêu nó bằng « cô » Chờ, đại danh từ « cô » xác định giới tính thật của Chờ khi cô sắp tròn mười tám tuổi.

 Khi Chờ tỉnh lại để nhận ra sự khác lạ trên người mình, mắt cô ráo hoảnh trong lúc cha mẹ cô bù lu bù loa khóc, vặn hỏi cô sự việc xảy ra. Qua ngày sau cô vẫn mặc bộ đồ con trai cố hữu, tay cầm một cây đòn vông đi tìm những thằng bạn “quý”. Bọn chúng vừa thấy cô đã nhăn nhở cười, một thằng còn đểu giả hỏi cô đêm qua ngủ có ngon không? Cô tát cho hắn một cái tát nẩy lửa, thuận tay quơ cây đòn vông đánh loạn xạ vào cả bọn, vừa đánh vừa chửi như một con điên. Đám con trai bỏ chạy tán loạn, cô vụt đòn vông xuống đất, đứng thở dốc, hai giòng nước mắt muộn màng ràn rụa lăn trên má. Từ đó về sau người ta không thấy cô nhập bọn cùng lũ du thủ, du thực trong xóm nữ. Cô để tóc dài, khoác áo bà ba, quần lãnh đen thay cho áo sơ mi,  quần “xà lỏn”. Cô nghe lời cha mẹ ra vựa chằm lá của ông Năm Xắm xin việc làm. Mỗi ngày cô chằm đâu được khoảng gần năm mươi tấm lá, kiếm chút ít tiền xài riêng cho cô, khỏi phải xin tiền cha mẹ cô như lúc trước. Cô lại tiếp tục vô tư sống, cười nói như chẳng có việc gì xảy ra.

Nhưng cái tên Chờ của cô như một định mệnh bắt cô phải chờ thêm một chuyện cô không ngờ trước được. Bụng cô bắt đầu lớn để cô chờ hoàn tất kết quả của đêm say chín tháng mười ngày trước đó. Ai cũng biết một trong năm thằng “bạn nhậu” của cô là thủ phạm cái bào thai vô tội vạ đó,  nhưng chẳng đứa nào dám đứng ra nhận lãnh trách nhiệm cả. Ngày đó chưa ai tính đến việc thử nghiệm DNA như bây giờ nên “ăn xong, quẹt mỏ, chạy làng” là chuyện thường tình. Cô không thèm tìm chúng nó để mè nheo đòi hỏi mà cả cha mẹ cô cũng chẳng quan tâm chuyện tìm “thằng rể”. Trong cái rủi của đứa con gái, cha mẹ cô tự an ủi ít ra cũng còn cái may là cô trầm tính hơn, biết nghĩ đến cha mẹ hơn. Ước mơ có thằng con trai nối dõi ngày nào không thành nhưng nếu trời thương cho đứa cháu sắp ra đời là trai thì cũng là niềm hạnh phúc lớn đối vói ông bà. Đứa cháu đó nếu có cha chắc gì bên nội nó cho ông bà sớm hôm gần gũi nó. Thì thôi, nó là con của ai không cần biết, chỉ cần nó là một bé trai để nó mang họ Trịnh, cho ông bà mai sau khi đến tuổi quay đầu về núi cũng có người “phò giá triệu, khiêng quan tài” là được rồi.

Và lần nầy thì trời thương ông bà thật, đến ngày khai hoa nở nhụy Chờ cho ra đời một bé trai kháu khỉnh nặng trên ba kí. Ông bà đặt tên nó là Duy, cái tên mang ý nghĩa “ duy nhất”, không còn ai quan trọng hơn nó trong mái gia đình của ông bà. Cứng cát, Chờ lại tiếp tục đi chằm lá, để bé Duy ở nhà cho ông bà ngoại bé trông chừng.Thỉnh thoảng tới giờ nghỉ giải lao, Chờ chạy u về nhà cho con uống sữa. Chờ mát sữa nên thằng nhỏ ngày càng bụ bẫm thật dễ thương mà Chờ cũng đẹp  ra thấy rõ. Đúng là gái một con trông mòn con mắt. Ngôi nhà cha mẹ Chờ trở nên ấm cúng, hạnh phúc với tiếng ầu ơ của mẹ Chờ ru cháu trong những trưa đong đưa chiếc võng. Nụ cười hiền của cha Chờ sau mỗi buổi đi đạp xe ba bánh chở mướn hàng chợ về. Chờ dường như quên hẳn đêm “hận má đào”. Nhưng nếu Chờ muốn quên thì miệng đời lại bắt cô nhớ. Đầu tiên là những hàng xóm gần, thỉnh thoảng bà Hai, thím Ba thiếm Tư chi đó đi ngang trước cửa nhà Chờ thấy thằng bé xinh xắn bèn dừng lại bồng ẳm, hôn hít chú bé kèm theo câu bỏ lửng”Không biết cha nó là ai mà thằng nhỏ đẹp như vậy?”. Tiếp sau đó là “lũ quái”  đêm “bề hội đồng” ngày trước, thấy chuyện đã êm, không ai làm khó dễ nên chúng bắt đầu lượn vờn qua lại trước nhà Chờ để ngắm thằng nhỏ mà thẩm định xem nó là con của  ai trong bọn chún. Đôi lúc gặp Chờ chúng nham nhở nhe răng cười hỏi “Con khoẻ hả em?”. Mãi rồi thiên hạ bàng quang biết mặt hết năm tên “tiểu yêu” vô lại đ.  Rồi tiếng xì xầm lại nổi lên, khi thì  trước mặt Chờ và cha mẹ cô, lúc lại nói“hành tỏi”  sau lưng, cứ như chuyện thằng bé không cha là chuyện riêng tư nhà họ chẳng bằng. Miệng đời thường độc ác vô tâm, họ nói chỉ để mua vui chứ không biết đó là gươm đao làm đau lòng người trong cuộc. Chờ bao lần sượng người khi nghe chú Hai Dần đầu hẻm đùa:

 

