Published using Google Docs
Giới thiệu tổng quát về huyện Hiệp Hòa (Links)
Updated automatically every 5 minutes

Giới thiệu tổng quát về huyện Hiệp Hòa - Bắc Giang (Hiephoa.net)

Hãy nháy vào các Liên kết ở đầu mục để xem bài chi tiết

1. Địa lý hành chính qua các triều đại. Thời nhà Nguyễn, Hiệp Hòa xê xích trong khoảng 50 - 51 xã đặt trong 9 tổng. Vào năm 1992 Hiệp Hòa có 26 xã và một Thị trấn.

2. Danh sách các tiến sỹ. Về đỗ đạt khoa bảng thời xưa, phủ Bắc Hà có 4 huyện thì huyện Hiệp Hòa đứng thứ hai. Trong “Lịch chiều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú có chép: “về khoa mục thì huyện Kim Hoa nhiều hơn rồi đến huyện Hiệp Hòa, huyện Thiên Phúc và huyện Việt Yên. Huyện Kim Hoa 17 người, huyện Hiệp Hòa 10 người, huyện Tiên Phúc 8 người, huyện Việt Yên có 6 người”. Nếu kể cả một người ở Ngọ Xá, một người ở Đoan Bái, một người ở Trung Định và một người đỗ ở thời Nguyễn mà Phan Huy Chú không thống kê thì qua 11 khoa thi Hiệp Hòa có 13 người đỗ tiến sỹ.

3. Giành chính quyền trong cách mạng tháng 8. Ngày 12/3/1945 Ban thường vụ trung ương Đảng ra một chỉ thị lịch sử “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” thì ngay tối hôm đó, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở xã Xuân Biều thuộc Hiệp Hòa đã thành công, sớm nhất trong cả nước, trước ngày tổng khởi nghĩa ở Hà Nội 19/8/1945 là 160 ngày. Ngày 1/6/1945 giành chính quyền ở huyện thành công. Huyện Hiệp Hòa là huyện giành chính quyền đầu tiên trong hai tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh, trước ngày tổng khởi nghĩa ở Hà Nội 19/8/1945 là 79 ngày.

4. Thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Trong kháng chiến Hiệp Hòa là vùng tự do (Việt Minh kiểm soát) nhưng giáp giới các vùng tề (do Pháp kiểm soát). Pháp xây dựng một loạt các vị trí, đồn bốt ở Núi Con Voi, Mỏ Thổ, Núi Nhẫm, Ngã Ba Xà, Chờ, Yên Phụ, Núi Đôi để cô lập Hiệp Hòa. Hiệp Hòa chịu rất nhiều cuộc càn quét và ném bom của Pháp.

5. ATK2 – An toàn khu thứ hai. ATK2 (An toàn khu thứ hai) của Trung ương và Xứ ủy Bắc kỳ trong thời kỳ tiền khởi nghĩa là vùng đất gồm huyện Hiệp Hòa, huyện Phổ Yên và phần phía Nam của huyện Phú Bình.

6. Các di tích đã được xếp hạng. Tính đến hết năm 2007 Hiệp Hòa có 16 Di tích lịch sử cấp quốc gia và 34 Di tích lịch sử cấp tỉnh

7. Tổng quan về huyện Hiệp Hòa. Hiệp Hòa là một huyện trung du thuộc tỉnh Bắc Giang, nằm ở phía Tây Nam của tỉnh Bắc Giang, huyện lỵ cách thành phố Bắc Giang 30 km và cách thủ đô Hà Nội 50 km theo đường bộ. Phía Đông Bắc giáp huyện Tân Yên, phía Đông giáp huyện Việt Yên, phía Nam giáp vùng đồng bằng châu thổ Yên Phong của tỉnh Bắc Ninh, Phía Tây Nam giáp huyện Sóc Sơn của Hà Nội, phía Tây Bắc giáp các huyện Phổ Yên và Phú Bình của tỉnh Thái Nguyên.

8. Các địa điểm thăm quan du lịch ở Hiệp Hòa. Toàn bộ tỉnh Hà Bắc cũ (Bắc Ninh và Bắc Giang) có 20 di tích được Bộ Văn hóa và Thông tin xếp hạng thì Hiệp Hòa có 3 di tích (xếp thứ ba): Lăng Dinh Hương, Lăng Họ Ngọ, Lăng Đá Bầu; có 11 di tích do tỉnh xếp hạng thì Hiệp Hòa có 2 (xếp thứ nhất): đình Chợ Vân và Đình Lỗ Hạnh. Nếu tính cả di tích kiến trúc và di tích lịch sử Cách mạng thì Hiệp Hòa có 17 di tích (xếp thứ hai sau Tiên Sơn có 23 di tích).

