ƠN CỨU RỖI
VĨ ĐẠI
MỤC LỤC
Chương 1: Tánh Chất Quan Trọng Của Ơn Cứu Rỗi
Chương 2: Ơn Cứu Rỗi Vĩ Đại Thay
Chương 3: Ơn Cứu Rỗi Vĩ Đại So Sánh Với Công Cuộc Sáng Tạo
Chương 4: Ơn Cứu Rỗi Vĩ Đại Vì Đối Chiếu Với Tội Lỗi
Chương 5: Được Giải Thoát Khỏi Quyền Lực Tối Tăm
Chương 6: Trong Đấng Christ Chúng Ta Được Cứu Chuộc
Chương 7: Được Thuận Hiệp Với Đức Chúa Trời
Chương 8: Một Sự Sống Mới Với Một Bổn Tánh Mới
Chương 9: Được Cứu Rỗi Bởi Sự Sống Của Ngài
Chương 10: Địa Vị Đời Đời Của Người Được Cứu Rỗi
Chương 11: Ơn Cứu Rỗi Chắc Chắn
Chương 12: Thế Nào Là Bị Hư Mất
Chương 13: Nếu Chúng Ta Xao Lãng, Thì Thể Nào Thoát Khỏi Được?
CHƯƠNG 1: TÁNH CHẤT QUAN TRỌNG CỦA ƠN CỨU RỖI
ĐỨC Chúa Trời hằng có đời đời. Trong Ngài có những giá trị đời đời, và ngoài Ngài, chẳng có những giá trị đó. Mọi sự của loài người, mọi sự họ sản xuất và chiếm hữu, chỉ thuộc về đời này. Phần nhiều các giá trị của loài người chỉ thuộc về đời này và mau qua. Cái thì tồn tại mấy năm, cái thì tồn tại hàng mấy thế kỷ cho một xã hội tương lai hưởng thụ; nhưng đối với mỗi cá nhân, thì không giá trị nào thuộc về đời này sẽ theo mình xa hơn cửa phần mộ.
Vì không có giá trị đời đời nào ở ngoài Đức Chúa Trời, nên chỉ khi nào loài người liên kết với Ngài, thì họ mới chiếm được hữu được những giá trị này. Bởi tội lỗi (không phải chỉ tội lỗi của cá nhân, nhưng còn là nguyên tội mà Ađam đã phạm), cả loài người bị phân rẽ với Đức Chúa Trời. Người ta không thể quay về với Đức Chúa Trời hoặc bởi bất cứ cuộc cải cách nào mà họ có thể thực hiện, hoặc bởi bất cứ việc lành nào của mình. Chỉ có một phương pháp cho loài người đến cùng Đức Chúa Trời, tức là nhờ Đấng từ Trời Giáng xuống thế gian này với tư cách Cứu Chúa của loài người. Ấy là nhờ ơn cứu rỗi Đức Chúa Trời ban trong Đức Chúa Jêsus Christ, và chỉ nhờ ơn ấy thôi, mà người ta được liên kết với Đức Chúa Trời, và do đó được chung hưởng các giá trị đời đời của Ngài. Đức Chúa Jêsus phán rằng: “Còn Ta đã đến hầu cho chiên được sự sống, và được càng dư dật” (Giăng 10:10). Sự sống mà Đức Chúa Jêsus ngự đến để ban cho loài người đó là tánh cách vĩnh viễn, và mức dư dật của sự sống ấy cũng có những giá trị vĩnh viễn.
Ngày nay người ta cũng khoe khoang nhiều về một sự sống[1] dư dật, nhưng nó hoàn toàn hạn chế ở vật chất và tạm thời. Phần lớn Hội Thánh hữu hình cũng quá chăm vào mức dư dật của những cái vật chất và tạm thời, mà loại trừ những cái thiêng liêng và vĩnh viễn. Công cuộc cải cách đạo đức, cải thiện xã hội và các vấn đề kinh tế đã chiếm chỗ nhiệm vụ rao truyền ơn cứu rỗi vô điều kiện mà Đức Chúa Trời biến cho loài người bị rủa sả vì cớ tội lỗi, - vả, loài người đang tiến mau lệ kinh khủng tới chỗ đời đời phân rẽ với Đức Chúa Trời, là nguồn gốc mọi sự.
Cả đến khi người ta thấy và trung tín trình bày lẽ cần phải có ơn cứu rỗi, thì họ cũng chỉ hoan nghinh những giá trị tạm thời phát xuất từ ơn cứu ấy, tỉ như các đời sống được cải cách, các gia đình được hàn gắn; còn những giá trị thiêng liêng và vĩnh viễn mà nhiều người nhận được, thì trong nhiều trường hợp, lại ít nhắc đến và coi thường.
Ngày nay, khi người ta nhấn mạnh vào sự cất đem loài người lên khỏi tình trạng thấp thỏi, thì họ chăm chú rất nhiều vào những giá trị đời này. Trái lại theo như ta thấy trong Kinh Thánh, thì Đức Chúa Trời nhấn mạnh vào sự giải quyết vấn đề tội lỗi loài người và mọi hiệu quả do tội lỗi ấy trên căn bản những giá trị đời đời, tức là bởi ơn cứu rỗi.
Công cuộc cải thiện xã hội và cải cách đạo đức, dầu có ích cho hiện tại chừng nào, cũng không giúp đỡ ai bên kia mồ mả, - vả, mồ mả chẳng phải là chung cuộc của loài người đâu. Loài người có linh hồn bất diệt, cứ tồn tại cho đến đời đời. Ơn cứu rỗi mà một mình Đức Chúa Trời thực hiện bởi Đức Chúa Jêsus Christ, sẽ đưa linh hồn bất diệt của loài người vào một trạng thái vĩnh viễn và hạnh phước vô cùng tận.
Trong một thời đại của lịch sử, chúng ta thấy loài người nhìn nhận có sự tồn tại bên kia mồ mả, kẻ thì hưởng phước của một Đấng Cao Cả, kẻ thì phải chịu cơn thạnh nộ của Ngài. Ngày nay, hầu như chẳng có người nào đang sống đây mà ở nơi đáy lòng, lại không có lúc nghĩ đến đời sau. Ai nấy cũng đồng ý rằng địa vị tương lai của mỗi cá nhân trong cõi đời đời được quyết định đang khi họ ở đời nầy. Tuy nhiên, khi tới vấn đề cái gì quyết định địa vị tương lai của mỗi cá nhân, thì người ta lại có những ý kiến hết sức khác nhau. Một đằng, hết thảy tôn giáo trên thế giới không trừ ra tôn giáo nào hiến cho người ta địa vị hạnh phước đời đời, hoặc giải thoát khỏi cảnh khổ não, như là một phần thưởng cho công đức của họ. Ngay trong đạo Đấng Christ cũng có nhiều người chủ trương như vậy. Đằng khác ngược lại hẳn, Đức Chúa Trời hiến ơn cứu rỗi vô điều kiện, bất cứ loài người tội lỗi và thất bại chừng nào; họ không đáng được ơn ấy, nhưng nếu bằng lòng nhận, thì được. Người nào nhận ơn cứu rỗi nầy, thì chắc chắn được sự vui vẻ đời đời do mối liên hiệp với Đức Chúa Trời không hề dứt tuyệt.
Lấy những giá trị tạm thời mà thay thế những giá trị đời đời gồm trong ơn cứu rỗi của Đức Chúa Trời, tức là bỏ mất phước lớn lao hơn hết mà Ngài từng hiến cho loài người. Vì phần lớn thủ lãnh Hội Thánh hữu hình làm như vậy, nên những người ở ngoài Hội Thánh (ấy chưa kể phần đông ở trong Hội Thánh) không hề được nghe đến các phước đời đời mà Đức Chúa Trời hiến cho loài người, chẳng đòi giá cả nào, và cũng không biết cách nhận lãnh các phước ấy.
Ngày nay hơn khi nào hết, khắp mọi nơi, người ta nhận thấy những giá trị trần gian và vật chất là không bền vững; họ bèn mong ước tìm được một cái gì bền vững để mà tin cậy. Ta tìm thấy câu đáp lại duy nhất cho lòng mong ước đó trong những giá trị thiêng liêng tuyệt đối, - tức là những giá trị đời đời của Đức Chúa Trời.
Vì chỉ nhờ ơn cứu rỗi mà người ta được liên kết với Đức Chúa Trời và bởi đó được hưởng các giá trị đời đời, nên sự cứu rỗi phải là đề mục quan trọng hơn hết để cho họ suy xét.
Mọi điều có thể biết về ơn cứu rỗi, thì ta trực tiếp hoặc gián tiếp nhờ Kinh Thánh mà biết. Không còn một nguồn gốc nào khác giải luận vấn đề trọng đại nầy. Vậy chúng ta phải công nhận những điều Kinh Thánh dạy dỗ là sự Khải Thị cho loài người biết rõ ý nghĩa của ơn cứu rỗi và cách nhận lấy ơn cứu rỗi. Vì cớ đó, mọi điểm trình bày đây theo đúng những điều Kinh Thánh dạy dỗ.
CHƯƠNG 2: ƠN CỨU RỖI VĨ ĐẠI THAY
N
GAY từ lúc đầu, chúng ta nên hiểu rõ chữ “Cứu Rỗi” dùng ở đây nghĩa là gì. Ông Webster giải thích “ sự cứu rỗi là:
(2) Thần học - Giải thóat khỏi ách tôi mọi cùng các hiệu quả của tội lỗi và sự chết đời đời”.
Như vậy, cứu rỗi tức là giải phóng khỏi tội lỗi và mọi hiệu quả của nó. Vì ơn cứu rỗi có hiệu lực gìn giữ nên nó không thể chỉ là một sự từng trải nhất thời. Đây là tình trạng còn mãi.
Nhưng ơn cứu rỗi còn có thể gồm nhiều phước khác ngoài sự giải phóng khỏi ách tôi mọi cùng hiệu quả của tội lỗi, và sự gìn giữ cho khỏi bị hủy diệt. Nó cũng gồm công việc mà Đức Chúa Trời để đưa loài người vào một địa vị hoàn toàn dành cho mọi kẻ đã được cứu khỏi những hiệu qủa của tội lỗi.
Nếu đọc Kinh Thánh cẩn thận, chúng ta sẽ thấy rõ rằng ơn cứu rỗi không gồm những phước giống nhau trong mọi thời đại. Trong mọi thời đại, sự cứu rỗi khỏi các hiệu qủa của tội lỗi và sự giải phóng khỏi sự chết đời đời vẫn y nguyên. Không có thời đại nào mà Đức Chúa Trời cứu rỗi người ta ít lâu, rồi để mặc cho họ lại sa vào địa vị hư mất như trước. Nhưng tùy theo thời đại mà ơn cứu rỗi đổi khác rất nhiều do ở điểm nầy, tức là mục đích của Ngài đối với những người được cứu rỗi tùy lúc mà đổi khác.
Trong thời kỳ còn thuộc về tương lai, cả dân Y-sơ- ra- ên sẽ được cứu, như có chép rằng: “Đấng giải cứu sẽ đến từ Si-ôn, cất sự bất kính khỏi Gia-cốp” (Rôma 11:26; xem Ê-xê-chi-ên 11:19, 20 và 36:24-28). Trong sự cứu rỗi đó, toàn dân Ysơraên được cứu và gia nhập nước trên mặt đất, dưới quyền trị vị của Chúa hòa bình. Trong sự cứu rỗi đó, không có dành địa vị nào trên Thiên Đàng, vì người Ysơraên vẫn còn là một dân tộc trên mặt đất.
Một nhóm khác sẽ được cứu khởi thời kỳ bảy năm theo sau thời đại này và ngay trước khi thành lập nước nói đến trên kia. Ít ra, trong một nữa thời kỳ bảy năm này “sẽ có tai họa lớn, đến nỗi từ buổi sáng thế đến nay chưa từng có, mà hẳn cũng chẳng hề có như vậy nữa.” (Mathiơ 24:21). Trong thời kỳ này, “một quần chúng rất đông,……từ các nước, các chi phái, các dân tộc, các tiếng mà ra” (Khải huyền 7: 9-15) sẽ được cứu rỗi. Họ “được ở trước ngai Dức Chúa Trời, ngày đêm phụng sự Ngài trong đền thờ Ngài” (Khải huyền 7:9-15). Theo ý định của Đức Chúa Trời, tuy những người được cứu rỗi trong thời kỳ đó sẽ là một dân thiên thượng, nhưng họ sẽ là tôi tớ trong Đền Thờ của Ngài.
Giăng Báp-tít tự xưng là “bạn hữu của Tân Lang” (Giăng 3:29) vì ông là tiên tri cuối cùng của thời Cựu Ước, nên lời này gợi cho ta nghĩ rằng trong mối liên quan với Đấng Christ, các Thánh Đồ Cựu Ước sẽ như bạn của Tân Lang.
Kinh Thánh chép rằng nhũng người được cứu rỗi trong thời kỳ ân điển hiện tại (bắt đầu sau khi Đức Chúa Jêsus chịu chết, sống lại, ngự lên trời, và sẽ chấm dứt trước khi thời kỳ đại nạn bắt đầu), thì được “dự định để trở nên giống như hình ảnh của Con Ngài” (Rôma 8:29). Đối với Đức Chúa Trời, là Cha, họ được gọi là “thân thể của Đấng Christ” (Êphêsô 4:12) cũng như Đức Cha và Đức Con là một vậy. Đó là địa vị cao quí hơn hết mà một loài thọ tạo của Đức Chúa Trời từng được cất lên.
Như vậy, khi danh từ “cứu rỗi” được ứng dụng cho thời đại này, thì nó bao gồm mọi việc Đức Chúa Trời làm cho loài người, tức là giải cứu họ khỏi các kết qủa của tội lỗi, làm cho họ “nên giống như hình ảnh Con” cũng cho họ được liên hiệp trọn vẹn với Ngài và Con Ngài vậy. Ơn Cứu Rỗi này là ý niệm trọng đại hơn hết mà Đức Chúa Trời từng ban cho loài người. Kinh Thánh gọi nó là “sự cứu rỗi lớn dường ấy,” (Hêbơrơ 2:3) nào có lạ gì.
Trong những trang sau đây, chúng tôi sẽ giải luận sự cứu rỗi này theo ý nghĩa trọng đại hơn hết, ứng dụng cho thời đại hiện tại, và hiến cho những ai đang sống ở đây.