“Ngũ hành” đâu không biết nhưng cha mẹ mấy  tên “đồng tác giả”cũng len men đến viếng để ngắm nghía coi “thằng nhỏ” có thuộc giòng máu nhà họ không. Đám “đồng tác giả” mà trong xóm gọi là nhóm ngũ hành “kim, mộc, thủy, hoa , thổ” đứa nào cũng tới tuổi đi quân dịch nên “đồng - ông bà nội” của bé Duy cũng muốn biết chắc nó có phải cháu mình hay không. Thời chiến, lính tráng một đi không trở lại là chuyện thường, rủi thằng con có hy sinh thì còn thằng cháu đích tôn thừa tự cũng là niềm an ủi lớn với họ . Vì thế cho nên nào bánh kẹo, nào quần áo, đồ chơi....bé Duy liên miên được các “nội” tặng. Ban đầu cha mẹ Chờ không biết, cứ tưởng hàng xóm tốt bụng thích con nít nên tặng quà cáp cho vui, nhưng dần dần thấy họ mỗi lần đến chơi hay lật tay, lật chân thằng nhỏ xem xét cùng khắp người nó giống như cách mua gà, mua vịt khiến ông bà đâm bực mình. Thường những lúc đó Chờ ở ngoài vựa lá nên không hay biết gì hết. Khi về nhà nghe cha mẹ kể lại Chờ chợt hiểu và dặn cha mẹ cô đừng cho ai khám xét thân thể bé Duy. Cô nghe tức giận cho đời mình và thương con mình chỉ có mẹ mà chẳng có cha, những thằng “ngũ hành” đã phá hoại đời cô, chẳng đứa nào còn chút lương tri để nói một lời thú tội hay tỏ một hành động ăn nă. Chúng chạy trốn trách nhiệm việc làm của chúng, giờ cha mẹ chúng thấy mọi việc êm xuôi lại tính chuyện cướp đi niềm vui của gia đình cô sao.

Khi bé Duy ăn thôi nôi thì trong đám ngũ hành, thằng Hoả, thằng Mộc và thằng Kim vào lính, còn Thủy  vì là con trai độc nhất trong gia đình nên được miễn dịch. Riêng thằng Thổ không biết cha mẹ nó chạy chọt thế nào mà nó được miễn dịch vì lý do sức khỏe. Lúc đó nội chiến Việt Nam đang ở vào giai đoạn leo thang dữ dội, bao lớp trai lên đường theo lịnh Nha Động Viên. Xóm miễu Vạn vắng bớt những tên phá làng, phá xóm,  nhưng thỉnh thoảng vài nhà lại có tiếng khóc thương những chàng Kinh Kha thời đại đã vĩnh viễn đi vào lòng đất.

Cái nghề chằm lá tưởng dài lâu cho Chờ sống an đời bình dị, nhưng mọi người bắt đầu cất nhà tôn, nhà ngói chứ ít ai cất nhà mái lá như ngày xưa, nên các vựa lá từ từ dẹp hết. Chờ thất nghiệp, lấy tiền dành dụm mua một thùng kiếng nhỏ bán thuốc lá và bánh kẹo trước nhà, lời lóm không bao nhiêu nhưng vẫn có đồng vào đồng ra hơn ngồi không chờ tiền đạp xe chở hàng của cha cô mỗi ngày. Bé Duy chập chững biết đi, biết nói và lớn theo thời gian. Lắm lúc ngồi nhìn thằng bé, Chờ cố nhìn kỹ con để xem nó giống ai trong đám ngũ hành nhưng không đoan chắc được vì quanh đi quẩn lại cô thấy quả thật khó mà xác định ai là cha của nó. Chiếc mũi cao của bé Duy hao hao như mũi thằng Kim; nhưng cái miệng cười chênh chếch lại giống miệng thằng Thủy vô cùng. Tuy nhiên, nếu quan sát kỹ thì đôi mắt bé Duy hình như y chang đôi mắt thằng Mộc. Ngắm tới ngắm lui khi bé Duy ăn, cái tật hay chắc lưỡi sao giống thằng Thổ chẳng sai và phải công nhận mái tóc dợn cong của con cô quả đúng như cái đầu thằng Hỏa. Không phải Chờ dư công tìm hiểu để ăn vạ bắt đền ai là cha đứa bé, nhưng trong thâm tâm cô muốn mai sau nầy khi bé Duy đến tuổi trưởng thành, cô sẽ không nặng lòng vì không cho nó biết được cha nó là ai. Cây mận, cây cao bên hè nhà Chờ còn biết gốc nguồn của nó do ai gieo, ai trồng chẳng lẽ con của cô không biết do ai mà nó có mặt trên cõi đời nầy hay sao, cho dù đó là một cuộc gieo giống dã man, vô nhân của cha nó. Cuối cùng mệt mỏi quá, Chờ thôi không tìm hiểu nữa nhưng vẫn thầm van vái “Bà” trong miễu Vạn xui khiến một ngày nào đó cô sẽ tìm biết được gốc rể của bé Duy.

Ngày Chờ mong ước đó không biết bao giờ đến nhưng những ngày cô chẳng mong muốn lại tuần tự tìm tới với cô. Đó là ngày cô khóc để đưa cha cô về thiên cổ. Ông chết sau một cơn động tim ác tính, bất ngờ đến độ cả mẹ Chờ và Chờ vẫn còn ngờ nghệch không tin đó là sự thậ. Lúc ấy bé Duy đang bắt đầu vào lớp một bậc tiểu học. Nhà Chờ giờ quạnh quẽ, mẹ con, bà cháu đùm bọc lấy nhau. Không còn cha để ông đưa vai gánh vác phần lớn chuyện chi tiêu trong nhà, Chờ nghe khốn đốn khi cả nhà phải trông cậy vào số tiền bán thuốc lá, bánh kẹo mỗi ngày. Mẹ Chờ theo tuổi tác cũng nay yếu, mai đau. Dù xốc vác bao nhiêu Chờ cũng nghe mình cơ hồ đuối sức sau mỗi chiều ngồi đếm những đồng bạc vụn tiền lời buôn bán nhỏ nhoi của mình. Rồi Chờ nhìn con mà đau lòng xót dạ, thằng bé ốm tong teo, áo quần vá chằng, vá đụp khắp nơ.  Đời cô cơ cực đã đành, sao trời lại bắt tội chi thằng nhỏ vừa không cha lại vừa nghèo khổ như vầy.