DANH NHÂN HUYỆN HIỆP HÒA

9. Đức thánh Hùng Linh Công ở núi Ia. Hùng Linh Công là cháu ruột Vua Hùng, một danh tướng thuộc đời Hùng Vương thứ sáu (1718 - 1631 TCN), ông được vua trao cho kim đao và 3 vạn binh mã đi tiên phong cùng với Thánh Gióng đánh tan giặc Ân. Ông được vua Hùng giao cho cai quản xứ Kinh Bắc, ông cũng có công trừ hổ để giữ cuộc sống an bình cho dân. Ông sinh ra và mất trên đất Hiệp Hòa, Bắc Giang và được thờ ở Đền IA khoảng 3700 năm nay

10. Đoàn Xuân Lôi người làng Sổ. Đoàn Xuân Lôi người làng Trâu Lỗ, xã Mai Đình, huyện Hiệp Hòa, Bắc Giang, đỗ Trạng nguyên năm 1384. Sách ''Đại Việt Sử Ký Bản Kỷ Toàn Thư'' chép "Giáp Tý, [Xương Phù] năm thứ 8 [1384], (Minh Hồng Vũ năm thứ 17). Mùa xuân, tháng 2, Thượng hoàng cho thi thái học sinh ở chùa Vạn Phúc núi Tiên Du , [lấy đỗ] bọn Đoàn Xuân Lôi, Hoàng Hối Khanh... 30 người."

11. Hoàng Công Phụ người làng Chèo. Hoàng Công Phụ quê ở làng Chèo, tổng Quế Trạo, huyện Hiệp Hòa, phủ Bắc Hà, trấn Kinh Bắc; sinh quán ở Thăng Long, đẻ ra đã có khuyết tật [ái nam ái nữ]. Năm sinh, năm mất sử sách không ghi rõ. Năm 14 tuổi vào hầu trong phủ Chúa Trịnh, dần dần được Chúa tin dùng, uy quyền tột bậc.

12. Ngô Dụng người làng Vân Xuyên. Ngô Dụng (1684 - 1746) là đại thần nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam . Ông đỗ tam giáp đồng tiến sĩ khoa thi năm Tân Sửu (1721), niên hiệu Bảo Thái năm thứ hai triều vua Lê Dụ Tông, làm quan đến chức Đổng tiến kim tử, vinh lộc đại phu, Trụ quốc thượng giai, Binh bộ thượng thư tước nhi quận công.

13. Nguyễn Đình Tuân người làng Sổ. Nguyễn Đình Tuân 1867-1941 (thường gọi là ông Nghè Sổ) người xã Trâu Lỗ, tổng Mai Đình, huyện Hiệp Hòa, phủ Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang (nay thuộc làng Trâu Lỗ, tên nôm là làng Sổ, xã Mai Đình, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang), đỗ Đình nguyên khoa thi năm Tân Sửu 1901 của triều Nguyễn.

14. Chuyện thám hoa Hoàng Sầm. Hoàng Sầm là danh nhân khoa bảng thời Mạc. Ông người xã Thù Sơn, thuộc tổng Quế Trạo, huyện Hiệp Hòa, xứ Kinh Bắc (nay thuộc xóm Giếng, xã Hòa Sơn, huyện Hiệp Hòa). Ông sinh năm Nhâm Thân niên hiệu Hồng Thuận thứ 8 (1512) đời vua Lê Tương Dực, năm 27 tuổi thi đỗ Hội nguyên vào thi Đình đỗ Đệ nhất giáp tiến sỹ cập đệ, đệ tam danh (Thám hoa) khoa thi Mậu Tuất, niên hiệu Đại chính thứ 9 (1530) đời Mạc Đăng Doanh.

LĂNG MỘ

15. Lăng Dinh Hương. Lăng Dinh Hương xây dựng từ năm 1727, được công nhận di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia từ 1965, là một quần thể kiến trúc điêu khắc đá hoành tráng, độc đáo thời Hậu Lê. Xem chi tiết ...

16. Lăng Họ Ngọ. Lăng Họ Ngọ (còn gọi là Linh Quang Từ), di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia, được công nhận theo Quyết định số 29/QĐ-BHV ngày 13 tháng 1 năm 1964 của Bộ văn hóa, thuộc làng Thái Thọ, xã Thái Sơn, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang. Xem chi tiết ...

17. Lăng Vân Cẩm - một "Bảo tàng" đá. Toạ lạc ngoài cánh đồng làng Vân Cẩm - xã Đông Lỗ (Hiệp Hoà) có một công trình kiến trúc lăng đá được xây dựng chủ yếu bằng chất liệu đá ong cổ kính. Nhìn từ xa giống như một viên ngọc nổi trên một bàn thạch ở giữa cánh đồng. Đó là lăng Vân Cẩm, nơi thờ phụng ông Nguyễn Hạnh Thông, một vị quan lớn từng giữ chức Thượng tướng quân, Thị nội giám, Tư lễ giám, Tổng Thái giám dưới triều vua Lê chúa Trịnh.Xem chi tiết...

Ban biên tập Hiephoa.net biên soạn, 9/2/2014