Ơn cứu rỗi này vĩ đại vì cớ những
ơn phước gồm trong đó
Để đặt người mà Ngài cứu rỗi vào địa vị rất cao trọng, Đức Chúa Trời đã làm nhiều việc cho họ và với họ. Đây xin kể ra một vài việc ấy, và sẽ xin giải thích rõ ràng trong những chương sau. Có sự giải cứu khỏi quyền cai trị của quỉ Satan, tức là khỏi quyền phép của sự tối tăm, và sự cứu chuộc khỏi lời rủa sả hoặc án phạt do luật pháp chí thánh của Đức Chúa Trời. Hết thảy vi phạm được tha thứ. Người nào được cứu rỗi, thì được phục hòa với Đức Chúa Trời và được đưa vào tình trạng sống hòa bình với Ngài. Họ được tái sanh bởi Đức Chúa Trời và có sự sống đời đời. Họ được trở nên một thành phần của công cuộc tái tạo trong Đức Chúa Jêsus Christ. Họ được Đức Thánh Linh ngự trị trong mình đời đời, và Ngài cũng đóng ấn cho họ nữa. Vì cớ công đức của Đức Chúa Jêsus Christ, họ được ban cho một địa vị trọn lành trước mặt Đức Chúa Trời; họ được Đức Chúa Trời gìn giữ, săn sóc và cung cấp cho mọi sự cần dùng phần thiêng liêng. Ngài cũng dự bị để giải cứu họ khỏi quyền phép của tội lỗi đang khi sống trên mặt đất nầy. Họ được Con Đức Chúa Trời cầu thay cho và bào chữa cho trước mặt Cha Ngài. Họ có thể bị Đức Chúa Cha sửa phạt. Họ sẽ được giải cứu khỏi sự hư nát và tử diệt. Họ sẽ được nên giống như hình ảnh của Con Đức Chúa Trời, được hiệp một với Đức Cha và Đức Con. Họ sẽ ở trước mặt Đức Chúa Trời, trong sự yêu thương, suốt cả cõi đời đời.
Hết thảy ơn phước nầy gồm trong ơn cứu rỗi mà Đức Chúa Trời dự bị cho loài người trong thời đại nầy, và đem hiến cho họ, chẳng đòi giá cả nào. Những ơn phước nầy lớn lao đến nỗi không ai dò thấu được, song hễ ai chịu nhận lấy, thì được hưởng ngay.
Ơn cứu rỗi vĩ đại này vì dành sẵn cho mọi người
Dầu ơn cứu rỗi chẳng phải là thuần nhất trong mọi thời đại, nhưng dưới hình thức nầy, hoặc hình thức khác, ơn ấy đã được hoàn tất cho cả loài người và được dành cho bất cứ ai. Mấy câu Kinh Thánh dưới đây tỏ ra Đức Chúa Trời ban ơn cứu rỗi cho hết mọi người:
“Kìa, Chiên Con của Đức Chúa Trời, là Đấng cất tội lỗi thế gian đi !” (Giăng 1:29).
“Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời.” (Giăng 3:16).
“Vì Bánh của Đức Chúa Trời là Bánh[2] từ trời xuống, ban sự sống cho thế gian.” (Giăng 6:33).
“Còn ta, nếu Ta được treo lên khỏi đất (trên Thập tự giá), Ta sẽ hấp dẫn mọi người đến cùng Ta.” (Giăng 12:32).
“Bởi chỉ một việc công nghĩa (của Đức Chúa Jêsus Christ) mà mọi người đều được xưng nghĩa[3] để được sự sống cũng thể ấy.” (Rôma 5:18)
“Đức Chúa Trời vốn ở trong Đấng Christ (trên Thập tự giá), khiến cho thế gian hòa lại với Ngài, chẳng kể cho họ sự quá phạm của họ, và đã ủy thác đạo giải hòa cho chúng tôi.” (II Côrinhtô 5:19).
“Đấng muốn cho mọi người đều được cứu và đạt đến sự thông biết lẽ thật.” (I Timôthê 2:4).
“Đấng ấy đã phó chính mình là giá chuộc mọi người.” (I Timôthê 2:6).
“Chúng ta … đã đặt hi vọng ta nơi Đức Chúa Trời hằng sống, là Cứu Chúa của mọi người, nhứt là của kẻ tin” (I Timôthê 4:10).
“Vì ân điển Đức Chúa Trời đem sự cứu rỗi cho mọi người đã được bày tỏ ra rồi.” (Tít 2:11).
“Đức Chúa Jêsus … vì đã chịu khổ sở của sự chết, nên được đội mão miện vinh hiển, tôn trọng, hầu cho bởi ân điển của Đức Chúa Trời mà Ngài vì mọi người phải nếm sự chết.” (Hêbơrơ 2:9).
“Ngài vì chúng ta mà làm Tế lễ vãn hồi, chẳng những vì tội lỗi chúng ta thôi đâu, mà cũng vì tội lỗi thế gian nữa.” (I Giăng 2:2).
“Chúng ta đã thấy và làm chứng rằng Cha đã sai Con làm Cứu Chúa của thế gian.” (I Giăng 4:14).
Hết thảy những câu Kinh Thánh trên đây dạy rằng ơn cứu rỗi dành cho mọi người. Tuy nhiên, những câu ấy không dạy rằng mọi người sẽ được cứu rỗi. Buồn thay, người ta có thể chối bỏ và thậm chí xao lãng ơn cứu rỗi lớn lao nầy để bị hư mất đời đời (xem chương thứ 29) !
Ơn cứu rỗi này vĩ đại vì điều kiện phải
có để hoàn thành nó
Ta cũng thấy ơn cứu rỗi nầy lớn lao một khi so sánh việc Ngài đã làm để tạo nên vũ trụ với việc Ngài đã làm để cứu loài người. Khi Đức Chúa Trời dựng nên trời đất, thì Ngài chỉ phán, bèn có trời đất. Kinh Thánh chép rằng:
“Các từng trời được làm nên bởi lời Đức Giê-hô-va, các cơ binh trời bởi hơi thở của miệng Ngài mà có.” (Thi thiên 33:6).
Lại rằng: “Từ thái cổ, bởi lời Đức Chúa Trời mà đã có các từng trời và trái đất từ nước mà ra và do nước mà nên.” (II Phierơ 3:5).
Trong đoạn 1, sách Sáng thế ký, bảy lần có chép lời nầy hoặc lời tương đương: “Đức Chúa Trời phán rằng: Phải có…” và trong mỗi trường hợp, vật Ngài truyền phải có liền có.
Đức Chúa Trời chẳng những dựng nên trời đất bởi “lời quyền năng mình,” (Hêbơrơ 1:3) song Ngài cũng, “nâng đỡ muôn vật” (Hêbơrơ 1:3) bởi cùng một quyền năng ấy. Quyền năng của Lời Đức Chúa Trời nâng đỡ mọi vật mà người ta thấy được trên mặt đất, mọi loài sanh vật ở trên đó, mọi năng lực của thiên nhiên, và mọi vì tinh tú trên trời đang vận hành theo đường riêng. Mọi vật đó phản chiếu sức toàn năng của Ngài.
Nhưng chúng tôi xin nói lời nầy rất cung kính: Đức Chúa Trời không thể chỉ dùng “lời quyền năng mình” mà thực hiện được ơn cứu rỗi loài người. Quả thật rằng người ta được tái sanh “bởi giống chẳng hay hư nát, là bởi Lời Đức Chúa Trời, là Lời vẫn sống và còn lại đời đời.” (I Phierơ 1:23) Nhưng điều nầy chỉ thực hiện được nhờ hành động hi sinh vô biên của Đức Chúa Trời do lòng yêu thương của Ngài thúc giục.
Tại sao hành động hi sinh đó của Đức Chúa Trời lại cần thiết, và hành động đó có hiệu quả thể nào? Chúng ta sẽ tỉ mỉ suy xét điểm nầy ở chương thứ 7. Ở đây, chúng ta xin ghi nhắc rằng ngoài hành động hi sinh ấy, Đức Chúa Trời không thể nào cứu rỗi loài người, dầu bởi sức toàn năng của Ngài cũng vậy. Trong mấy câu Kinh Thánh dưới đây, xin hãy nhận thấy những điểm nầy: Công ơn cứu rỗi thực hiện được là do điều kiện Đức Chúa Trời ban Con một của Ngài, và sự chết của Con Ngài đã được nhấn mạnh.
“Vì Đức Chúa Trời thương yêu thế gian đến nỗi đã ban Con độc sanh của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất, nhưng được sự sống đời đời.” (Giăng 3:16) Nếu chẳng nhờ Đức Chúa Trời “ban Con một của Ngài”, thì loài người phải hư mất và không nhận được sự sống đời đời.
“Vì con cái có phần trong huyết và thịt thể nào, thì chính Ngài cũng có phần vào đó thể ấy, hầu cho nhờ sự chết mà Ngài có thể diệt trừ kẻ cầm quyền[4] sự chết, là ma quỷ, và để giải phóng mọi người vì sợ sự chết mà bị khuất phục dưới ách tôi mọi trọn đời.” (Hê-bơ-rơ 2:14, 15). Chính là nhờ sự chết của Đức Chúa Jêsus Christ mà các công việc của ma quỷ bị hủy phá, và loài người được giải thoát khỏi sự chết. “18 Vả, Đấng Christ cũng vì tội lỗi chịu chết một lần, là Đấng công bình thay cho kẻ không công bình, để dẫn chúng ta đến cùng Đức Chúa Trời; về phần xác thịt thì Ngài đã chịu chết, nhưng về phần linh hồn thì được sống.” (I Phierơ 3:18).
“Đức Chúa Trời đã khiến cho Đấng vốn chẳng biết tội lỗi trở nên tội lỗi vì chúng ta, hầu cho chúng ta ở trong Ngài được trở nên sự công nghĩa của Đức Chúa Trời.” (II Côrinhtô 5:21).
Chỉ khi nào tội lỗi của loài người được kể là của Đấng Christ và được đền bồi bởi sự chết của Ngài, thì Đức Chúa Trời mới có thể kể tội nhân là công bình.
“Đấng Christ đã chuộc chúng ta khỏi sự rủa sả của luật pháp, bởi Ngài đã vì chúng ta mà trở nên sự rủa sả, hầu cho chúng ta cậy đức tin mà nhận lãnh Đấng đã hứa, là Thánh Linh.” (Galati 3:13,14) Đấng Christ “đã nên sự rủa sả” vì cớ loài người, đó là điều kiện để chúng ta nhận được Đức Thánh Linh bởi đức tin.
“Đấng đã phó mình vì chúng ta, để chuộc chúng ta khỏi mọi tội ác, và vì mình mà tẩy sạch một dân thuộc riêng về mình, sốt sắng về việc lành.” (Tít 2:14). Nếu không nhờ sự chết của Đấng Christ, thì không ai có thể làm việc lành cho vừa lòng Đức Chúa Trời.
“Bởi sự vâng phục của một Người (Đức Chúa Jêsus Christ) mà mọi người đều sẽ trở nên sự công nghĩa cũng thể ấy.” (Rôma 5:19). Sự vâng phục của Ngài đã được diễn tả như sau đây: “Ngài vốn có hình thể Đức Chúa Trời, song chẳng coi sự bình đẳng với Đức Chúa Trời là sự đoạt lấy; trái lại, Ngài tự làm cho mình trống không, lấy hình thể đầy tớ, trở nên giống như hình trạng loài người. Ngài đã có mạo dạng như một người rồi, bèn hạ mình xuống vâng phục đến chết, thậm chí chết trên Thập tự giá.” (Philip 2:6-8).
Bằng những danh từ không thể nào hiểu sai, mấy câu Kinh Thánh trên đây tuyên bố rằng nếu Con Đức Chúa Trời không phó mạng sống, thì không thể nào hoàn thành ơn cứu rỗi được.
Từ địa vị cao quý của Ngài trong nơi vinh hiển, Con Đức Chúa Trời đã cất tiếng phán, thì liền có trời đất. Nhưng khi phải cứu rỗi loài người loạn nghịch và hư mất, thì Đấng đã tạo nên vị trí bèn bỏ địa vị của Ngài trong nơi vinh hiển, mang lấy hình người tội lỗi, phó mạng sống trên Thập tự giá núi Gô-gô-tha, để giải thoát họ khỏi quyền lực của quỉ Satan và cứu chuộc họ khỏi sự rủa sả (án phạt) vì đã vi phạm Luật pháp của Đức Chúa Trời. Nhờ vậy, Đức Chúa Trời có thể lấy ân điển mà cứu rỗi loài người và dẫn đưa họ về cùng Ngài.
Nếu không có lòng yêu thương vô biên của Đức Chúa Trời đã tỏ ra trong sự chết của Con Ngài, thì không thể nào có ơn cứu rỗi.
Ơn cứu rỗi thực hiện chẳng những bởi lòng yêu thương của Đức Chúa Trời tỏ ra khi ban Con Ngài, song cũng bởi quyền phép của Ngài nữa. Khi viết thơ cho tín đồ ở thành phố Ê-phê-sô, Sứ đồ Phaolô nói rằng Đức Chúa Trời vận dụng quyền phép để giúp đỡ mọi kẻ tin. Quyền phép nầy cũng chính là quyền phép mà Ngài vận dụng “khi khiến Đấng ấy từ kẻ chết sống lại, và làm cho ngồi bên hữu mình trên trời, vượt qua cả các bậc chấp chánh, quyền bính, thế lực, chủ trị, và mọi danh xưng, chẳng những trong đời nầy thôi đâu, mà cũng trong đời hầu đến nữa.” (Êphêsô 1:20,21). Không có đoạn này khác mô tả quyền phép của Đức Chúa Trời một cách kỳ diệu hơn đoạn nầy.
Không phải cái gì kém, nhưng chính là “sự cứu rỗi lớn dường ấy” đã đòi hỏi sự hết của Con Đức Chúa Trời và đang đòi hỏi sự hoàn toàn vận dùng quyền phép vô biên của Đức Chúa Trời để thực hiện nó.
CHƯƠNG 3: ƠN CỨU RỖI VĨ ĐẠI SO SÁNH VỚI CÔNG CUỘC SÁNG TẠO
Đ
ANG khi còn ở trong thân thể hay chết nầy, người ta không thể nào hiểu biết đầy trọn tánh chất trọng đại của ơn cứu rỗi; nhưng nếu so sánh nó hoặc đối chiếu nó với công cuộc sáng tạo, thì có thể thấy tánh chất trọng đại của nó một phần nào. Ơn cứu rỗi và công cuộc sáng tạo đều là công tác của Đức Chúa Trời, và của một mình Ngài mà thôi.
“Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời đất.”[5] Như vậy, Đức Chúa Trời tạo nên mọi thể chất và mọi năng lực.
“Các từng trời là công việc của ngón tay Chúa, mặt trăng và các ngôi sao” do “Chúa đã đặt.”[6] Câu nầy chẳng những gồm các vì tinh tú mà mắt trần của loài người thấy được, song cũng gồm các vì tinh tú ở ngoài tầm của kính viễn vọng mạnh nhứt. Loài người không sao hiểu thấu vũ trụ rộng lớn chừng nào.
Đoạn, chúng ta hãy xem xét trái đất, có những núi đá, khoáng chất và những thời kỳ quá khứ ghi rõ ở các vật hóa thạch. Tại đó, có nhiều bửu thạch, như kim cương, hồng ngọc, lam ngọc, bích ngọc, - mỗi loại có vẻ đẹp riêng, hấp dẫn loài người. Rồi có cẩm thạch, hoa cương thạch, sa thạch, đá vôi, đá đen, mà loài người dùng để xây nhà ở, nhà thờ, nơi du hí và sở kinh doanh. Từ trong lòng đất, người ta lấy ra những khoáng thạch và cả khoáng chất tinh túy, tỉ như quặng vàng và đồng. Bằng những phương thức nấu chảy và luyện lọc, người ta sản xuất kim khí dùng làm “xương sống” của những cơ sở kỹ nghệ và kiến thiết vĩ đại. Còn đất ruộng một khi được gieo giống và chịu ảnh hưởng của chất ẩm ướt cùng ánh sáng mặt trời, thì sanh thực phẩm cho cả loài người và súc vật.