Một buổi chiều Chờ xuống đò qua Lao Cai Chợ Lớn mua thêm hàng về bán, vừa thất thểu lên bến, vừa đếm lại số tiền còm cõi trong tay không đủ mua mười cây thuốc lá Bastos, tiền đâu bổ thêm thuốc cho mẹ, mua thêm gạo cho cả nhà. Bận suy tính, Chờ băng qua đuờng Đồng Khánh không thèm để tâm nhìn đèn giao thông đang bật đỏ cho khách bộ hành, một chiếc xe hơi từ hướng Saigon vụt tới, tài xế không thắng kịp trưóc khi đầu xe đâm thẳng vào cái dáng gầy gò của Chờ, cô ngả vật xuống đường khi trong đầu vẫn còn những con số chi tiêu mua sắm, bán buôn. Chiếc xe ngừng lại, mọi người đi đường bu quanh tai nạn, một đôi vợ chồng người ngoại quốc ăn mặc sang trọng từ trên xe bước xuống với vẻ mặt lo lắng. Cảnh sát đến lập biên bản và chủ nhân chiếc xe hơi gây ra tai nạn chở Chờ vào bịnh viện Chợ Rẫy gần đó. Vì lỗi chính do Chờ gây ra và chiếc xe gây tai nạn lại là xe của ngoại giao đoàn nước Pháp nên mọi người trên xe được tạm ra về sau khi đã đem Chờ vào bịnh viện và họ cũng phải chịu một phần trách nhiệm về tai nạn giao thông nầy.

Chiều tối hôm đó ở nhà mẹ Chờ gom số gạo còn lại nấu nồi cơm nhỏ, luộc mớ rau dền hái ngoài đám cỏ gần hai ngôi mộ cổ, gắp mấy viên chao khuấy thêm đường, chanh, ớt rồi đợi Chờ về. Nhưng đợi mãi đến hơn mười giờ tối chẳng thấy bóng Chờ đâu. Sợ bé Duy đói bà cho cháu ăn trước, dỗ nó ngủ rồi ngồi đợi con gá., Sự lo lắng làm tinh thần bà thêm căng thẳng, bà nghe khó thở, thỉnh thoảng mắt hoa lên ngờ nghệch trong chập chờn của ngọn đèn dầu hiu hắt. Tờ mờ sáng hôm sau,  người xóm miễu Vạn thấy một chiếc xe hơi bóng loáng đậu ngoài đầu hẻm. Một đôi vợ chồng “ông tây, bà đầm” xuống xe ngơ ngáo cùng người tài xế Việt ngó chung quanh rồi hỏi thăm nhà Chờ. Người ta chỉ cho họ ngôi nhà sau miễu Vạn và mười phút sau thiên hạ nhốn nháo khi thấy ông khách bồng xốc bà ngoại Chờ trên tay đem ra xe chở đi cứu cấp. Những ai tò mò theo dõi mọi diễn tiến từ đầu kể lại rằng, mẹ Chờ ngất xỉu vì ngỡ rằng Chờ đã chết, lúc chú tài xế thuật chuyện xe chú đụng phải Chờ. Những người hàng xóm giữ bà vợ ông khách lại bắt bà trông bé Duy như một cách cầm giữ con tin đối với chủ xe gây ra tai nạn.

Thực ra Chờ không chết mà chỉ bị thương ở một ống xương chân, phải bó bột điều trị lâu dài. Cô cơ hồ ngất đi khi ngả xuống lòng đường, được đưa vào bịnh viện băng bó cô dần tỉnh hồn lại sau đó và nhớ đến bà cháu bé Duy đang đợi cô ở nhà, cô yêu cầu người gây ra tai nạn về nhà báo tin cho mẹ cô biết để bà đỡ ngóng trông tin. Không ngờ tin tức đó là bản án tử hình cướp mất của cô người mẹ thân yêu còn sót lại. Với bịnh tim chồng chất lâu ngày thiếu thuốc men chữa trị, thêm một đêm không ngủ đầy lo lắng đợi con về, trái tim tội nghiệp của bà không còn đủ sức chịu đựng khi nghe tin dữ của Chờ.  Vợ chồng De Bourgeois là  nhân viên ngoại giao làm việc cho tòa đại sứ Pháp tại Việt Nam, họ bàng hoàng trước thảm cảnh của Chờ, ông bà đóng tiền phạt cho người tài xế xe, lo tang ma cho mẹ Chờ, đem bé Duy về nhà chăm sóc trong khi Chờ còn nằm điều trị.

Ngày Chờ xuất viện, hai ông bà De Bourgeois đón Chờ về nhà họ, cho Chờ làm người giúp việc. Chờ và bé Duy được sống những ngày trắng cơm, lành áo. Ngôi nhà sau miễu Vạn được đóng cửa bỏ đó vì Chờ không nghĩ  hai mẹ con cô sẽ sống mãi với người dưng. Ông bà De Bougeois có một cô con gái tên Hélène trạc tuổi Duy, hai đứa bé khác tiếng nói, màu da nhưng không hiểu sao chúng lại  nhanh chóng thân thiết nhau như anh em một nhà. Ông bà De Bourgeois có vẻ mến bé Duy, nó được cho đi học lại và học trường Pháp như cô bé Hélène, đuợc hưởng gần như tất cả những thứ mà Hélène có. Chờ buồn vì mất mẹ nhưng mừng thấy con thoát khỏi cảnh nghèo khổ như mình ngày xưa, trong cái rủi ít ra cũng có cái may và Chờ nghĩ có lẽ mẹ đã phù hộ cho mình.  

Thắm thoát mà mẹ con Chờ xa xóm cũ đã hơn sáu năm, Chờ bây giờ cũng biết chút ít “tiếng tây, tiếng u” như ai, không giỏi lắm nhưng đủ để nghe và nói chuyện với gia đình chủ nhà. Thỉnh thoảng ngày giỗ mẹ cha, cô dẫn con về hẻm nhỏ, vào nhà làm cơm cúng kiếng rồi lại dắt con đi. Lối xóm không ai nhắc chuyện“thằng Chờ” ngày trước, cơ hồ họ cũng đã quên luôn chuyện đám ngũ hành cho ra đời bé Duy sau hai ngôi mộ cổ, không còn ai ác ý hỏi vặn vẹo những tiếng thị phi với Chờ nữa.  Năm tên ngũ hành bây giờ đã rã đám tan bèo. Thằng Kim đi lính Biệt Động quân chết 2 năm về trước trên chiến trường quân khu ba;  thằng Hỏa và Mộc còn lênh đênh bốn vùng chiến thuật, thỉnh thoảng về phép đi ngang nhà Chờ chúng khựng lại như nhớ một điều gì rồi cũng bước qua mau; thằng Thủy cưới vợ mở tiệm sửa xe đạp gần chợ Chuồng Bò, bây giờ được ba đứa con; thằng Thổ lái xe Lam chạy tuyến Saigon – Hưng Phú, mọi nguời đồn nhau rằng nó nói bé Duy là con của nó nên nhứt định chờ mẹ con Chờ về xin lỗi. Không biết lời đồn có đúng hay không nhưng quả thật mỗi lần Chờ dẫn bé Duy về là sớm muộn gì sau đó cũng thấy thấp thoáng bóng thằng Thổ bên cửa sổ nhìn vào, Chờ biết nhưng làm ngơ không chào hỏi chi hết, chuyện ngày xưa ai quên chứ cô vẫn nhớ, cô không vác chổi đuổi nó đi là may lắm rồi, có đâu chuyện mời chào phép tắc lễ nghi.