Một cách lặng lẽ mà hùng hồn, các vật hóa thạch kể lại truyện tích những thời đại tiền sử, khi ấy nhiều loài quái vật khổng lồ đi dọc, ngang trên các khu rừng nguyên thủy. Với lớp nầy chồng lên lớp kia, nhiều khu rừng vẫn còn nguyên những thân cây to lớn, có đá cứng gần như kim cương bao bọc. Các lớp than tuyên bố với loài người rằng từ bao nhiều đời trước, trên mặt đất nầy đã có những rừng rậm xanh tốt của miền nhiệt đới.
Tất cả núi đá và khoáng chất nầy có những tánh chất riêng, và loài nào cũng cứ y nguyên mãi, không thay đổi. Hết thảy phải theo những công lệ bất di dịch và khả dĩ xác định của hóa học và vật lý học. Nhiều công lệ nầy đã được loài người hiểu biết từ lâu đời, còn nhiều công lệ khác thường được khám phá luôn. Đây xin mở một dấu ngoặc: Có lẽ người ta hỏi rằng mỗi loài kim khí và khoáng chất làm thể nào mà có được những đặc tánh riêng biệt như vậy? Cái gì đã làm cho mỗi loài kim khí có bành trướng suất[7], tỷ trọng[8], dùng giải điểm[9], (5) tánh chất cứng hoặc mềm, không vỡ hoặc dễ vỡ, không uốn được hoặc dễ uốn? Mọi điểm đó bất di dịch và khả dĩ xác định.
Người theo thuyết tấn hóa thử giải thích những đặc tánh và tập quán của sự sống thực vật và động vật bằng cách quả quyết rằng có các cuộc biến cải tình cờ từ thế hệ nầy đến thế hệ kia, trải qua bao nhiêu ngàn thế hệ. Công lệ của vật lý học và hóa học cũng phức tạp như công lệ của sự sống thực vật và động vật. Các đặc tánh của vật vô cơ cũng tinh vi như các đặc tánh của vật chất hữu cơ. Nhưng chẳng có thế hệ nào sanh ra các cuộc biến cải trong giới vô cơ. Quặng, vàng, bạc, đồng, sắt, chì và cẩm thạch, hoa cương thạch cũng lâu đời như chính núi non. Vậy, những đặc tánh và công lệ bất di dịch nầy phát xuất từ đâu? Chỉ có một câu đáp lại: Trong công việc sáng tạo, Đức Chúa Trời đã làm ra mỗi một nguyên tố có những đặc tánh bất di dịch, và bắt nó phục theo những công lệ hóa hoặc và vật lý họ bất di dịch.
Người ta có thể dò xét những bí mật của địa chất học và khám phá được nhiều điều, nhưng môn học nầy bao la quá đến nỗi vẫn còn những điều phải học.
Cũng hãy theo cách đó mà xem xét sự sống thực vật. Nó tỏ rõ quyền năng sáng tạo của Đức Chúa Trời là dường nào ! Những khu rừng bát ngát trên bờ Thái Bình Dương đã có từ bao nhiêu thế kỷ. Cây tùng, cây thông ở phương Bắc, cây chà là ở phương Nam, và mọi loài cây khác phục sự loài người theo cách riêng của chúng, và bao giờ cũng y nguyên, vì trong chúng có một công lệ sanh tồn bất di dịch. Cũng một thể ấy, những loài cỏ sanh ngũ cốc, loài cây có rễ nuôi sống người ta, và loài rau dùng làm thực phẩm, đều đã được Đấng Tạo Hóa ban cho các đặc tánh riêng. Lại còn những cây sanh hoa làm cho đời người đẹp đẽ, tỉ như bông hường, bông huệ. Mỗi cây có một chỗ sanh trưởng riêng; cây địa y (rêu) mọc trên vầng đá cứng, cây tầm gởi mọc trên những nhánh cây cao ngất, cây độc cần (cigue) mọc ở bóng râm mát nhứt, cây đan sâm (sauge) mọc ở sa mạc, ngũ cốc mọc ở đất ruộng phì nhiêu và dưới ánh sáng mặt trời gay gắt, cây sen và cây hoa diên vỹ mọc ở chỗ nước cạn, cây rong mọc ở lòng biển.
Phải có sự sống thực vật là một phân loài chánh yếu trong công trình sáng tạo của Đức Chúa Trời, mà loài người có thể nghiên cứu và hiểu biết; nhưng nó bao la quá, đến nỗi sau gần sáu ngàn năm có loài người sống trên mặt đất, vẫn còn nhiều điều cho các thế hệ tương lai học hỏi.
Về giới sinh vật cũng vậy, từ côn trùng nhỏ nhứt không có xương sống cho đến những thú vật lớn nhứt thuộc loài có vú, như con voi và cá voi, đều đáng được ta nghiên cứu. Hết thảy do Đức Chúa Trời làm nên “tùy theo loại,” (Sáng thế ký 1:21) hoặc chim bay trên không khí, cá ở dưới biển, hay là thú vật đi hoặc bò trên mặt đất cũng vậy. Đức Chúa Trời cũng ban sự sống cho chúng, nhưng sự sống động vật cao hơn sự sống ban cho thực vật. Chúng có thể đi đây, đó hết thảy, hoặc trên không khí, hoặc dưới nước, hoặc trên mặt đất. Mỗi thú vật có những đặc tánh riêng, những trực giác và tập quán sanh hoạt bất di dịch, lại hoàn toàn thích ứng với hoàn cảnh của nó. Người ta đã viết nhiều sách động vật học, bày đầy trong thư viện, nhưng vẫn còn nhiều điều phải học hỏi, và hằng năm vẫn khám phá được nhiều điều mới lạ. Nhưng đó cũng chỉ là một phần nhỏ trong công cuộc sáng tạo của Đức Chúa Trời.
Loài người là công trình sáng tạo cao tột của Đức Chúa Trời. “Đức Chúa Trời dựng nên loài người” (Sáng thế ký 1:27) theo như hình ảnh Ngài, “và hà sanh khí vào” họ (Sáng thế ký 2:7). Ngài ban cho họ khả năng sanh sản và được quyền trị phục mặt đất. Ngài cũng ban cho họ quyền cai trị cá biển, chim trời, và mọi vật cử động trên mặt đất (Sáng thế ký 1:16-30).
Đức Chúa Trời ban cho loài người có trí khôn và lý trí, nên họ có thể dò biết nhiều bí mật của công trình sáng tạo, và hằng ngày vẫn dò biết thêm. Người ta đã học biết lấy than từ trong lòng đất, và đốt lửa dưới nồi súp-đe đổ đầy nước để kéo những đoàn xe lửa. Họ bơm dầu nguyên chất từ trong lòng đất lên, rồi lọc và dùng cho phi cơ bay trên trời hàng mấy trăm cây số một giờ. Bằng cách dùng máy phát thanh và máy thâu thanh, người ta nói được qua từng không khí, và những người ở Hoa Thịnh Đốn, Luân-Đôn, Ba-Lê, Sài Gòn, có thể nói chuyện với nhau dường như cùng đang ở trong một căn phòng vậy. Người ta dùng quang tuyến X để xem xét xương của kẻ khác. Qua kính viễn vọng, họ nhìn xem mặt trăng và các ngôi sao. Họ xác định tốc độ của ánh sáng, cùng tốc độc mặt trời và mặt trăng vận hành trong quĩ đạo của chúng. Họ cũng tìm thấy cách trái đất vận hành, và nhờ tất cả những khảo cứ (donnees) đó, họ có thể nói trước nhiều năm và nhiều thế kỷ, không sai một dây, rằng bao giờ sẽ có nhật thực hoặc nguyệt thực, toàn thể hoặc một phần, và thấy được ở miền nào trên mặt đất. Trên đây là một vài tỷ dụ tỏ ra loài người có thể làm gì. Ta có thể trưng dẫn rất nhiều tỷ dụ như vậy.
Tại sao người ta làm được mọi việc nầy? Vì Đức Chúa Trời đã ban cho họ có trí khôn, và vì cớ những công lệ bất di dịch của vĩ trụ vẫn nói lên một trí tuệ sáng tạo, do đó cũng nói lên có Đức Chúa Trời ở sau những công lệ ấy. Đấng tạo nên trời đất và ấn định những công lệ cho muôn vật thọ tạo của Ngài, cũng đã tạo nên loài người có trí khôn để hiểu biết những công lệ ấy và có khả năng để trị phục trái đất. (Sáng thế ký 1:26-30).
Không gian đã cho ta ghi nhận được một ít kỳ quan trong vũ trụ. Ta không thể nào thấu triệt đề mục nầy; nhưng mọi điều ta đã hiểu biết và mọi điều có thể thêm vào vẫn không sao so sánh được với đề mục cứu rỗi về mức quan trọng.
Người ta đã trị phục được các vật sáng tạo và đã dùng nó một cách kỳ diệu để làm ích cho mình (và cũng để làm tội ác nữa); đó là chứng cớ tỏ ra trí tuệ loài người có thể dò xét những bí mật của vũ trụ tới một mức độ lớn lao. Song loài người không thể dùng trí tuệ mình mà dò xét những bí mật của ơn cứu rỗi. Những bí mật ấy phải được khải thị cho loài người bởi Thánh Linh Đức Chúa Trời. Có lời chép rằng: “Điều mắt chưa thấy, tai chưa nghe, và lòng người chưa từng nghĩ đến, thì Đức Chúa Trời đã dự bị cho những kẻ thương yêu Ngài. Nhưng Đức Chúa Trời đã nhờ Thánh Linh bài tỏ những sự đó cho chúng ta, vì Thánh Linh dò xét mọi sự, cả đến sâu nhiệm của Đức Chúa Trời nữa.” (I Côrinhtô 2:9-10).
Những vật thọ tạo dầu vĩ đại chừng nào, cũng vẫn làm hữu hạn. Loài người có thể dùng mực thước của mình mà đo lường nó. Họ mua vàng tính theo phân, lượng, và mua kim cương tính theo “ca-ra”. Than và thép tính theo tấn. Ruộng bán từng mẫu tây, và đất ở thành thị bán theo thước vuông. Gỗ bán theo thước khối, sữa và dầu xăng tính bằng lít. Lộ phí trên lục địa, biển hoặc trên không, tính theo khoảng bao nhiêu cây số sẽ đi. Biển có bề xây, núi có bề cao, còn đồng bằng bát ngát thì có bề rộng. Mưa rơi tính theo ly, còn nhiệt độ lên, xuống tính theo độ. Nhiệt độ chứa trong than cũng tính được. Điện bán theo số Kilowatt – giờ. Tốc độ tính theo thước hoặc cây số, từng giây, từng phút, hoặc từng giờ. Ánh sáng đi mỗi giây được chừng 300.000 cây số. Khoảng cách của các ngôi sao thì tính theo năm ánh sáng, và một vài ngôi sao cách xa chúng ta tới 1.000 năm ánh sáng. Khoảng cách nầy tính phỏng chừng là: 10.000.000.000.000.000 (mười triệu tỷ) cây số. Dầu khoảng cách nầy rất lớn, loài người không sao tưởng tượng được, nhưng nó vẫn ở trong vòng hữu hạn, vì họ còn đo lường được.
Có một thời gian định cho đời sống của mọi sanh vật, hoặc là cây cối, súc vật, hay loài người cũng vậy. Có thể là một chốc lát, hoặc mấy giờ, mấy ngày, nấy tuần lễ, mấy tháng, hoặc mấy năm, mấy chục năm, có khi là mấy ngàn năm, như cây cà tùng (siquoia) ở dãy núi Sierra Nevada (nước Mỹ). Nhưng loại nào cũng có lúc bắt đầu và cũng có lúc chắc chắn kết liễu. Cả đến trời cũng có lúc bắt đầu. Kinh Thánh chép rằng: “Ban đầu Đức Chúa Trời dựng lên trời đất” (Sáng thế ký 1:1). Nhưng ơn cứu rỗi là “theo chỉ định đời đời mà Ngài đã định.” (Êphêsô 3:11). Đức Chúa Trời hứa ơn cứu rỗi “từ trước muôn đời,” (Tít 1:2) tức là trước khi có thế gian nầy, và “đã ban cho chúng ta trong Đức Chúa Jêsus Christ từ trước muôn đời.” (II Timôthê 1:9). Như vậy, ơn cứu rỗi sẽ còn lại sau khi công trình sáng tạo hiện tại qua đi. “Vì các từng trời sẽ tan ra như khói, đất sẽ cũ như áo … nhưng sự cứu rỗi của Ta còn đời đời”(Êsai 51:6).
Vũ trụ hữu hạn. Có thể đo lường nó bằng những dụng cụ do loài người chế tạo, và trí tuệ hữu hạn của loài người có thể hiểu biết nó, mặc dầu không trọn vẹn. Nhưng người ta không thể nào lường biết những sự kiện thuộc trong ơn cứu rỗi. Khi luận về ơn cứu rỗi, Đức Chúa Trời luôn luôn dùng những danh từ hiển nhiên thuộc về cõi vô lượng vô biên. Kinh Thánh chép về “sự cứu rỗi đời đời,”(Hêbơrơ 5:9) và “sự cứu chuộc đời đời” (Hêbơrơ 9:12). Sự sống ban cho những kẻ được cứu rỗi và vinh hiển tương lai cũng còn đến đời đời (Giăng 3:16; I Phierơ 5:10). Khi cứu rỗi loài người, Đức Chúa Trời nhằm mục đích làm cho họ “nên giống như hình ảnh của Con Ngài,” (Rôma 8:29) tức là Con vô hạn vô lượng của Ngài. Sự tha tội là “theo sự giàu có của ân điển Ngài.”(Êphêsô1:7). Tín đồ được kêu gọi đến “hưởng được sự vinh hiển của Chúa chúng ta, là Đức Chúa Jêsus Christ,” (II Têsalônica 2:14) tức là sự vinh hiển của Đấng đã dựng nên vũ trụ (Giăng1:3; Côlôse 1:16). Dầu hiện nay, trên mặt đất nầy, người được cứu rỗi còn ở trong thân thể hay chết và định cho phải hư nát, nhưng Đức Chúa Trời ban cho họ một thân thể không hề chết và không hề hư nát (I Cô-rinh-tô 15:51-54). Thân thể họ sẽ “giống thân thể vinh hiển” (Phi-líp 3:21) của Cứu Chúa Jêsus Christ. Không thể nào mô tả ơn cứu rỗi nếu không dùng những danh từ vô hạn vô lượng nầy, - tức là những danh từ ứng dụng riêng cho Đức Chúa Trời.
Khi loài người ở địa vị vô tội nguyên thủy, Đức Chúa Trời đã ban cho họ quyền cai trị trái đất và mọi vật ở trên đó. Còn những kẻ thuộc trong loài người sa ngã, nhưng bằng lòng nhận lấy như một ân tứ vô điều kiện, thì Ngài ban cho họ ơn cứu rỗi vô lượng vô biên, và đặt họ vào địa vị bội phần cao quí hơn bất cứ cái gì khác trong vũ trụ (Êphêsô 1:20-22; 2:6). Ơn cứu rỗi lớn dường ấy đáng được loài người để tâm suy xét.
CHƯƠNG 4: ƠN CỨU RỖI VĨ ĐẠI VÌ ĐỐI CHIẾU VỚI TỘI LỖI
N
ẾU đem đối chiếu với tội lỗi kinh khiếp dường nào, thì chúng ta sẽ thấy rõ ơn cứu rỗi là kỳ diệu và vĩ đại dường nào.
Tội lỗi phát nguyên ở trên trời. Lu-xi-phe, con trai của ban mai, vị thiên sứ trưởng được đặt trên Núi Thánh của Đức Chúa Trời, có vẻ là một loài thọ tạo trọng đại hơn hết và gần gũi Ngài hơn hết. Dầu là do Đức Chúa Trời sáng tạo, nhưng nó không chịu thần phục Ngài. Nó loạn nghịch cùng Đức Chúa Trời và nói rằng: “Ta sẽ bằng Đấng Rất Cao.” (Êsai 14: 13-14; Êxêchiên 28:14, 15).
Có nhiều điều chứng minh cho ý tưởng rằng kết quả do tội lỗi của Lu-xi-phe là trái đất, rõ ràng là lãnh vực nó, đã trải qua một cuộc đảo lộn lớn lao; vậy nên sáu ngày sáng tạo thật ra chỉ là sáu ngày tái tạo trái đất đã có từ lâu đời về trước. Nhằm ngày thứ sáu, Đức Chúa Trời dựng nên người (Sáng thế ký 1:26-27), là một loài hoàn toàn mới mẻ, trước kia chưa có. Ngài dựng nên người nam, người nữ, và ban cho họ quyền cai trị trái đất đã tái tạo, thay thế cho Lu-xi-phe.
Loài người được dựng nên theo hình ảnh Đức Chúa Trời (Sáng thế ký 2:7) là trọn lành; nhưng Lu-xi-phe, mượn hình con rắn, đến cùng loài thọ tạo mới của Đức Chúa Trời và khiến họ cũng phạm tội như nó.
Bổn chất của tội lỗi
Muốn hiểu tội lỗi khủng khiếp dường nào, cần phải thấy bổn chất nó là gì, tức là cái gì ở sau mọi cách phát hiện bên ngoài của tội lỗi.
Trên kia đã nói rằng Đức Chúa Trời dựng nên người. Dựng nên nghĩa là đem ra từ chỗ không –không. Đức Chúa Trời lấy bụi đất nắn nên hình người (Sáng thế ký 2:7), còn tất cả cái gì ở trong người ta cao trọng hơn bụi đất, thì đã đem ra từ chỗ không-không. Như vậy, người ta là gì và có gì, đều do Đức Chúa Trời cả. Họ nhờ Đức Chúa Trời mà có mọi sự.
Đấng có thể đem người ra từ chỗ không-không, thì nếu cần, cũng có thể đem mọi sự người cần có ra từ chỗ không-không. Vậy, Ngài có thể cung cấp mọi sự người cần dùng. Bằng cách dự bị một khu vườn cho họ, Đức Chúa Trời tỏ ra Ngài có ý định săn sóc tới mọi nhu cầu của họ. Do đó, thái độ chánh đáng duy nhất của người, là loài thọ tạo, đối với Đức Chúa Trời, Đấng tạo nên mình, chính là phải hoàn toàn tùy thuộc và đầu phục Ngài. Nhưng người đã sớm bỏ thái độ hoàn toàn tùy thuộc Đức Chúa Trời, và đó là khởi điểm truyện tích dai dẳng, khủng khiếp về tội lỗi của họ.
Truyện tích người trái phạm lần thứ nhứt, do đó tội lỗi vào trong nhân loại (Rôma 5:12), được chép ở bảy câu đầu đoạn 3, sách Sáng thế ký. Con rắn, tức là quỉ Satan (Khải thị 12:9 và 20:2) nói với người nữ rằng: “Mà chi! Đức Chúa Trời há có phán dặn cá ngươi không được phép ăn trái các cây trong vườn sao?”(Sáng thế ký 3:1). Trong câu hỏi nầy, nó ngầm gieo ý nghi ngờ lòng nhân lành của Đức Chúa Trời vẫn săn sóc người ta. Đức Chúa Trời truyền cho loài người chớ ăn trái “cây biết điều thiện và điều ác.” (Sáng thế ký 2:17). Satan ngụ ý nói rằng Đức Chúa Trời làm như vậy, tức là Ngài ngăn cản không cho người hưởng một phước lành nào đó.
Câu hỏi trên đây nhằm mục đích phá tan sự tin cậy và tùy thuộc hoàn toàn của loài người nơi Đấng tạo nên họ. Và nó thật đã thành công như vậy. Thay vì tin cậy Đức Chúa Trời, người nữ bắt đầu lý luận về mạng lịnh của Ngài. Bà thêm lời nầy vào đó: “Và cũng chẳng nên đá động đến.” (Sáng thế ký 3:3). Lời thêm đó làm cho mạng lịnh của Đức Chúa Trời có vẻ vô lý. Bà không còn tuyệt đối tin lời Ngài phán nữa. Bà đứng trên nền tảng lý trí, chớ không đứng trên nền tảng đức tin. Bà tự trông vào mình để được dắt dẫn. Khi người ta lý luận về hiệu lực của Lời Đức Chúa Trời, thì bao giờ cũng có kết quả như vậy.
Con rắn chỉ cần nói thêm một lời xui giục nữa. Trái với lời tuyên bố của Đức Chúa Trời, nó nói rằng ngày họ ăn trái cây ấy, thì chẳng chết đâu, nhưng “sẽ như Đức Chúa Trời, biết điều thiện và điều ác.” (Sáng thế ký 3:5). Bà không thể chống lại lòng ước mong được như Đức Chúa Trời, không cần phải tùy thuộc Ngài nữa. Bà “bèn ái ăn, rồi trao cho chồng đứng gần mình cũng ăn nữa.” (Sáng thế ký 3:6). Bởi hành động đơn giản ấy, loài thọ tạo đã chống nghịch Đức Chúa Trời và lìa khỏi địa vị tùy thuộc Ngài. Do hành động ấy, họ tỏ ý mong ước sống một đời sống độc lập đối với Đấng tạo hóa mình. Cảm thấy mình có thể không cần Đức Chúa Trời, hoặc chẳng cảm thấy mình cần Đức Chúa Trời, và sống mà không tôn trọng Đức Chúa Trời, ấy là tội lỗi đó. Thật có như vậy, dầu cho người ta thuộc hạng lỗi nào và ở mức đạo đức cao nhất, hay là một kẻ có tâm linh hèn thấp. Hành vi thiện hảo của một cá nhân chẳng phải là yếu tố quyết định đâu. Thái độ đối với Đức Chúa Trời mới đáng kể chấm. Vậy, yếu tố của tội lỗi là loài thọ tạo loại trừ Đức Chúa Trời và chiếm lấy địa vị của Ngài.
Tùy thuộc bản ngã, chớ không chịu tùy thuộc một mình Đức Chúa Trời, là không chịu tôn trọng và tôn vinh Ngài cho xứng với địa vị Ngài là Đức Chúa Trời. Kết quả là người ta lấy chính mình và công việc mình làm tự đắc. Hoàng đến Nêbucátnếtxa là một tỷ dụ về tinh thần tự tôn vinh đó. Ngày kia, đang khi dạo chơi trong cung điện, ông nói rằng: “Đây chẳng phải là Babylôn lớn mà ta đã dựng, bởi quyền cao cả ta, để làm đế đô ta, và làm sự vinh hiển, oai nghi của ta sao?” (Đaniên 4: 30). Kể từ khi loài người phạm tội thứ nhứt, thì họ luôn luôn có tinh thần lấy công nghiệp của mình làm tự đắc, và không chịu nhìn nhận rằng mình là gì, có gì, có thể làm gì, là nhờ Đức Chúa Trời mà được.
Không chịu hoàn toàn tùy thuộc vào Đức Chúa Trời cũng là chối bỏ. Không để ý chỉ Ngài cai trị đời mình, và lấy ý muốn của mình thay thế vào ấy chính là nương cậy vào sự khôn ngoan của mình.
Vậy, yếu tố của tội lỗi chính là độc lập đối với Đức Chúa Trời và tùy thuộc bản ngã. Tội lỗi phát hiện ở chỗ không tôn vinh Đức Chúa Trời, nhưng tôn vinh bản ngã. Người ta sống theo ý muốn của mình, chớ không chịu để ý chỉ của Đức Chúa Trời dắt dẫn mình.
Tội lỗi phát hiện bên ngoài
Tội lỗi đầu tiên là một hành động không vâng lời và ăn cắp, vì loài người hái lấy vật chẳng phải của mình; nhưng đó chỉ là sự phát hiện bên ngoài của thái độ mới mẻ độc lập đối với Đức Chúa Trời. Như vậy, mọi hành động gọi là tội lỗi chỉ là sự phát hiện và chứng cớ của bổn tánh bên trong độc lập đối với Đức Chúa Trời.
Sứ đồ Phaolô giải luận rõ ràng rằng mọi thứ tội lỗi là do loài người không giữ thái độ thích đáng đối với Đức Chúa Trời. Ông tố cáo loài người tội lỗi như sau đây: “Vì họ dẫu biết Đức Chúa Trời, mà chẳng tôn vinh Ngài là Đức Chúa Trời, cũng chẳng cảm tạ Ngài, nhưng tư nghị của họ trở nên hư không, và lòng vô tri của họ ra tối tăm. Họ tự xưng mình là không ngoan, mà trở nên ngu dại… Vì họ không chịu nhận biết Đức Chúa Trời, nên Đức Chúa Trời để mặc họ bị tâm trí vô dụng để làm những điều trái lẽ. Họ đầy dẫy mọi sự bất nghĩa, gian ác, tham lam, hiểm độc, ghen ghét, tàn sát, tranh cạnh, quỉ quyệt, ác ý, nói chùng, nói gièm, thù ghét Đức Chúa Trời, xấc xược, kiêu ngạo, vênh vang, hay gây ác, bội nghịch cha mẹ, vô tri, bội ước, không thân tình, không thương xót. Dầu họ biết rõ sự phán đoán của Đức Chúa Trời định rằng những kẻ làm các điều dường ấy là đáng chết, thế mà chẳng những họ tự làm thôi đâu, lại cũng vui lòng cho những kẻ khác làm các điều ấy nữa.” (Rôma 1: 21,22, 28-30). Đây là một loạt tội lỗi kinh khiếp, song cũng chỉ là những sự phát hiện bên ngoài một khi loài người không giữ thái độ thích đáng, là hoàn toàn tùy thuộc Đức Chúa Trời để tôn vinh Đấng Tạo Hóa mình và luôn luôn phục theo ý chỉ Ngài.
Có một lời giải thích tội lỗi đã xác nhận lời giải thích tánh chất của tội lỗi trên đây. Ấy là: “Phàm điều gì không bởi đức tin, đều là tội lỗi.” (Rôma 14:23). Đức tin có nghĩa là tùy thuộc Đức Chúa Trời. Như vậy, bất cứ cái gì không tùy thuộc Đức Chúa Trời đều là tội lỗi. Theo mực thước nầy, thì cả đến những điều dường như tốt lành cũng có thể là tội lỗi. Nghĩ như vậy là sai lầm. Thành trì kiên cố nhứt của tội lỗi chẳng phải là hang hố tội lỗi đâu, nhưng là nơi có sự công bình riêng. Trong hang hố tội lỗi vẫn có thể có sự cảm biết mình cần Đức Chúa Trời và tùy thuộc Ngài càng sâu xa hơn. Nhưng người cậy sự công bình riêng, thì không cảm thấy mình cần Đức Chúa Trời như vậy. Họ tự lấy mình làm đầy đủ; họ chỉ tùy thuộc[10] mình, nên xa cách Đức Chúa Trời, mặc dầu có lẽ họ có văn hóa, sự phong nhã và đạo đức rất cao.
Đức Chúa Jêsus phán cùng các thầy tế lễ cả và trưởng lão của dân Do Thái rằng: “Bọn thâu thuế và phường kỵ nữ vào Nước Đức Chúa Trời trước các ngươi.” (Mathiơ 21: 31).
Người ta bẩm sanh là tội nhân
Trong vấn đề tội lỗi, có một khía cạnh khác thường không được người ta hiểu rõ; ấy là người ta bẩm sanh là tội nhân. Sau khi Ađam phạm tội, ông không còn nguyên là thân vị như khi mới được dựng nên nữa. Vì phạm tội, ông đã trở thành tội nhân; còn mọi người khác sanh ra là tội nhân. Khi Ađam được 130 tuổi, thì “sanh một con trai giống như hình tượng[11] mình.” (Sáng thế ký 5:3). Vì lúc đó Ađam là tội nhân, nên con trai nầy sanh ra giống như ông, cũng là tội nhân. Trừ Đức Chúa Jêsus ra, còn thì từ đó tới nay, ai sanh ra cũng là tội nhân. Vua Đa-vít viết rằng: “Kìa, tôi sanh ra trong sự gian ác, mẹ tôi đã hoài thai tôi trong tội lỗi.” (Thi Thiên 51:5). Lời nầy thật đúng cho mọi thành phần của nhân loại, từ Ađam cho tới ngày nay.
Vì có bổn tánh tội lỗi đó, nên loài người không dừng được mà phải phạm tội. Vì cớ ấy, “mọi người đều đã phạm tội, thiếu mất sự vinh hiển của Đức Chúa Trời.” (Rôma 3:23).
Tội lỗi là nghịch cùng Đức Chúa Trời
Sau khi giải luận về tội lỗi như trên đây, thì không cần phải kêu gọi ai chú ý đến cái thực sự rằng tội lỗi trước hết là nghịch cùng Đức Chúa Trời. Sau khi phạm tội nặng nghịch cùng một người bầy tôi của mình, vua Đa-vít đã xưng tội cùng Đức Chúa Trời mà rằng: “Tôi đã phạm tội cùng Chúa, chỉ cùng một mình Chúa thôi.” (Thi Thiên 51:4). Ngày nay, ta hay nhấn mạnh vào những mối liên quan của loài người với xã hội, còn thái độ của họ với Đức Chúa Trời thì ít khi được nhắc đến. Vậy nên rất cần phải nhớ rằng tội lỗi là nghịch cùng Đức Chúa Trời, vì yếu tố của nó là độc lập với Ngài. Trước hết, loài người phải nhận biết điều nầy, và quay về giữ thái độ thích đáng đối với Đức Chúa Trời; khi ấy, các mối liên qua xã hội của họ sẽ đổi ra thíc đáng, cũng như hiệu quả theo sau nguyên nhân vậy.
Những kỳ quan của ơn cứu rỗi
Một khi ta thấy tội lỗi là loài thọ tạo loạn nghịch cùng Đấng Tạo Hóa, là họ mong ước được độc lập đối với Đức Chúa Trời và trở nên giống như chính mình Ngài, được sự vinh hiển đáng thuộc về Đức Chúa Trời, và bất chấp ý chỉ của Ngài, thì tánh chất khủng khiếp của tội lỗi đã hiển nhiên rồi. Ơn cứu rỗi ứng dụng cho vấn đề tội lỗi đó. Sứ đồ Phaolô nói rằng: “Đức Chúa Jêsus Christ đã đến trong thế gian để cứu kẻ có tội, ấy là lời đáng tin, đáng nhận mọi bề.” (I Timôthê 1:15). Chỉ lòng yêu thương vô hạn của Đức Chúa Trời mới nảy ra được ý tưởng trù liệu ơn cứu rỗi người ta, là loài thọ tạo loạn nghịch và giá phải trả là mạng sống của chính Con Ngài.