Nhưng mặt nước không lặng cho Chờ an thân sống,  ông De Bourgeois gần hết hạn công tác phải đưa gia đình trở về Pháp. Vợ chồng ông ngỏ ý muốn nhận bé Duy làm con nuôi để đem nó theo cùng, bù lại họ hứa sẽ cho cô một số tiền làm vốn tùy thân. Thật ra, cho Chờ cùng đi cũng được nhưng trong tính ích kỷ của con người thường tình, họ muốn bé Duy sau nầy chỉ biết có họ là cha mẹ mà thôi. Chờ nghe lời đề nghị đó mà sững sờ thảng thốt.  Cô đâu muốn bán con để có số tiền to làm vốn, còn vỏn vẹn hai mẹ con mà, ai nỡ cắt ruột cho người đem đi. Chờ khóc mấy đêm liền, nước mắt tuôn như ngày cha mẹ chết, đến ngày thứ năm mắt Chờ ráo hoảnh, cô tìm ông bà De Bourgeois để nói quyết định sau cùng của mình và người ta thấy vài ngày sau đó họ đến Sở Hộ Tịch làm khai sanh mới cho bé Duy. Con của Chờ thôi họ Trịnh để khoác họ De Bourgeois và thêm tên Jean đứng cạnh tên Duy của  ông bà ngoại bé đặt để ngày nào. Đó là một trong những điều kiện Chờ yêu cầu khi bứt ruột cho con. Sau bao đêm trăn trở cô đã chọn con đường sung sướng cho Duy, cô không muốn cây non bám vào mảnh đất cằn khô chai sạn, nó phải được bứng lên đem trồng nơi màu mỡ phì nhiêu, nó phải có cha có mẹ đàng hoàng cho dù để có được những thứ đó cô phải hy sinh tình mẫu tử.  

 Năm đó bé Duy mới bắt đầu tuổi mười ba, giọng nó không còn mang âm thanh trẻ con nhiều như trước, trên viền môi đã ửng hiện màu râu xanh của tuổi thành niên, ăn uống đầy đủ, chơi thể thao đều đặn, người nó nở nang như một cậu trai mười sáu, mười bảy. Lắm lúc nhìn con Chờ giật mình như thấy ẩn hiện đâu đây bóng dáng của một đứa trong đám ngũ hành. Nhưng thôi, bây giờ bé Duy đã có cả cha lẫn mẹ với giấy tờ hẳn hoi, cô đâu cần tìm hiểu làm chi cội nguồn của nó và có lẽ nó cũng chẳng màng biết cha nó là ai,  vì cô có nghe nó hỏi đến người tạo ra nó bao giờ đâu, không hiểu tại tính nó vô tư như cô ngày nào hay tại nó ý tứ sợ cô buồn nên tránh né hỏi han. Đúng ra Duy ý tứ hơn vô tư, lúc còn ở xóm miễu Vạn nhìn bạn bè có cha có mẹ đầy đủ nó cũng ngạc nhiên thấy sao mình không có ai để gọi bằng ba. Thỉnh thoảng có mấy chú trong xóm hay chận đường nó lại kêu nó bằng con và xưng ba với  nó, nhưng đi học thầy cô dạy mỗi người sanh ra chỉ có duy nhất một cha, một mẹ thôi mà, vậy thì làm sao nó có nhiều ba đến thế. Băn khoăn, nhằm lúc vắng mặt Chờ nó hỏi  bà ngoại về chuyện một người cha:

 Mẹ Chờ ngẩn người khi nghe cháu hỏi, lúc đó nó đã sáu tuổi, đã đi học và đã thấy sự khác biệt vấn đề nầy của nó với bạn bè chung quanh.  Ngoại xoa tóc nó rồi nói:

D ĩ nhiên là bé Duy nhớ lời ngoại dặn vì nó thương mẹ nó lắm, nếu hỏi về ba nó để mẹ nó buồn thì nhất định nó sẽ không bao giờ hé môi đâu.  Kể từ ngày ngoại mất, nó rời hẻm nhỏ, cùng mẹ về ở nhà cha mẹ của Hélène, đuợc đối xử như ruột thịt trong gia đình chủ nhà, nó quên dần chuyện mấy chú trong xóm. Một lần nó nghe ông bà Bourgeois hỏi mẹ nó về ba nó và chính mẹ nó cũng nói y như ngoại hôm nào, nghĩa là ba nó đi lính chết lâu rồi, chết hồi nó chưa ra đời lận kia, có thể vì vậy giấy khai sanh của nó ghi cha “vô danh”. Cái đầu trẻ con của nó nghĩ vậy và nó chợt thấy buồn với một chút ước ao phải chi ba nó còn sống để nó coi nó với ba nó có giống nhau không và để nó được xà vào lòng ba nó mà nhõng nhẽo như Hélène nhõng nhẽo với ông De Bourgeois vậy. Mấy hôm rày Duy nghe Hélène nói là gia đình nó sắp về nước, nước của nó ở tận bên tây xa lắm, như vậy chắc khó mà gặp lại nhau, hai đứa trẻ cùng buồn, cái buồn vô tư của những con chim non bị chia đàn, rẽ cánh. Nhưng hình như mẹ Duy cũng buồn, nó thấy mẹ thỉnh thoảng thở dài hoài, chắc mẹ cũng nhớ Hélène và ông bà de Bourgeois như nó hay mẹ sợ phải trở về cái hẻm nhỏ ngày nào khi gia đình Hélène không còn ở đây nữa. Cậu bé chưa kịp hỏi chuyện mẹ nó thì một buổi tối trước khi đi ngủ Chờ kêu con vào bếp rồi bảo:

Bé Duy tròn xoe mắt ngó Chờ, giọng ngạc nhiên:

Chờ ứa nước mắt, ôm con vào lòng:

Buổi tối hôm đó hai mẹ con cùng khóc, Chờ giảng nghĩa cho con hiểu lý do vì sao cô quyết định giao con cho người. Bé Duy đi ngủ với bên tai còn văng vẳng tiếng nấc của mẹ nó và câu nói đứt đoạn “vì tương lai của con đó Duy ơi”.