Nhưng kỳ quan của ơn cứu rỗi càng vĩ đại hơn khi ta nhớ rằng nó khôi phục được những cái gì đã mất vì cớ tội lỗi. Ít ra, như trên kia đã nói, những người được cứu rỗi trong thời kỳ hiện tại sẽ “nên giống như hình ảnh của Con” Đức Chúa Trời (Rôma 8:29). Suốt cõi đời đời, họ sẽ “nên thánh, không chỗ trách được trước mặt Đức Chúa Trời.” (Êphêsô 1:4). Họ được làm một với Đức Cha và Đức Con, cũng như Đức Cha và Đức Con là một vậy (Giăng 17:21). Khi ấy, họ “sẽ như Đức Chúa Trời.” (Sáng thế ký 3:5). Họ sẽ được những gì mà con rắn đã hiến cho loài người, tức là những gì mà khi loạn nghịch cùng Đức Chúa Trời, loài người đã cố gắng tự mình thực hiện. Địa vị của họ ở trước mặt dân tộc sẽ cao trọng hơn cả địa vị của Lu-xi-phe trước khi tội lỗi vào trong lòng nó, vì họ thuộc về đẳng cấp trổi hơn nó vô cùng.
Ơn cứu rỗi tha thứ tội loạn nghịch của loài người, và thực hiện cho họ cái họ luống công thử tự thực hiện cho mình, thì thật đáng họ là “ơn cứu rỗi vĩ đại thay !”
CHƯƠNG 5: ĐƯỢC GIẢI THOÁT KHỎI QUYỀN LỰC TỐI TĂM
K
HI Lu-xi-phe loạn nghịch cùng Đức Chúa Trời và nói rằng nó sẽ dấy lên cao hơn các ngôi sao của Đức Chúa Trời và trở nên giống như Đấng Chí Cao, thì theo sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời (mà loài người khó hiểu biết), nó được phép lập một nước riêng và cầm quyền cai trị ở đó. Có thể gọi nước ấy là một chánh quyền đối lập với chánh quyền của Đức Chúa Trời.
Khi dựng nên loài người, Đức Chúa Trời thêm một loài thọ tạo mới mẻ vào lãnh vực của Ngài. Loài người là thần dân của chánh thể Đức Chúa Trời. Ngài ban cho họ quyền cai trị trái đất đã tái tạo và khắc phục nó. Loài người chỉ ở dưới quyền Đức Chúa Trời mà thôi. Trái đất có thể được coi là một khu trong lãnh vực của Đức Chúa Trời vốn rộng lớn hơn, tức là vũ trụ.
Nhưng loài người chỉ ở địa vị thần phục Đức Chúa Trời ít lâu. Chính họ cũng loạn nghịch, Như ta đã thấy, quỉ Satan khiến họ không vâng theo mạng lịnh Đức Chúa Trời. Bởi hành động duy nhất ấy, loài người tuyên bố mình độc lập đối với Đức Chúa Trời và chỉ tùy thuộc mình thôi. Đó là loạn nghịch cùng chánh quyền của Đức Chúa Trời. Bởi nghe theo quỉ Satan, loài người chịu lấy ảnh hưởng của nó và tự đặt mình dưới quyền cai trị của nó. Họ chuyển từ sự thần phục Đức Chúa Trời qua sự thần phục Satan. Cũng bởi hành động ấy, họ hiến cho Satan trái đất mà mình vẫn cai trị. Từ đó trở đi, loài người trở thành một phần tử của chánh quyền đối lập với Đức Chúa Trời.
Không nghi ngờ chi nữa, Satan đang cai trị các nước thế gian nầy. Khi Đức Chúa Jêsus chịu cám dỗ trong đồng vắng, thì Satan hiến Ngài mọi nước đó cùng vinh quang của mọi nước đó, miễn là Ngài sấp mình xuống thờ lạy nó (Ma-thi-ơ 4:8,9). Đức Chúa Jêsus không phản đối lời Satan tự nhận là chủ các nước thế gian nầy. Chính vì đó mà Sứ đồ Giăng có thể viết rằng: “Cả thế gian đều nằm trong tay ma quỷ.” (I Giăng 5:19).
Đặc điểm đầy tiên của nước Satan là sự giả dối. Đức Chúa Jêsus phán về nó rằng: “Từ ban đầu nó là kẻ giết người, chẳng đứng trong lẽ thật, vì trong nó không có lẽ thật đâu; khi nó nói dối, thì tự mình nó nói, vì nó vốn là kẻ nói dối, cũng là cha của sự ấy.” (Giăng 8:44). Nhờ một lời nói dối mà nó chiếm được sự thần phục của loài người.
Kinh Thánh luôn luôn nói rằng nước nó là cõi tối tăm (Giăng 1:5; Sứ đồ 26:18; II Cô-rinh-tô 4:6; Ê-phê-sô 6:12 và nhiều câu khác nữa). Các công việc của loài người theo tư cách thần dân của nước Satan đều gọi là “công việc không hiệu quả của sự tối tăm.” (Êphêsô 5:11).
Vì là thần dân của nước Satan, nên người ta bị gọi là “con cái bội nghịch” (Êphêsô 2:2) và “con cái của sự thạnh nộ” (Ê-phê-sô 2:3). Họ có danh hiệu ấy vì là con cháu của Ađam, người đã nghe theo Satan mà trái mạng Đức Chúa Trời.
Trái với quan niệm thông thường, Kinh Thánh mô tả Satan là một thân vị đẹp đẽ hoàn hảo. Có chép về nó rằng: “Người gồm đủ tất cả, đầy đủ sự khôn ngoan, tốt đẹp trọn vẹn. Ngươi vốn ở trong Ê-đen. Là vườn của Đức Chúa Trời. Ngươi đã có đầy mình mọi thứ ngọc báu… Nghề làm ra trống cơm, ống sáo thuộc về ngươi; từ ngày ngươi mới được dựng nên, đã sắm sẵn rồi.” (Êxêchiên 28:12,13). Ngay trong địa vị sa ngã của nó, Satan vẫn có thể “tự mạo làm thiên sứ của sự sáng.” (II Côrinhtô 11:14). Như vậy, nhiều thần dân của nó hoàn hảo, trang nhã và có vẻ trọn lành trước mắt người ta, thì không phải là tương hợp với thân vị của Satan.
Tình trạng của những người làm thần dân của nước Satan đã được mô tả nhiều cách. Kinh Thánh chép về họ rằng: “Thần của đời nầy đã làm mù tâm tư của kẻ chẳng tin, để sự sáng chói của Tin Lành vinh hiển Đấng Christ … không chiếu đến họ.” (II Côrinhtô 4:4). Họ sống “theo thói tục của thế gian nầy, thuận phục bá chủ của quyền bính trong khoảng không, tức là tà linh hiện đương hành động trong con cái bội nghịch.” (Êphêsô 2:2). Họ có danh hiệu là “tối tăm” (Êphêsô 5:8). Đó chẳng phải là lời loài người đâu, nhưng là lời Đức Chúa Trời mô tả loài người ở trong lãnh vực của Satan và ở dưới quyền nó.
Do đó, ta thấy rõ ràng sự không vâng lời của Ađam và Ê-va trong vườn Ê-đen không phải chỉ là xây bỏ khỏi Đức Chúa Trời và khỏi địa vị tùy thuộc Ngài, song còn là dứt khoát xây qua theo quỉ Satan và nhìn nhận chủ quyền của nó trên mình và trên dòng dõi mình. Cả loài người trở thành thần dân nước tối tăm của Satan.
Vì cớ loài người ở vào tình trạng trên đây, nên Đức Chúa Trời cần phải trù liệu để cứu vớt họ khỏi quyền cai trị của Satan mà trở lại đầu phục Ngài. Việc xảy ra khi loài người phạm tội trong vườn Ê-đen phải được đảo ngược lại.
Có ý nghĩa thay, lời tuyên bố đầu tiên trong Kinh Thánh liên quan đến sự cứu rỗi loài người lại là lời hứa sai một Đấng đến chà nát quyền lực của quỉ Satan! Ta thấy lời hứa nầy trong bản án Đức Chúa Trời tuyên bố phạt con rắn ngay sau khi nó xui giục loài người phạm tội. Đây, lời Ngài phán quyết: “Ta sẽ làm cho mầy cùng dòng dõi người nữ nghịch thù nhau. Người sẽ giày đạp đầu mầy, còn mầy sẽ cắn gót chân Người.” (Sáng thế ký 3:15). Đầu là trung khu của trí khôn và quyền hành, là khả năng khắc phục và cai trị. Khi đầu Satan bị giày đạp, thì quyền lực của nó bị tan vỡ, và do đó mới có ơn giải cứu khỏi quyền lực tối tăm. Dòng dõi người nữ tức là Đấng sanh bởi nữ đồng trinh. Mọi người khác sanh ra đều là dòng dõi của người nam. “Nầy, một gái đồng trinh sẽ chịu thai,sanh ra một Trai, và đặt tên là Em-ma-nu-ên[12].” (Êsai 7:14). Khi Đức Chúa Jêsus do nữ đồng trinh Ma-ri sanh ra, thì lời hứa ban Đấng giải cứu khỏi quyền lực Satan, đã được ứng nghiệm. Ngài ngự đến “để chiếu sáng trên kẻ ngồi trong tối tăm và dưới bóng sự chết.” (Luca 1:79). Câu nầy không chỉ về ai ngoài ra loài người ở trong vòng tối tăm của nước Satan.
Khi Đức Chúa Jêsus khởi thi hành chức vụ công khai, thì một ngày Sa-bát kia, Ngài đi vào nhà hội. Người ta trao cho Ngài sách tiên tri Ê-sai, và Ngài mở ra mà đọc: “Thần của Chúa ngự trên Ta, vì … Ngài đã xức dầu cho Ta để giảng Tin Lành cho kẻ nghèo, sai Ta rao cho kẻ phu tù (của Satan) được giải phóng, kẻ mù (tức là kẻ đang ở trong tối tăm) được sáng, kẻ bị áp chết được tự do.” (Luca 4:18).
Đức Chúa Jêsus, Dòng dõi người nữ, thật đã giày đạp đầy con rắn (là quỉ Satan), nhưng khi Ngài làm việc ấy, thì, theo như đã dự ngôn, con rắn cũng cắn gót chât Ngài. Lời nầy liên quan đến sự chết của Đức Chúa Jêsus trên Thập tự giá, vì chính là bởi sự chết mà Ngài “diệt trừ kẻ cầm quyền[13] sự chết, là ma quỉ.” (Hêbơrơ 2:14). Trong bài giảng công khai cuối cùng trước khi chịu chết, Đức Chúa Jêsus phán rằng: “Hiện nay có sự xét đoán thế gian nầy, hiện nay bá chủ của thế gian nầy (là Satan) bị đuổi ra.” (Giăng 12:31). Sứ đồ Giăng nói rằng: “Con Đức Chúa Trời đã hiện ra (với tư cách Dòng dõi người nữ) để diệt trừ công việc của ma quỉ.” (I Giăng 3:8).
Khi Sau-lơ (về sau đổi tên là Phaolô) bị chận lại trên đường đi Đa-mách, thì ông nghe một tiếng phán rằng: “Ta là JÊSUS … Ta đã hiện ra cho ngươi để lập ngươi thừa sai và chứng nhân … về cả những việc ngươi thấy. Ta cũng sẽ giải cứu ngươi khỏi dân nầy và người ngoại bang mà Ta sai ngươi đến, để mở mắt họ, khiến họ xây khỏi tối tăm mà hướng về sự sáng, khỏi quyền bính của Satan mà hướng về Đức Chúa Trời.” (Công vụ 26:15-18).
Như vậy, trong ơn cứu rỗi, Đức Chúa Trời giải cứu tội nhân khỏi quyền lực tối tăm và dời họ “qua Nước của Con yêu dấu Ngài.” (Côlôse 1:13). Mọi người được cứu bằng cách đó đã trở nên “người đồng quốc với các thánh đồ.” (Êphêsô 2:19). Họ “là quốc dân trên trời.” (Philíp 3:20). Họ không còn thuộc về tổ chức thế giới hiện tại do quỉ Satan cai trị nữa. Họ không còn ở trong tối tăm nữa, nhưng “là con cái của sự sáng.” (I Têsalônica 5:5).
CHƯƠNG 6: TRONG ĐẤNG CHRIST CHÚNG TA ĐƯỢC CỨU CHUỘC
(Ê-phê-sô 1:7)
K
HI loài người phạm tội trong vườn Ê-đen, thì chẳng những họ nộp mình cho quỉ Satan và đặt mình dưới quyền cai trị của nó, song còn vi phạm luật pháp của Đức Chúa Trời đã tỏ rõ trong lịnh cấm ăn trái “cây biết điều thiện và điều ác.” Án phạt vì vi phạm luật pháp đó là phải chết. Đức Chúa Trời đã phán rằng: “Một mai ngươi ăn, chắc sẽ chết.” (Sáng thế ký 2:17). Bao giờ sự vi phạm luật pháp Đức Chúa Trời cũng đem lại án phạt như vậy. “Linh hồn nào phạm tội, thì sẽ chết.” (Ê-xê-chiên 18:20).
Sự chết do tội lỗi của Ađam đem vào đã truyền cho mọi người, nên mọi người phải chịu án phạt vì vi phạm luật pháp.” (Rôma 5:12). Họ ở dưới sự rủa sả của luật pháp (Galati 3:10).
Dầu có một số người chối bỏ lời Kinh Thánh, dạy rằng mọi người bị rủa sả vì cớ tội lỗi của Ađam, nhưng ta chẳng cần đi xa để tìm ra bằng có chứng minh lời đó. Mỗi một đám tang tỏ rõ thực sự ấy. Vì cớ tội lỗi, Ađam phải chết phần thân thể. Khi Ađam sanh một con trai theo hình ảnh mình, thì con trai mới sanh ra, đã làm người hay chết. Người hay chết không thể sanh ra con cháu bất tử. Vậy nên mọi người phải chết, tức là phải ở dưới sự rủa sả, vì Ađam đã phạm tội.
Nhưng chưa hết đâu. Khi Ađam phạm tội, thì thần linh ông liền chết vì bị phân rẽ với Đức Chúa Trời. Ông mất sự tiếp xúc thiêng liêng với Đức Chúa Trời. Người chết phần thần linh không thể sanh ra con cháu sống phần thần linh. Vậy, mọi người thuộc về dòng dõi Ađam đều “chết trong sự quá phạm và tội lỗi mình.” (Ê-phê-sô 2:1). Đó cũng là một phần sự rủa sả của luật pháp giáng trên loài người vì cớ Ađam đã phạm tội. Nói rằng có một “điểm sáng thiên thượng” trong mỗi người, thì chẳng đúng đâu. Theo câu Kinh Thánh trưng dẫn trên kia, thì mọi người đã chết trong lầm lỗi và tội ác mình.
Hơn nữa, vì thừa hưởng bổn tánh tội lỗi của Ađam, nên “mọi người đều đã phạm tội, thiếu mất sự vinh hiển của Đức Chúa Trời.” (Rôma 3:23). Do đó, cả loài người mắc tội trước mặt Đức Chúa Trời và bị lên án vì đã vi phạm luật pháp của Ngài. (Rôma 3:19).
Vậy, trong ơn cứu rỗi. Ngoài sự giải cứu tội nhân khỏi quyền lực và sự cai trị của quỉ Satan, Đức Chúa Trời còn phải trù liệu để buông tha loài người khỏi sự chết, nghĩa là khỏi sự rủa sả của luật pháp. Vì sự chết do tội lỗi mà có và là án phạt tội lỗi, nên loài người cũng cần được giải phóng khỏi tội lỗi. Sự trù liệu của Đức Chúa Trời đó gọi là ơn cứu chuộc.
Theo Webster, thì chữ “redeem” (cứu chuộc) nghĩa là: “Trả giá chuộc, giải phóng, cứu khỏi cảnh phu tù hoặc tôi mọi, cứu khỏi mọi tình trạng buộc phải chịu đau đớn hoặc bị truất quyền bằng cách trả giá chuộc.” Ơn cứu chuộc có hai phương diện. Trước hết, là trả giá chuộc, hoặc giải phóng khỏi cảnh phu tù hay tôi mọi. Thứ hai, là trả giá để chuộc khỏi tình trạng buộc phải chịu đau đớn và bị truất quyền. Ta thấy cả hai phương diện nầy của ơn cứu chuộc trong công việc cứu rỗi của Đức Chúa Trời.
Loài người phải làm tôi mọi của tội lỗi và phải chịu án chết đòi hỏi bởi luật pháp mà họ đã vi phạm. Họ phải mất mạng sống để làm thỏa mãn những sự đòi hỏi của luật pháp. Chỉ có ơn cứu chuộc mới giải thoát được họ khỏi sự đoán phạt.
Vì án phạt tội lỗi là sự chết, nên loài người không tự cứu chuộc mình được. Chính mạng sống họ lớn hơn bất cứ cái gì họ có thể cung hiến làm giá cứu chuộc. Nếu án phạt là bao nhiêu năm tù, thì có thể chuộc án bằng một số việc lành hoặc một thời gian khắc khổ; nhưng trong trường hợp án phạt đòi phải chết hoặc nộp mạng sống, thì dầu cho tất cả việc lành của một đời sống, cũng không thể dùng điều chi chuộc khỏi sự rủa sả của luật pháp. Vì mọi người chịu chung một án phạt, nên không ai cứu giúp được ai hết.
Hơn nữa, Đức Chúa Trời, là Quan Án, cũng không thể thi hành sự khoan hồng mà bãi bỏ bản án. Mọi đặc tánh và công việc của Đức Chúa Trời đều là vô hạn vô lượng. Như vậy, sự công bình của Ngài cũng vô hạn vô lượng. Ngài không thể nhân nhượng khi tuyên án và khi thi hành bản án. Ngài không thể bãi bỏ hình phạt mà chính luật pháp chí thánh của Ngài đã ấn định. Bản án ấy phải được thi hành.
Vì loài người không có gì để tự cứu chuộc mình và vì sự công bình vô cùng của Đức Chúa Trời không cho bãi bỏ sự hình phạt, nên muốn cứu rỗi loài người, thì phải tìm thấy một Đấng Cứu Chuộc. Phải tìm thấy một Đấng nào có thể trả giá, hoặc giá chuộc tương đương với sự hình phạt mà luật pháp đòi hỏi. Như vậy, chuộc tội là một phần quan trọng của ơn cứu rỗi. Nếu không có chuộc tội, thì không thể nào có cứu rỗi.
Theo những điều kiện đó, tất nhiên chỉ Đức Chúa Trời mới tìm thấy được một Đấng Cứu Chuộc. Ngài tìm thấy Đấng ấy trong chính Con vô lượng vô biên của Ngài. Để đạt mục đích ấy, Ngài đã sai Con một của Ngài đến trong thế gian, trở thành một người. “Nhưng khi kỳ hạn đã được trọn, Đức Chúa Trời bèn sai Con Ngài đến, sanh bởi người nữ, sanh dưới luật pháp, để chuộc những kẻ ở dưới luật pháp.” (Galati 4:4,5).
Vì đến trong thế gian và vì chịu chết, “Đấng Christ đã chuộc chúng ta khỏi sự rủa sả của luật pháp, bởi Ngài đã vì chúng ta mà trở nên sự rủa sả.” (Galati 3:13). Phải, Con vô lượng vô biên của Đức Chúa Trời đã được Ngài chỉ định để trở nên Đấng Cứu chuộc thế gian.
Giá mà Ngài trả để chuộc loài người chẳng những phải lớn hơn mạng sống của một người, song cũng phải lớn hơn mạng sống của mọi người, vì hết thảy đã bị lên án chết. Và thật có như vậy, vì giá chuộc mà Ngài trả là chính sự sống Ngài. Chính Ngài đã phán rằng: “Con người đã đến… để phó mạng sống mình làm giá chuộc nhiều người.” (Mathiơ 20:28). Ngài “đã phó chính mình làm giá chuộc mọi người.” (I Timôthê 2:6).
Giá chuộc nầy đầy đủ vì ba điều kiện. (A) Nó là sự sống của một Người. Luật pháp bị vi phạm đòi hỏi loài người phải chết. Vì cớ đó, Con Đức Chúa Trời phải mang lấy nhân tánh. (B) Sự sống[14] (5) của Ngài không có tội lỗi. Ngài có thể phán hỏi dân Do Thái rằng: “Trong các ngươi, ai có thể chỉ chứng Ta có tội ư?” (Giăng 8:46). Ngài không cần phải chết vì một tội lỗi nào mà Ngài đã phạm. Vậy, Ngài có thể chết vì kẻ khác. (C) Là Con của Đức Chúa Trời, Ngài vô hạn vô lượng. Sự sống của Ngài lớn hơn tổng số mạng sống của mọi người hữu hạn. Vì cớ đó, sự sống của Ngài có thể làm giá chuộc mọi người tức là cả loài người. Giá chuộc thật lớn hơn tổng số tội lỗi của loài người.
Cần chú ý điều này: Đức Chúa Jêsus phán rằng Ngài “đã đến để phó sự sống mình làm giá chuộc.” Trái với lời thường nói, Ngài chẳng chết như kẻ chết vì một chánh nghĩa. Ngài đã phó[15] sự sống mình. Ngài phán rằng: “Ta bỏ mạng sống Ta để lấy lại. Chẳng ai cất mạng sống Ta đi, nhưng Ta tự bỏ.” (Giăng 10:17,18). Sự chết của Đức Chúa Jêsus có nghĩa là Ngài tình nguyện hiến sự sống làm giá chuộc loài người khỏi án chết mà luật pháp đã ấn định.
Nhiều câu Kinh Thánh chép rằng Huyết của Đấng Christ chính là giá chuộc. Tỉ như thơ I Phierơ 1:18,19 chép rằng: “Chẳng phải bởi vật hay hư nát như bạc hoặc vàng, mà anh em đã được chuộc khỏi cách ăn ở hư không của tổ phụ truyền lại, bèn là bởi Huyết báu, như huyết của chiên con không tì vít, tức là Huyết của Đấng Christ.” Giáo lý cứu chuộc bởi Huyết của Đức Chúa Jêsus Christ cũng có dạy ở thơ Ê-phê-sô 1:7; thơ Cô-lô-se 1:14,20 và sách Khải thị 5:9.
Không có gì mâu thuẫn giữa lời tuyên bố rằng sự cứu chuộc thực hiện bởi Huyết Đức Chúa Jêsus Christ và lời tuyên bố rằng Ngài phó sự sống làm giá chuộc. Hai lời nầy có cũng một nghĩa, “vì sanh mạng ở trong huyết,” (Lêvi ký 17:11) và khi huyết đổ ra, tức là hiến sự sống đó. Vì cớ ấy, chúng ta phải nhấn mạnh vào Huyết, đổ ra, y như chính Đức Chúa Jêsus đã nhấn mạnh. Khi thiết lập Tiệc thánh, Ngài cầm chén và phán rằng: “Đây là Huyết Ta… đổ ra cho nhiều người được tha tội.” (Mathiơ 26:28). Như vậy, rõ ràng lắm, loài người được cứu khỏi sự rủa sả của luật pháp chẳng phải bởi cuộc đời mà Đức Chúa Jêsus đã sống. Nhưng loài người được cứu chuộc bởi Ngài phó mạng sống và đổ Huyết ra, tức là bởi sự chết của Ngài vậy.
Ý nghĩa của mọi sự nầy là loài người bị luật pháp tuyên bố là mắc tội và phải chịu án chết. Người ta chẳng có gì để tự cứu chuộc mình và thoát khỏi sự thi hành bản án kia. Con Đức Chúa Trời đã đến thế gian và trở nên một Người. Ngài sống một đời công bình trọn vẹn đối với luật pháp của Đức Chúa Trời; vì cớ chính sự công bình của mình, Ngài có thể trở về Thiên đàng và đến trước mặt Đức Chúa Trời. Thay vì làm như vậy, Ngài, là Đấng Vô tội, đã chịu chết vì cớ tội lỗi loài người. Ngài đã chịu án chết vì cớ loài người.
Có nhiều người dạy rằng Huyết Đức Chúa Jêsus có giá trị khi chảy ở trong huyết quản của Ngài cũng y như khi đổ trên Thập tự giá. Họ cũng dạy rằng ơn cứu rỗi thực hiện bởi cuộc đời mà Ngài đã sống giữa loài người, khi ấy “Ngài trải khắp nơi làm lành.” (Công vụ 10:38). Ý kiến nầy trực tiếp chối bỏ lời Kinh Thánh dạy rằng loài người được cứu chuộc bởi Huyết Đấng Christ; vì đang khi Huyết Ngài ở trong huyết quản của Ngài, thì không thể làm giá cứu chuộc chúng ta. Phía sau ý kiến trên đây có lòng người ta không chịu nhìn nhận mình là tội nhân. Chối bỏ giá cứu chuộc tức là chối bỏ lẽ cần có ơn cứu chuộc. Chối bỏ lẽ cần có ơn cứu chuộc tức là chối bỏ tội lỗi và các hậu quả của tội lỗi.
Đời sống của Đức Chúa Jêsus trên mặt đất không bao giờ cứu được một người nào khỏi ăn phạt của luật pháp. Kinh Thánh tuyên bố rõ ràng Ngài “sanh dưới luật pháp.” (Galati 4:4). Ấy nghĩa là đang khi sống trên mặt đất, Đức Chúa Jêsus phục dưới luật pháp của Đức Chúa Trời, gồm Mười Điều răn, y như bất cứ người Y-sơ-ra-ên (Do Thái) nào đương thời Ngài và trước thời Ngài. Như vậy, vì sống một đời trọn vẹn, Ngài thoát khỏi sự hình phạt của luật pháp và được đến gần Đức Chúa Trời; nhưng chắc không một người nào khác có thể nhờ đời sống của Ngài trên mặt đất mà đến gần Đức Chúa Trời được.
Tuy nhiên, đối với loài người, đời sống trọn vẹn của Ngài trên mặt đất có một giá trị như thế nầy: Như trên đã nói, Ngài là Đấng trọn lành, nên không cần phải chết vì tội lỗi mình. Do đó, Ngài có thể chết vì kẻ khác, là tội nhân. Ngài chịu chết như vậy tức là trả giá chuộc họ.
Thế thì sự chết của Đấng Christ là chính trung tâm ơn cứu rỗi. Nhưng có nhiều người chịu nhận chân lý nầy mà vẫn chối rằng không cần Đấng Christ phải chịu chết để làm giá cứu chuộc. Họ nói rằng sự chết của Đức Chúa Jêsus là gương hi sinh tối cao cho loài người ngắm xem, và người ta được cứu rỗi bởi thấy gương đó cùng sống một đời hy sinh. Không thể có như vậy, vì không có chỗ nào trong Kinh Thánh dạy rằng từ Thập tự giá phát xuất một ảnh hưởng khiến người chưa được cứu hóa ra tốt, hoặc tốt hơn, do đó họ được Đức Chúa Trời tiếp nhận.
Được chuộc khỏi phải ở dưới luật pháp
Khi Đức Chúa Trời chuộc loài người khỏi án phạt hoặc sự rủa sả của luật pháp, thì Ngài cũng chuộc cho họ khỏi phải ở dưới luật pháp. Ấy như trên kia đã trưng dẫn Kinh Thánh: “Đức Chúa Trời bèn sai Con Ngài đến… để chuộc những kẻ ở dưới luật pháp.” (Galati 4: 4,5). Không thể có kết quả khác, vì khi án phạt bị cất bỏ, thì sức mạnh của luật pháp cũng bị cất bỏ. Nếu không có hình phạt, thì luật pháp chẳng phải là luật pháp nữa. Kể từ lúc một người nào được cứu chuộc, thì Đức Chúa Trời không đối xử với người ấy theo căn bản của luật pháp nữa, nhưng đối xử theo căn bản khác hẳn, tức là theo ân điển. “Anh em chẳng ở dưới luật pháp, bèn là ở dưới ân điển.” (Rôma 6:14). Luật pháp chẳng còn gì mà nói nữa. Nó không thể tuyên bố người được cứu chuộc là còn mắc tội. “Chẳng có sự định tội cho những kẻ ở trong Đức Chúa Jêsus Christ.”(Rôma 8:1). Như vậy, kết quả của sự cứu chuộc là Đức Chúa Trời có thái độ khác hẳn đối với những người được cứu chuộc.
Cứu chuộc khỏi tội lỗi và khỏi quyền phép của tội lỗi
Khi Đức Chúa Trời đối xử với loài người theo căn bản ân điển, thì Ngài tiếp tục công ơn cứu chuộc cho tới mức giải thoát họ khỏi tội lỗi, là yếu tố gây cho luật pháp tuyên án phạt. Mục đích của Đức Chúa Trời khi cứu chuộc loài người chẳng những là giải thoát họ khỏi sự hình phạt tội lỗi, song cũng là giải thoát họ khỏi chính tội lỗi ở trong đời sống họ nữa. “Đức Chúa Jêsus Christ là Đấng đã phó mình chính chúng ta, để chuộc chúng ta khỏi mọi tội ác, và vì mình mà tẩy sạch một dân thuộc riêng về mình.” (Tít 2:13,14).