Hai tháng sau Duy theo gia đình De Bourgeois lên phi cơ rời Việt Nam đi Pháp, Chờ trở về xóm miễu Vạn bên kia cầu chữ Y, dùng số tiền dành dụm đi làm bấy lâu sửa lại ngôi nhà cũ, xây lại mộ mẹ cha và lấy số tiền  cha mẹ nuôi bé Duy tặng mở tiệm tạp hoá nhỏ tại ngôi nhà mình. Hẻm nhỏ, hàng xóm quen nên chuyện kiếm sống qua ngày không là điều khó với Chờ. Ban ngày kẻ qua, người lại bán buôn chíu chít lao xao nên Chờ trở lại bản tính ồn ào, linh động như ngày nào và ít nghe đơn lẻ. Nhưng đêm về, khi cửa đóng then gài, một mình trong quạnh quẽ Chờ nhớ con đoạn đoài gan ruột. Cô sẽ chờ nó về nếu mai sau nầy nó còn nhớ đến cô, đời cô muôn thuở phải đợi chờ mà, ai xui ngày xưa cha mẹ cô đặt để cho cô làm chi cái tên buồn định mệnh.

Năm đó là năm 1974, qua năm sau chiến tranh VN chấm dứt,  kết thúc hơn ba mươi năm nội chiến tưong tàn.

........

Duy đẩy cửa vào nhà, bức ảnh Hélène trên tường nơi phòng khách cười tươi rạng rỡ như chào đón chàng về. Hélène mất đã ba năm rồi mà chàng vẫn chưa quên bao hình ảnh thương yêu một thời của cô gái nhỏ ngày nào. Ngày chàng theo gia đình nàng về Pháp bỏ lại sau lưng bà mẹ khốn cùng, chàng tưởng chừng như không chịu nổi sự thiếu vắng mẹ và những khác biệt của cuộc sống xứ ngừơi. Nếu không có sự chăm sóc của ông bà de Bourgeois và tình yêu trong sáng của Hélène chắc gì chàng có đươc như ngày nay. Duy trưởng thành theo thời gian, học hành đỗ đạt, tìm được việc làm và mối tình với cô em dị chủng cũng thành hình như chuyện bình thường khi hoa bướm kề nhau. Cha mẹ Hélène không ngăn cản mối tình đó và họ phải kiên nhẫn đến sở hộ tịch làm lại giấy tờ cho Duy cùng bao khó khăn tốn kém thời gian, tiền bạc để trả chàng về lại cái tên Trịnh văn Duy như xưa trước khi kết hợp cho cả hai chính thức cưới nhau. Duy muốn rước mẹ ruột qua để có mặt trong này vui trọng đại của mình nhưng VN năm 1986 vẫn còn đang trong buổi giao thời sau ngày thống nhất, chuyện xuất nhập cảnh còn lắm nhiêu khê nên cuối cùng chàng chỉ gửi thư và thiệp báo tin cho mẹ biết mà thôi.

 Hạnh phúc gia đình chàng có thể sẽ toàn vẹn hơn nếu cả hai có một đứa con, nhưng sau bao năm chung sống sự đợi chờ tiếng trẻ trong nhà chỉ là vô vọng,  các cuộc thử nghiệm y khoa cho biết Hélène không thể có con bình thường và nếu có thì sự nguy hiểm sẽ dễ dàng xảy ra cho cả hai mẹ con. Duy thương vợ nên khuyên nàng đừng nghĩ đến chuyện thai nghén, cha mẹ vợ chàng khuyên họ xin một con nuôi nhưng Hélène chỉ muốn đứa con do chính nàng sanh ra để chứng tỏ tình yêu với chồng. Duy càng tránh né,  Hélène càng van nài , nàng bảo khoa học ngày nay có thể cải lão hoàn đồng, cải tử hoàn sanh thì chuyện giúp nàng cho ra đời một đứa bé chắc chắn không là điều bất khả. Rồi viện lý do cha mẹ hai bên chỉ có cả hai là con duy nhất nên ý muốn của nàng càng mãnh liệt hơn. Không dằn lòng được trước những giọt nước mắt mỗi đêm của vợ, Duy chiều theo ước vọng của nàng và cuối cùng Hélène thọ thai. Trong niềm vui tưởng như tột cùng của vợ, Duy lo sợ từng ngày nhìn những biến chuyển sức khỏe của Hélène. Và đúng như dự đoán của các bác sĩ, qua tháng thứ hai thai nghén Hélène giảm cân và yếu sức hẳn đi. Vị bác sĩ theo dõi tình trạng này bắt cô gái không được sinh hoạt bình thường, cô sống như một người bịnh nặng, suốt ngày cơ hồ chỉ ở trên giường, thuốc men bảo dưỡng không ngừng. Ngoài giờ làm việc ở sở làm, Duy luôn ở cạnh vợ, chàng nhớ tới mẹ mình và không biết ngày xưa mẹ có nhọc nhằn khi mang thai chàng không. Hélène bây giờ có chàng bên cạnh săn sóc, còn mẹ  thì có ai đâu ngoài ông bà ngoại. Chợt dưng Duy ước ao có mẹ gần kề, chàng dự tính sau khi Hélène sanh xong sẽ rước mẹ qua cho mẹ thấy cháu nội của mẹ, chỉ cầu trời cho Hélène được vuông tròn lúc vượt cạn một mình. Nhưng nỗi lo của Duy đã thành sự thật, không đợi đủ ngày tháng của thời nở nhụy khai hoa, Hélène oằn oại đau trên giường mỗ khi thai nhi mới vừa sáu tháng và dù các bác sĩ tận tình trong ca mổ, Duy mất hẳn cả vợ lẫn con khi đứa trẻ chưa đủ sức chào đời và Hélène không chịu đựng được cơn đau của lần vượt cạn.

Một năm sau Duy mới có đủ can đảm viết thư cho mẹ kể lại nổi bất hạnh của mình. Cùng lúc chàng cho biết đang chuẩn bị làm đơn bảo lãnh mẹ sang ở với chàng. Gần hai mươi năm rồi mẹ con chàng sống trong xa cách, bây giờ là lúc cả mẹ lẫn chàng cần có nhau bên cạnh, hơn nữa mẹ giờ đã già, cần có người chăm sóc sớm hôm. Đơn từ còn chưa hoàn tất thì một hôm chàng nhận được thư mẹ, lá thư ngắn ngủi chỉ mấy dòng như một bức điện tín nhưng làm đảo lộn mọi ý định của chàng:

Duy con,

Má không muốn xa hẻm miễu Vạn, cuộc đời má gắn bó với nơi nầy rồi, đừng làm đơn bảo lãnh cho má.