Sứ đồ Phaolô nói rằng ông bị “bán cho tội lỗi,” (Rôma 7:14) và có “luật của tội lỗi vẫn ở trong chi thể” ông (Rôma 7:23). Đức Chúa Jêsus đã phán cũng người Do Thái rằng: “Hễ ai phạm tội là tôi mọi của tội lỗi.” (Giăng 8:34). Chắc hẳn loài người đang mang ách tôi mọi của tội lỗi. Tội lỗi cai trị trong đời sống họ, song Đức Chúa Trời cũng giải thoát họ khỏi quyền cai trị ấy. Sự giải thoát nầy thực hiện bởi quyền phép của Đức Chúa Trời và vì Ngài hành động theo ân điển để giúp đỡ mọi người đã được giải thoát khỏi sự hình phạt tội lỗi. “Tội lỗi không chủ trị anh em được đâu; bởi anh em chẳng ở dưới luật pháp, bèn là ở dưới ân điển.” (Rôma 6:14). Thật có như vậy, vì “Thánh Linh của sự sống ở trong Đức Chúa Jêsus Christ đã buông tha” tín đồ “khỏi luật của tội lỗi và sự chết.” (Rôma 8:2) mà họ thừa hưởng của Ađam.
Cứu chuộc thân thể
Sứ đồ Phaolô luận về ơn cứu chuộc khác trong tương lai mà tín đồ hiện đang chờ đợi. “Chính chúng ta … cũng than thở trong lòng mà trông đợi danh phận con cái, tức là sự cứu chuộc thân thể chúng ta vậy.” (Rôma 8:23).
Trong sự chết của Đấng Christ, có ơn cứu chuộc khỏi hình phạt vì vi phạm luật pháp; vả sự chết của thân thể là một phần hình phạt nầy. Thân thể loài người có thể chết và bị hư nát. Vì có thể chết, nên có thể bị đau ốm, bịnh hoạn. Loài người phải khổ sở vì đủ thứ tật bệnh. Trong sự chết của Đức Chúa Jêsus có phương cứu chữa mọi nỗi đau đớn đó. Nhưng, rõ ràng lắm, chúng ta chưa hưởng được hạnh phước ấy. Sứ đồ Phaolô nói rằng: “ Chúng ta … cũng than thở trong lòng mà trông đợi … sự cứu chuộc thân thể chúng ta.” Ngày ấy còn thuộc về tương lai. Ngày ấy sẽ đến, tức là khi bởi tiếng kèn của Đức Chúa Trời, “kẻ chết đều được sống lại chẳng hay hư nát, và chúng ta (là tín đồ đang sống) đều sẽ được biến hóa.” (I Côrinhtô 15:52). Khi ấy, “thể hay hư nát nầy cần phải mặc lấy sự chẳng hay hư nát, và thể hay chết nầy cần phải mặc lấy sự chẳng hay chết.” (I Côrinhtô 15:53). Tới khi ấy, công ơn cứu chuộc mới hoàn thành. Khi ấy, sẽ có sự khôi phục trọn vẹn. Hậu quả do tội lỗi của Ađam sẽ bị cất bỏ trơn trọi.
Cứu chuộc cho Đức Chúa Trời
Chẳng những cứu chuộc khỏi hình phạt vì vi phạm luật pháp, song cũng cứu chuộc cho Đức Chúa Trời nữa. “Vì Ngài đã chịu giết, lấy Huyết mình mà mua chuộc chúng tôi cho Đức Chúa Trời,” (Khải huyền 5:9), đó là bài khen ngợi Chiên Con (Đức Chúa Jêsus Christ) mà những người được cứu chuộc sẽ hát trên Thiên đàng.
Mọi người được cứu rỗi không phải thuộc về mình nữa, nhưng thuộc về Đấng Christ, vì Ngài đã chuộc họ. “Anh em chẳng phải thuộc về chính mình anh em đâu, vì anh em đã được mua bằng giá rất cao rồi. Vậy, hãy lấy thân thể mình là tôn vinh Đức Chúa Trời.” (I Côrinhtô 6:19-20).
Vậy, mục đích của ơn cứu chuộc là để Đức Chúa Trời có “một dân thuộc riêng về mình.”
Ơn cứu chuộc còn đến đời đời
Xin thêm một ý tưởng nữa về ơn cứu chuộc. Vì Đấng Christ vô hạn vô lượng và vì Huyết Ngài, là giá cứu chuộc, không hay hư nát, nên ơn cứu chuộc phải còn đến đời đời. Đức Chúa Trời đã phán như vậy về ơn cứu chuộc (Hê-bơ-rơ 9:12). Vậy, các phước Đức Chúa Trời ban cho tín đồ cũng phải còn lại suốt cõi đời đời.
CHƯƠNG 7: ĐƯỢC THUẬN HIỆP VỚI ĐỨC CHÚA TRỜI
N
HƯ trên kia đã nói, người thứ nhứt là Ađam, nghe theo ma quỷ cám dỗ, nên đã phạm tội. Ông phó mình cho ảnh hưởng và quyền phép của Satan, nên loài người phải đầu phục quyền phép của nó. Vì cớ tình trạng đó, nên khi cứu rỗi loài người, Đức Chúa Trời phải giải thoát họ khỏi quyền phép của cõi tối tăm. Hơn nữa, ta đã thấy rằng khi phạm tội, loài người đã làm trái luật pháp của Đức Chúa Trời, thành ra mắc tội và phải mang án chết. Vậy, Đức Chúa Trời cũng cần phải cứu chuộc họ khỏi sự rủa sả của luật pháp và khỏi ở dưới quyền cai trị của luật pháp.
Còn một điều nữa xảy ra khi loài người phạm tội. Khi suy xét vấn đề tội lỗi, ta đã thấy rằng vì Đức Chúa Trời dựng nên loài người, nên họ là gì và có gì đều do Đức Chúa Trời cả. Vậy, thái độ thích ứng của loài người chính là tuyên bố độc lập đối với Đức Chúa Trời và chỉ hoàn toàn tùy thuộc bản ngã. Thái độ đó của loài người chẳng qua là loạn nghịch cùng Đức Chúa Trời và cùng quyền Ngài cai trị ho, thì tức là loạn nghịch đó. Nếu họ có thể củng cố nền độc lập và tồn tại với tư cách một chánh phủ riêng biệt, thì hành động của họ có tánh chất cách mạng. Loài người chưa bao giờ có thể tạo nên một cuộc sống độc lập ở ngoài Đức Chúa Trời. Có một số người suy nghĩ và hành động dường như họ có thể làm như vậy; song chừng nào loài người còn cần ánh sáng mặt trời, khí trời và mưa của Đức Chúa Trời để sống còn, thì họ không thể nào đòi độc lập với Ngài. Như vậy, sự độc lập của loài người đối với Đức Chúa Trời có tánh chất một cuộc loạn nghịch cùng Ngài. Loài người loạn nghịch cần được phục hòa.
Như trên kia đã nói, khi nghe lời ma quỉ cám dỗ, loài người bèn trở thành bầy tôi của nó. Như vậy, họ bị phân rẽ với Đức Chúa Trời và hóa ra kẻ thù của Ngài. Tại điểm nầy, cũng cần có sự phục hòa.
Sau khi phạm tội, Ađam và vợ “nghe tiếng Giê-hô-va Đức Chúa Trời đi ngang qua vườn. Ađam và vợ ẩn mình giữa bụi cây, để tránh mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời. Giê-hô-va Đức Chúa Trời kêu Ađam mà phán hỏi rằng: Ngươi ở đâu? Ađam thưa rằng: Tôi có nghe tiếng Chúa trong vườn, bèn sợ, bởi vì tôi lõa lồ, nên đi ẩn mình.” (Sáng thế ký 3:8-10). Trong Ađam đã có một sự biến cải. Ông đã hóa ra xa lạ với Đức Chúa Trời, và đã tự phân cách với Ngài. Sự sợ Đức Chúa Trời đã thế chỗ lòng kính mến, nương nhờ và tin cậy. Thay vì đến gần Đức Chúa Trời, ông đã chạy xa Ngài. Vì cớ tội lỗi của mình, Ađam đã cách xa Đức Chúa Trời. Tình thân hữu với Đức Chúa Trời, kèm theo có sự thông cảm, giao hảo, và thân mật, đã mất và bị thay thế bằng mối cừu thù và tình trạng xa lạ.
Ađam truyền lại bổn tánh tội lỗi cho dòng dõi ông thể nào, thì đồng thời ông cũng truyền cho họ tình trạng phân rẽ với Đức Chúa Trời và sự sợ hãi Ngài thể ấy.
Ta chẳng cần đi xa để tìm thấy bằng cớ tỏ ra rằng loài người vẫn còn xa lạ đối với Đức Chúa Trời. Còn những bằng cớ tỏ ra họ sợ Ngài, thì nhiều gấp ngàn lần. Mọi sự cố gắng của loài người để làm cho Đức Chúa Trời nguôi giận và để làm một cái chi cho được ân huệ của Ngài, đều chứng tỏ rằng loài người bị phân rẽ với Đức Chúa Trời. Sự sợ chết và sợ đoán phạt tương lai làm chứng rằng tình trạng thuận hiệp giữa Đức Chúa Trời và loài người đã bị tan vỡ.
Tình trạng mọi người phân cách Đức Chúa Trời đó đòi hỏi Đức Chúa Trời làm một công việc đặc biệt để cứu giúp họ. Ơn cứu chuộc khỏi quyền cai trị của luật pháp và khỏi sự hình phạt vì vi phạm luật pháp đã khiến cho Đức Chúa Trời vó thể xưng loài người là công bình đến nỗi trước luật pháp của Ngài. Loài người được kể là công bình trọn vẹn. Nhưng không có gì mâu thuẫn với Đức Chúa Trời trên một căn bản hoàn toàn pháp lý, thì chưa có nghĩa là đã được thân mật với Ngài.
Nếu hai người rất thân thiện với nhau, mà một người làm việc phạm pháp hại cho bạn mình, thì rất có thể dàn xếp phương diện pháp lý của hành động ấy, nhưng hai người bạn không trở lại thân hữu với nhau như trước nữa. Họ có thể phân rẽ nhau mãi mãi. Thêm vào sự dàn xếp theo pháp lý, còn phải thực hiện sự phục hòa giữa hai người. Cũng một thể ấy, dầu người ta được cứu chuộc khỏi hình phạt của luật pháp và được nhìn nhận là công bình trọn vẹn trước luật pháp, song họ vẫn cần được phục hòa với Đức Chúa Trời, - đó là một phần trong công việc Ngài khôi phục những cái loài người đã mất vì cớ Ađam phạm tội. Như vậy, phục hòa là một phần quan trọng của ơn cứu rỗi.
Công việc phục hòa mà Đức Chúa Trời thực hiện là một công việc làm cho loài người. Khi hai người cần phải phục hòa với nhau, thì rất có thể rằng trong mỗi người có một điểm nào sai lầm cần được sửa chữa. Họ được phục hòa với nhau. Nhưng trong trường hợp loài người phục hòa với Đức Chúa Trời, thì chẳng có như vậy. Loài người không thuận hiệp với Đức Chúa Trời, nên chỉ có loài người cần được phục hòa. Sứ đồ Phaolô nói rằng: “Đức Chúa Trời vốn ở trong Đấng Christ (trên Thập tự giá), khiến cho thế gian (loài người) hòa lại với Ngài.” (II Côrinhtô 5:19).
Phục hòa nghĩa là lại làm cho đôi bên thân thiện; là khôi phục tình bằng hữu; là đem trở lại thuận hiệp; là khiến cho hết mối bất hòa. Chính loài người đã làm tan vỡ tình thân với Đức Chúa Trời. Vì phạm tội, loài người trở thành “âm điệu chối tai” trong vũ trụ của Đức Chúa Trời. Phải xử trí cái gì ở trong loài người đã gây nên bất hòa và phân cách với Đức Chúa Trời. Đó chính là điều Đức Chúa Trời làm khi Ngài khiến cho loài người phục hòa với Ngài, vì “Đức Chúa Trời vốn ở trong Đấng Christ, khiến cho thế gian hòa lại với Ngài, chẳng kể cho họ sự quá phạm của họ”.
Trong sự xưng công bình, là kết quả do ơn cứu chuộc, tội lỗi của loài người, vốn là sự vi phạm luật pháp Đức Chúa Trời, được tha thứ vì Đức Chúa Jêsus Christ đã chịu hình phạt trên Thập tự giá. Vậy, người ta được không phục địa vị công bình trước luật pháp của Đức Chúa Trời. Trong sự phục hòa, Đức Chúa Trời xử trí với tội lỗi của loài người như là yếu tố tỏ ra họ loạn nghịch với quyền hành, chánh thể của Ngài, luôn với mọi điều Ngài trù liệu cho loài người nữa.
Cái điều khiến cho loài người sợ Đức Chúa Trời, ẩn xa Ngài, cừu thù với Ngài, và không thuận hiệp với Ngài, thì nay không nêu lên nghịch cùng họ nữa. Cái yếu tố tạo nên tình trạng loạn nghịch, thì nay coi như là không hề có.
Khi ta suy xét giá Đức Chúa Trời phải trả để thực hiện sự phục hòa, thì sẽ hiểu rõ loài người bị phân rẽ và cách xa Ngài là khủng khiếp dường nào. Giá ấy là sự chết của chính Con Đức Chúa Trời, không thể kém. Có lời chép rằng: “Đương khi chúng ta còn là kẻ thù nghịch, thì đã được hòa lại với Đức Chúa Trời bởi sự chết của Con Ngài” (Rôma 5:10). Lại rằng: “Còn anh em, trước kia tâm ý anh em vốn xa cách và thù nghịch với Ngài bởi công việc gian ác, nhưng bây giờ Ngài đã nhờ sự chết của thân thể xác thịt của Đấng Christ, mà khiến cho anh em hòa lại với Ngài.” (Côlôse 1:21,22).
Nếu loạn nghịch cùng một chánh phủ loài người, thì phải xử tử. Cùng một thể ấy, loạn nghịch cùng Đức Chúa Trời thì phải chịu án chết. Vậy, khi Đấng Christ chịu trên Thập tự giá để phục hòa loài người với Đức Chúa Trời, thì Ngài chết thế cho họ với tư cách một kẻ loạn nghịch.
Khi bọn thủ lãnh Do Thái giải Đức Chúa Jêsus đến trước mặt Phi-lát, thì chúng cáo rằng đã bắt được Ngài “dụ hoặc dân ta, cấm nộp thuế cho Sê-sa, và xưng chính mình là Đấng Christ, là Vua.” (Luca 23:1,2). Mọi hành động nầy là phiến loạn, và Đức Chúa Jêsus đã bị xét xử theo bản cáo tội đó. Sau khi tra hỏi Ngài, Phi-lát nói với dân Do Thái rằng: “Nầy, ta đã xét hỏi Người trước mặt các ngươi đây, mà không thấy Người có tội nào trong những điều các ngươi đã tố cáo Người; Hê-rốt cũng vậy, nên đã giải Người lại cho ta. Người thật không làm điều gì đáng chết cả. Vậy nên ta sẽ sửa trị, rồi thả Người đi… Nhưng họ đồng thinh kêu lên rằng: Hãy trừ Người nầy đi, mà thả Ba-ra-ba cho chúng tôi ! Tên ấy bị tù vì dấy loạn trong thành, và vì giết người… Phi-lát định án theo như họ đòi. Đoạn, người thả kẻ bị tù vì
cớ dấy loạn và giết người, là người chúng đã xin, rồi giao Đức Chúa Jêsus cho mặc ý họ.” (Luca 23:14-19, 24,25). Đấng chẳng phạm tội phản nghịch đã chết như một kẻ phiến loạn, ngõ hầu cho những kẻ phạm tội phản nghịch chỉ nhờ Đức Chúa Jêsus chịu chết mà được giải thoát. Nếu Đức Chúa Jêsus không chịu chết, thì Ba-ra-ba đã bị đóng đinh vào thập tự giá rồi. Nhưng Ba-ra-ba chẳng phải người duy nhất nhờ sự chết của Đức Chúa Jêsus mà Ngài vì mọi người phải nếm sự chết.” (Hê-bơ-rơ 2:9) hầu cho loài thọ tạo, tức là loài người, đã loạn nghịch cùng Đức Chúa Trời, được phục hòa với Ngài.