Còn một điều nữa, má muốn cho con biết là con hãy còn một người cha.

Má chờ con về để xem có phải con là con của người đó không?

Hảy về sớm. Má trông con.

Má của con.

Duy ngẩn ngơ trước những lời mẹ viết. Chàng có cha? Nhưng phải về để xác định đó có thật là cha chàng không?  Vậy  ra người cha đi lính chết trước khi chàng chào đời là ai? Vâng lời mẹ và cũng vì muốn hiểu sự thật đời mình, chàng xin nghỉ phép dài hạn một tháng, làm visa, mua vé máy bay về ngay trong mùa hè năm đó, năm 1992.

Bà Chờ đón con ngay  tại phi trường Tân sơn Nhất. Đây không phải là lần đầu Duy về thăm mẹ vì chàng và Hélène đã ba phen trở lại VN sau ngày cưới để tìm về hẻm nhỏ của mẹ con chàng. Duy thấy mẹ khác nhiều với những lần về trước, mẹ bây giờ là một thiếu phụ đẫy đà, tươi mát, mái tóc lâm râm bạc nhưng da dẻ vẫn hồng hào khác hẳn với cô Chờ của mấy chục năm xưa. Duy có cảm tưởng hình như mắt mẹ vui hơn và hình như mẹ trẻ hơn nhiều so với tuổi gần sáu mươi của mẹ. Trên xe về nhà, hai mẹ con không nói gì khác hơn những câu hỏi, đáp về Hélène và cuộc sống hiện tại của Duy. Xe chạy vòng vèo qua cầu chữ Y, xuống đường Hưng Phú, ngang qua chợ Chuồng Bò rồi ngừng trước hẻm miễu Vạn. Tất cả thay đổi khá nhiều đến độ dù đã về đôi ba lần Duy vẫn nhìn muốn không ra, nhưng đường vào hẻm vẫn nhỏ hẹp như độ nào. Quán chú Chón vẫn còn đó, chú đã mất và thằng con chú đang thay chú tiếp tục nghề bán cháo cá, hủ tíu xào như lúc Duy còn nhỏ. Xe Taxi chở hai mẹ con Chờ ngừng trước hẻm. Duy vừa đỡ mẹ ra khỏi xe, chưa kịp lấy hành lý thì thấy một người đàn ông đầu bạc, tướng phốp pháp bước tới vỗ vai chàng, giọng thân mật:

Duy giật mình, nhìn kỹ người trước mặt. Những lần về trước cùng vợ, chàng chỉ lẩn quẩn ở nhà cùng mẹ chứ ít đi đâu vì không muốn lối xóm xầm xì chỉ trỏ cô vợ người Pháp của mình. Vì vậy người quen cũ thuở xưa chàng khó lòng nhớ được, dù gì cũng  đã gần ba mươi năm chàng sống xa hẻm nhỏ nầy. Lục tìm lần cuối trong ký ức cũ vẫn không tìm đươc câu trả lời cho người trước mặt, Duy chắc lưỡi, ấp úng:

Chờ bước đến bên con, ngó người đàn ông đầu bạc rồi nói nhanh:

Cả ba theo con hẻm về nhà Chờ, bác Hai hỏi thăm đôi ba câu về  hành trình chuyến đi của Duy rồi nhìn Chờ như đợi một điều gì nhưng bà thản nhiên:

Duy ngạc nhiên trong cách xưng hô của mẹ, có một cái gì đó nửa như thân mật, nửa như lạnh lùng với bác Hai.  Đợi khách về xong Duy hỏi mẹ:

Chờ bước ra đóng cửa tiệm tạp hóa lại rồi đến bên Duy bà nói:

Duy gật đầu, nhìn mẹ chờ đợi lý do câu hỏi khác thường đó. Bà Chờ ngó con, giọng đầy cảm xúc:

Duy đi từ ngạc nhiên nầy đến ngạc nhiên khác, chàng nhổm người lên, lắp bắp hỏi:

Bà Chờ gật đầu, mắt long lanh ướt, những giọt nước mắt như chực trào ra :

Chờ chậm rải kể lại cho con nghe chuyện đêm “Hận Má Đào” của hơn ba mươi năm xưa và nói chính bà cũng không biết ai là cha của Duy trong đám Ngũ Hành. Bà cứ tưởng mọi việc sẽ chìm vào quá khứ khi cho Duy sang Pháp. Trở về hẻm nhỏ bà sống lại cuộc sống bình thường của cô Chờ ngày xưa,  những tên gây hận giờ đã yên nơi, yên chỗ, kẻ chết trận, người an ổn vợ con, chỉ còn thằng Thổ vẫn độc thân đợi mẹ con Chờ và thỉnh thoảng cứ rêu rao rằng Duy là con của nó. Bà không tin vì chẳng có chứng cớ gì để tin,  nhưng giận thì vẫn giận không nguôi nên mỗi lần thấy bóng dáng nó lai vãng là bà hậm hực đuổi như đuổi tà .

 Sống đơn chiếc một thân, bà trở nên trầm tính hơn, những giờ rảnh chuyện bán buôn bà hay ngồi chuyện vãn cùng ông thầy Ba Von, người giữ miễu Vạn. Thầy Ba không tu chùa mà giữ miễu từ thời tóc còn để chỏm, tuổi thầy cũng gần tám mươi ngoài nhưng thầy rất còn tinh mẫn. Tính tình hiền lành chân chất của một nhà tu, thầy nghe và hiểu hết mọi chuyện dân xóm miễu, thầy cũng biết số phần bạc hạnh của Chờ. Những lúc Chờ sang miễu thắp hương ngày Vía, hay khi thầy rảnh dạo quanh trong xóm, thầy thường mượn ghế ngồi trước hàng ba tiệm tạp hoá nhà Chờ mà nói chuyện đời cho Chờ nghe. Thầy bảo cuộc sống nầy mọi chuyện đều do căn nghiệp mà nên, không có gì là vô cớ tự nhiên xảy ra cả. Oán thù nên cởi bỏ chứ đừng gút mắc hoài mà nghiệp căn không trả hết. Nghe tới đây tự dưng Chờ nổi doá nên xẵng giọng hỏi liền, căn nghiệp gì năm thằng Ngũ Hành đổ xuống đầu một đứa con gái yếu đuối như bà. Thầy Ba Von cười nói “tiên trách ngã rồi hậu hảy trách nhân”. Nếu bà ngày xưa đừng theo lũ nó rong chơi đàn đúm thì  làm gì xảy ra chuyện đêm hận má đào. Thầy khuyên bà nên hỉ xả cho quá khứ để nhẹ lòng bà mà cũng để trả hết nghiệp chướng tiền khiên, giữ hoài cái tâm sân hận chỉ thêm khổ mà thôi. Chờ nghe Thầy lý giải lần đầu hơi nghịch ý bà, nhưng những lần sau bà ngẫm nghĩ  thấy lời Thầy quả chẳng sai, có giận hờn cho lắm thì chuyện cũng đã rồi, cũng tại bà dấu diếm con người thật nên khơi dậy tính dục trong lòng năm tên “tiểu yêu” ngày đó mới ra cớ sự hôm nay. Thôi thì ai là cha của thằng Duy cũng không quan trọng, miễn nó biết  bà là mẹ nó là đủ rồi, bà nguôi giận từ lúc đó.

 Cuộc đời bà cứ lặng lẽ trôi, VN thập niên 90 chỉ mới bắt đầu giai đoạn đổi mới nên hệ thống điện thoại chưa hoàn chỉnh khắp nơi, thỉnh thoảng bà nhận thư  Duy từ Pháp gửi về rồi ngồi hý hoáy hồi âm cho nó để hôm sau đóng cửa tiệm nửa ngày đi bưu điện gửi thư cho con. Hôm nọ bà đi bổ hàng  về cũng trên bến đò Lao Cai như ngày nào,  một trận mưa thật lớn bất ngờ đổ xuống mà bà lại không mang dù, mang áo mưa theo. Về đến nhà bà ngả bịnh, ban đầu tưởng như cảm mạo thông thường nên bà còn ráng mở cửa tiệm bán buôn, nhưng  chiều xuống bà nghe đầu nặng, mắt hoa, chân không đứng vững. Trời đã tối, hẻm nhỏ vắng người, bà định đi đóng cửa tiệm chợt loạng choạng ngả chúi về phía trước chẳng khác chi lần ngả của cơn say trong bàn ăn mừng thắng cá cược thuở nào. Có thể bà sẽ nằm dài trên sàn nhà rồi nhập thổ mà “đi” luôn không chừng, nhưng lúc đó thằng Thổ chẳng biết vô tình hay cố ý lại đi ngang đúng lúc, thấy bà nằm sóng soài trên bậc thềm nhà, nó bước tới giựt tóc mai cho bà,  nghe bà ú ớ, nó dìu bà đứng lên cho ngồi vào chiếc ghế dựa gần đó, với tay lên bàn nó rót cho bà tách trà đã nguội trong bình, tìm trên kệ tủ các món hàng bà bán, nó lấy chai dầu Nhị Thiên Đường mở nắp trút dầu vào tay xoa lên cổ, lên thái dương bà rồi bắt đầu vừa xoa vừa giựt. Lúc sau bà tỉnh hồn lại, nhìn ngưòi vừa cứu mình bà bỗng giựt mình, thằng Thổ , mà không,  ông Linh – tên tộc của thằng Thổ -  đây mà, phải kêu người ân bằng danh xưng đàng hoàng chứ lớn tuổi rồi không lẻ cứ kêu bằng nó.

Một vài người đi ngang tiệm tạp hóa lúc đó nếu tò mò nhìn vô họ sẽ thấy đôi mái đầu oan khiên hôm nào đang ngồi lại bên nhau để nhắc chuyện ngày xưa. Chờ nhìn một trong những kẻ hại đời mình đang giúp mình qua cơn nguy khốn, bà tự hỏi, đó có phải là định mệnh hay không. Linh đang nhìn lại nạn nhân của mình bằng tâm sám hối ăn năn. Mây trên trời khi trắng, khi đen, người trên đời làm sao tránh khỏi khi say, khi tỉnh, Linh để cho Chờ khóc lúc ông lúng túng hỏi han tình trạng bịnh tình của bà, để cho Chờ nghẹn ngào khi ông  nói câu xin lỗi chuyện mấy chục năm xưa. Không nghe Chờ đối đáp tiếng nào Linh đứng dậy giã từ, ông biết, đâu phải chỉ vài giọt dầu xoa, vài câu xin lỗi mà “người ta”  xoá tội cho mình, được ngồi lâu không bị đuổi ra khỏi cửa như những lần trước là may lắm rồi, ông đâu dám đòi hỏi nhiều hơn nữa. Trước khi buớc ra khỏi bậc thềm nhà, Linh chợt quay lại, nhìn thẳng vào mắt Chờ ông nói nhanh như sợ không có can đảm nói lần thứ hai:

Nói xong Linh đi nhanh trong lúc Chờ ngẩn người khi nghe câu nói cuối. Chờ nhớ rất rõ cái lún đồng tiền trên người Duy vì có mẹ nào không biết tì vết của con,  Chờ nhớ luôn chuyện cha mẹ bà kể lúc Duy còn nhỏ mẹ của đám Ngũ Hành thường đến săm soi thằng bé như để tìm chứng tích giòng máu của nhà họ và bây giờ đen trắng đã rõ ràng, ít ra cuối cùng rồi thì bà cũng biết được cha của con trai bà. Đêm đó Chờ không ngủ, nước mắt thỉnh thoảng trào tuôn trên gối, bao năm trường làm mẹ nhưng có bao giờ bà biết được niềm vui ân ái, có bao giờ bà biết đuợc thế nào là  yêu thương chồng vợ,  hơn nửa đời người bà vừa làm mẹ lại vùa làm cha, gồng gánh một mình kết quả của một trò đùa vô nhân.  Oán hờn bà đã quên theo lời thầy Ba Von giảng dạy nhưng  đâu phải sau cơn mưa nào nắng cũng sớm lên cao.

Qua hôm sau Linh lại ghé lúc không có ai, ông  đứng bên ngoài nói vào giọng như chỉ đủ vừa cho Chờ nghe:

Chờ làm thinh lúc đầu, sau đó bà hỏi, giọng cũng nhỏ vừa đủ Linh nghe:

Mắt Linh sáng hẳn lên, ông mừng rỡ:

Chờ đỏ mặt như con gái lần đầu đọc tiểu thuyết diễm tình, bà trở lại tính ồn ào cố hữu:

Nói xong bà ngúng nguẩy bỏ vào trong nhưng không xua đuổi. Linh cười vui như trúng số, nghĩ mình ở vậy mấy chục năm “đền tội” chắc cũng đủ để trời thương nên “bả” đã cảm động mà “ân xá” tội ngày xưa. Thầy Ba Von hài lòng vô cùng khi thấy mấy lúc gần đây  hẻm nhỏ có biến chuyển, ông nhớ một buổi sáng sớm vô tình thấy Linh từ tiệm tạp hóa bước ra khi tiệm chưa mở cửa, hoá ra những lời ông khuyên đâu phải là vô ích. Lối xóm trong hẻm cũng nhìn thấy ông Hai  Linh xe Lam lúc sau nầy ra vô thường xuyên nhà bà Hai Chờ như cơm bữa. Riêng Chờ,  từ đêm ông Linh đến để cho bà biết cái lún đồng tiền trên người ông, bà hiểu “thằng Chờ” hồi đó quả thật vẫn còn chất đàn bà chứ không như chữ “văn” lót giữa mà cha mẹ bà đã đặt cho. Chính vì thế khi Duy báo tin đang làm đơn bảo lãnh cho bà sang Pháp bà đã viết thư gọi con về.

Duy trầm ngâm nghe mẹ kể, vừa thương cuộc đời gian truân của mẹ vừa nghi ngờ về chuyện cái lún đồng tiền trên thân thể của chàng và ông Hai. Thời đại tân tiến đâu thể chỉ một dấu vết tương đồng để xác định thân thế cội nguồn, cần phải xét nghiệm DNA cho rõ trắng đen trước khi chàng kêu ông là “ba”, chàng đã không có cha mấy mươi năm, nay chờ thêm thời gian ngắn nữa cũng đâu hại gì.

Ông Linh  khi nghe đề nghị của chàng vội vã gật đầu ngay, một mẫu tóc của ông và Duy được đưa đến Viện Di Truyền xét nghiệm. Kết quả đúng  thật Duy là con của ông Linh. Ngày cha con thật sự nhìn nhau ông Linh ôm vai con  xúc động  trong lúc bà Chờ nước mắt lưng tròng, phải đợi đến khi đầu bạc bà mới có được ngày vui này sao. Nhưng Duy  trong tận cùng trái tim chàng không nghe sự rung cảm nào, chàng kêu người đàn ông  gần như xa lạ tiếng “ba”  bằng cả một sự dửng dưng,  cha người ta không sanh cũng dưỡng, cha của chàng không dưỡng chẳng cố tình sanh, chàng ra đời chỉ với một cơn vui tàn bạo trên thân xác của mẹ chàng thì thử hỏi tìm đâu được sự gần gũi trong ánh mắt của chàng. Mẹ chàng đã tha thứ cho ông, nhưng chàng, chuyện còn mới quá, làm sao nói được chữ thứ tha.

Hết hạn  phép lưu trú Duy trở về Pháp, trước ngày chàng đi bà Chờ năn nỉ con về sống lại trên quê hương, gần gũi gia đình, Duy ngần ngừ, chàng không biết phải giảng nghĩa thế nào để mẹ chàng hiểu là chàng đang sống trên hai nẻo quê hương, quê mẹ thời thơ ấu cho chàng tiếng khóc chào đời và quê hương thứ hai nơi  cho chàng  tình yêu chồng vợ, nghĩa ân sâu nặng của cha mẹ nuôi và một cuộc sống bình an ổn định. Sống bên đây chàng nhớ bên kia, về bên kia chàng hoài vọng bên đây, cho dù bây giờ Hèlène không còn nữa nhưng bao kỷ niệm vẫn còn đầy và một công việc đảm bảo tương lai đâu phải dễ tìm giữa thời buổi khó khăn nầy, chàng không muốn mất nó. Có thể một ngày nào đó, tiếng gọi cội nguồn kêu chàng trở lại nhưng bây giờ hãy còn quá sớm để nói chuyện tương lai.

Linh và Chờ đưa con ra phi trường, mỗi người mang một tâm sự khác nhau. Trong cái ngổn ngang tâm sự đó có chung một điểm cùng tự trách mình. Linh trách sự hư hỏng của mình ngày xưa nên con cái không nghe ràng buộc nghĩa tình huyết thống. Chờ giận mình sai lầm khi đánh giá tương lai bằng sang giàu, vật chất lúc đem giao con cho người, Duy ngày nào như cây non mới bén mầm, bà đã  cho nó trưởng thành trên xứ lạ chứ không phải trên đất quê  hương, gốc rễ nó hấp thụ tinh hoa xứ người thì muốn nó trở lại đất xưa cũng cần có thời gian thay đổi. Bà đã thay đổi thành kiến với cha nó sau mấy mươi năm thì chuyện nó thay đổi ý định để trở về đâu phải là điều không thể, chỉ cần kiên nhẫn chờ đợi mà thôi..

Cuối năm đó Duy được thư và thiệp báo tin cha mẹ sắp sửa thành hôn, lễ cưới đuợc tổ chức vào ngày mồng 1 Tết, Linh và Chờ muốn ngày vui của họ hòa trong ngày hoán chuyển thời gian như cuộc tình chẳng có đoạn đầu của họ đã được hoán chuyển bằng tâm từ mà Chờ đã buông xả, thứ tha cho Linh để có đoạn hậu tuy muộn màng nhưng đầy yêu thương hạnh phúc. Ngoài chuyện lễ cưới của mình, Chờ muốn con về  sớm để hưởng không khí Tết, để thấy lại hoa mai, hoa vạn thọ chưng bày trong miễu, thấy múa lân đi từ trong hẻm ra đến bến sông và ăn một cái Tết truyền thống đúng nghĩa. Chờ viết thêm “mẹ biết con thích ăn bánh ổ chiên giòn nên đã nhờ  cô Oanh con bà  Tư lối xóm làm xong gần chục ổ bánh chờ con về. Con nhớ Oanh không, con bé đi học tiểu học với con hồi xưa đó, nó vẫn chưa có chồng con à ”.

Duy mỉm cười xếp thư lại, cuối cùng rồi thì mẹ chàng cũng tìm được bến bình an, chứng tỏ cha chàng không hẳn là người hoàn toàn xấu. Chàng  đến vuốt ve ảnh vợ trên tường, khẽ hỏi “Em cho phép anh về ăn bánh ổ cô hàng xóm cũ không Hélène?” Và hơn bao giờ hết tư dưng chàng nghe thèm một cuốn bánh tráng dưa giá,  rau thơm chấm nước thịt kho hòa tương ớt vô cùng.

                                        HỲNH NGỌC NGA

                                   Torino, ITALIA – 20.11.2010