Thường khi nhà Truyền đạo kêu gọi người ta hãy làm hòa với Đức Chúa Trời. Không có thể căn cứ vào câu nào trong Kinh Thánh để kêu gọi như vậy. Quả thật, lời kêu gọi ấy mâu thuẫn với lời Kinh Thánh tuyên bố rằng: “Ngài (Đức Chúa Jêsus) là sự hòa bình của chúng ta,” (Êphêsô 2:14) và “nhờ ở trong xác thịt Ngài mà Ngài đã bãi bỏ sự thù nghịch, … vậy là giải hòa” (Êphêsô 2:15). Loài người không thể làm hòa với Đức Chúa Trời; họ chỉ có thể tiếp nhận sự phục hòa mà Đức Chúa Jêsus Christ đã hoàn thành cho họ trên Thập tự giá và do Đức Chúa Trời hiến cho vô điều kiện. Phục hòa là công việc của Đức Chúa Trời và của một mình Ngài mà thôi.
Nhờ sự phục hòa, loài người từ địa vị thù nghịch Đức Chúa Trời bước vào địa vị hòa thuận với Ngài. Khi Con Đức Chúa Trời giáng sanh như một Hài nhi tại Bếtlêhem, thì các thiên sứ tuyên bố rằng: “Hòa bình dưới đất!” (Luca 2:14). Ấy có nghĩa là Đấng giáng sanh lúc đó sẽ làm cho loài người phục hòa với Đức Chúa Trời.
Những kẻ được phục hòa với Đức Chúa Trời thì được đem lại gần Ngài, chớ không cách xa nữa. Bởi Thánh Linh, họ được phép đến gần Đức Chúa Cha. Sự sợ hãi Đức Chúa Trời đã được thay thế bằng lòng kính mến và tin cậy Ngài. Họ “không còn phải là khách lạ hoặc kiều dân nữa, nhưng là người đồng quốc với các thánh đồ và là người nhà của Đức Chúa Trời.” (Êphêsô 2:19). Là người nhà của Đức Chúa Trời có nghĩa là họ được sử dụng mọi sự tốt lành và sức toàn năng của Ngài.
Loài người không thể tự mình phục hòa với Đức Chúa Trời, nhưng họ phải nhờ một hành động của ý chỉ mà tiếp nhận sự phục hòa mà Đức Chúa Jêsus Christ đã thực hiện cho họ. Do sự chết của Đức Chúa Jêsus Christ, Đức Chúa Trời đã cất bỏ những cái gì gây nên tình trạng thù nghịch và phân cách; song một cá nhân phải thay đổi thái độ của mình đối với Đức Chúa Trời. Họ không thể cứ giữ thái độ loạn nghịch mà lại đòi phục hòa với Đức Chúa Trời. Sứ đồ Phaolô nói rằng: “Chúng tôi là khâm sai của Đấng Christ, cũng như Đức Chúa Trời bởi chúng tôi mà nài khuyên; chúng tôi thay thế Đấng Christ mà xin anh em hãy hòa lại với Đức Chúa Trời.” (II Côrinhtô 5:20). Chỉ khi nào loài người bằng lòng từ bỏ tình trạng tùy thuộc mình và độc lập đối với Đức Chúa Trời, thì họ mới có thể phục hòa với Ngài.
CHƯƠNG 8: MỘT SỰ SỐNG MỚI VỚI MỘT BỔN TÁNH MỚI
T
RONG ơn cứu rỗi, Đức Chúa Trời còn ban nhiều phước nữa ngoài ra sự giải thoát loài người khỏi quyền phép tối tăm, cứu chuộc họ khỏi án phạt của luật pháp và cho họ được phục hoà với Ngài. Ngài có thể làm mọi điều nầy cho loài người; dầu là phước lớn lắm, song nó cũng chỉ khôi phục cho loài người những cái gì họ đã mất vì cớ tội lỗi của Ađam. Ngoài các phước ấy ra, Đức Chúa Trời còn khiến người ta trở nên một thân vị mới mẻ và vô cùng cao quí hơn chính Ađam. Ơn phước nầy thực hiện bởi sự tái sanh.
Một người thuộc phái Pharisi, tên là Nicôđem, đến thăm Đức Chúa Jêsus lúc đêm khuya và thưa với Ngài rằng: “Thưa thầy, chúng tôi biết Thầy là Giáo sư từ Đức Chúa Trời đến; vì nếu không có Đức Chúa Trời ở cùng, thì chẳng ai có thể làm được những dấu lạ mà Thầy đã làm đó” (Giăng 3:2).
Ta nên xem xét Nicôđem là hạng người thể nào, Kinh Thánh gọi ông là một “người” (Giăng 3:1), tức là dòng dõi của Ađam. Với tư cách ấy, ông có nhân tánh sa ngã của Ađam truyền cho. Ông là người Do Thái, tức là thuộc về tuyển dân của Đức Chúa Trời. Ông thuộc phái Pharisi, là một giáo phái nghiêm cẩm hơn hết của người Do Thái, nổi tiếng là giữ vẹn mức công bình theo luật pháp Môise. Ông là “một vị quan của dân Do Thái” (Giăng 3:1), tức là nhân viên nghị hội của họ, gọi là Toà Công luận. Ông cũng là giáo sư của dân Do Thái. Người ta kể ông như là một hướng đạo trong những vấn đề liên quan đến Đức Chúa Trời. Ông là một người nhiệt thành cố gắng làm trọn những đòi hỏi của mực thước luân lý cao trọng hơn hết mà thế giới từng biết, tức là Mười Điều Răn và các qui luật của Môise. Rõ ràng dưới chế độ luật phát Môise và dưới bất cứ mực thước luân lý nào từng chi phối loài người.
Không còn nghi ngờ chi nữa, Nicôđem đã sống đúng theo sự sáng[16] mình có. Ông luôn luôn tìm kiếm thêm sự sáng, nên đến thăm Đức Chúa Jêsus để học hỏi nơi Ngài với tư cách một người mong ước biết rõ hơn phải sống thể nào cho đẹp lòng Đức Chúa Trời. Ông cho Ngài là một Giáo sư trực tiếp đến từ Đức Chúa Trời.
Muốn hiểu rõ thái độ của Nicôđem đối với Đức Chúa Jêsus, cần phải xem xét một giáo sư có thể làm gì cho người đến học hỏi nơi mình đó. Giáo sư chỉ có thể dạy. Còn học phải là phần việc của sinh viên. Mức cải thiện đời sống sinh viên là do mức phát triển những tài năng kín giấu. Những tài năng nầy do giáo sư kích thích, song giáo sư không thể góp thêm tài năng mà sinh viên không có sẵn. Sự sống của sinh viên có thể phát triển tới mực nào đi nữa, nó cũng vẫn chính là sự sống mà chàng có từ lúc ban đầu. Khi đến thăm Đức Chúa Jêsus như là thăm một Giáo sư, thì Nicôđem hi vọng được biết phương pháp phát triển và cải thiện đời sống của mình cho được đẹp lòng Đức Chúa Trời. Suốt đời ông đã đọc luật pháp để được hướng dẫn mà sống công bình, đạo đức; lúc nầy ông đến cùng Đức Chúa Jêsus với một thái độ thường có.
Đáp lại thái độ mong ước tự cải thiện của Nicôđem đó, Đức Chúa Jêsus đáp rằng: “Quả thật, quả thật, Ta nói cùng ngươi, nếu người nào chẳng được tái sanh, thì không thể thấy Nước Đức Chúa Trời được” (Giăng 3:3). Lời Đức Chúa Jêsus đáp lại Nicôđem chính là lời Con Đức Chúa Trời đáp lại lòng loài người mong ước kiến tạo sự công bình riêng của mình và nhờ mức tốt lành sẵn có mà được vào Nước Đức Chúa Trời. Bởi lời đáp vô song nầy dành cho một người đạo đức, cẩn trọng, học thức, có danh vọng và chăm tìm chân lý nhất thế hệ mình, Đức Chúa Jêsus đã tuyên bố rằng người thiên nhiên, dầu trang nhã, đạo đức và học thức đến bậc nào, cũng không thể nhờ đó mà vào Nước Đức Chúa Trời và Thiên đàng của Ngài được. Trong người ta không có một yếu tố nào khả dĩ phát triển thành một đời sống đáng được Đức Chúa Trời tiếp nhận. Lời tuyên bố nầy là đòn duy nhất loại bỏ tất cả sự giảng dạy kim thời rằng Đức Chúa Jêsus là Giáo sư Tối cao mà thế giới từng biết, và chỉ cần noi theo các điều Ngài truyền dạy, người ta cũng được cứu rỗi! Dầu người được cứu rỗi phải cẩn thận suy xét các điều Đức Chúa Jêsus truyền dạy (tuy rằng nhiều điều chỉ dành riêng cho dân tộc Do Thái), nhưng người chưa được cứu rỗi có thể suốt đời cố gắng làm theo các điều Ngài truyền dạy đó, mà khi đi hết đường đời, vẫn thấy cổng Thiên đàng đóng chặt không cho mình vào Đức Chúa Jêsus phán rằng: “Nếu người nào chẳng được tái sanh, thì không thể thấy Nước Đức Chúa Trời được”.
Dùng theo nguyên văn Hi-lạp, chữ sanh luôn luôn có nghĩa là “có một sự sống mới bắt đầu”. Sự sống nầy luôn luôn mang theo bổn tánh cha mẹ. Khi một con chó sói hoặc một con chiên sanh ra, thì có một sự sống mới theo bổn tánh con chó sói hoặc con chiên, tuỳ theo trường hợp. Khi một đứa trẻ sanh ra trong thế giới nầy, thì có một sự sống mới bắt đầu. Sự sống nầy có bổn tánh loài người, tức là bổn tánh tội lỗi như trên kia đã bày tỏ. Sự sống ấy “sanh ra trong sự gian ác” và “hoài thai trong tội lỗi” (Thi thiên 51:5). Sự sống nầy không thể thay đổi bổn tánh được. Đấng tiên tri Giêrêmi đã viết rằng: “Người Êthiôbi có thể đổi được da mình, hay là con beo đổi được vằn nó chăng? Nếu được, thì các ngươi là kẻ đã làm dữ quen rồi, sẽ làm lành được” (Giêrêmi 13:23). Ta cũng không thể nói rằng trong sự sống ấy có một “điểm sáng thiên thượng”chỉ cần được kích thích để làm cho sự sống ấy thông công với Đức Chúa Trời.
Đức Chúa Jêsus giải thích rằng tái sanh tức là “bởi nước và Thánh Linh mà sanh” (Giăng 3:2). Lời tuyên bố nầy được soi sáng bởi một câu trong thơ tín Phaolô gởi cho Tít: “Ngài cứu chúng ta, không phải vì việc công nghĩa mà chính chúng ta đã làm, bèn là theo sự thương xót Ngài, nhờ sự tắm rửa của sự tái sanh và sự đổi mới của Thánh Linh” (Tít 3:5). “Bởi nước mà sanh” tức là “sự tắm rửa của sự tái sanh”. Ấy là cá nhân được tẩy sạch tội lỗi bởi “dùng nước, là Lời, mà rửa cho tinh sạch” (Êphêsô 5:26). Đức Chúa Jêsus đã phán cùng các môn đồ rằng: “Các ngươi đã được trong sạch vì đạo[17] mà Ta đã phán dạy cho” (Giăng 15:3).
Còn “bởi Thánh Linh mà sanh” tức là “sanh chẳng phải bởi khí huyết, chẳng phải bởi tình dục, cũng chẳng phải bởi ý người, nhưng bởi Đức Chúa Trời vậy” (Giăng 1:13). Ấy là “được tái sanh, chẳng phải bởi giống hay hư nát, nhưng bởi giống chẳng hay hư nát, là bởi Lời Đức Chúa Trời, là Lời vẫn sống và còn lại đời đời” (I Phierơ 1:23).
Bởi sự tái sanh, Đức Chúa Trời trở thành Cha của những kẻ sanh ra như vậy, và họ “được gọi là con cái Đức Chúa Trời” (I Giăng 3:1). Nhưng nếu người ta không tái sanh, thì Đức Chúa Trời không thể nào làm Cha của họ trong thời đại nầy.
Đồng thời với sự tái sanh, lại có bổn tánh mới. Ấy là bổn tánh của Đức Chúa Trời, là Đấng ban sự sống. Sự sống của người sanh bởi xác thịt phải chết vì cớ Ađam phải chết thể nào, thì sự sống của người sanh bởi Đức Chúa Trời cũng còn mãi đời đời vì cớ sự sống của Đức Chúa Trời còn mãi đời đời thể ấy. Ngay từ bây giờ, mọi người được tái sanh đều có sự sống đời đời (Giăng 5:24). Sự sống cũ, sanh bởi xác thịt, có bổn tánh tội lỗi thể nào, thì sự sống mới, sanh bởi Đức Chúa Trời, cũng có bổn tánh vô tội của Ngài thể ấy (II Phierơ 2:4). “Hễ ai sanh bởi Đức Chúa Trời thì chẳng phạm tội, vì giống của Đức Chúa Trời cứ ở trong người, và người không thể phạm tội, vì đã sanh bởi Đức Chúa Trời” (I Giăng 3:9). Sự sống mới nầy chẳng phải là mức phát triển của “điểm sáng thiên thượng” ở trong người thiên nhiên; nhưng là một sự sống mới mẻ, hoàn toàn riêng biệt, do Đức Chúa Trời truyền cho, cũng như sự sống thiên nhiên do cha mẹ truyền cho vậy.
Đức Chúa Jêsus phán rất rõ với Nicôđem rằng sự tái sanh và sự sanh ra thiên nhiên (hoặc của thân thể) là hai hiện trạng hoàn toàn riêng biệt. Ngài phán rằng: “Hễ chi sanh bởi xác thịt là xác thịt, hễ chi sanh bởi Thánh Linh là linh” (Giăng 3:6). Hai sự sanh nầy không có chi giống nhau, nhưng thật ra lại chống nghịch nhau. “Vì xác thịt ưa muốn trái với Thánh Linh, và Thánh Linh trái với xác thịt, hai bên nghịch nhau” (Galati 5:17). “Vì kẻ ở theo xác thịt thì chí hướng về những sự thuộc xác thịt còn kẻ ở theo Thánh Linh thì chí hướng về những sự thuộc Thánh Linh. Vả, chí hướng của xác thịt là sự chết, còn chí hướng của Thánh Linh là sự sống và bình an. Bởi chưng chí hướng của xác thịt (tức là chí hướng của người thiên nhiên) thù nghịch với Đức Chúa Trời, vì nó không phục luật pháp của Đức Chúa Trời, lại cũng không thể phục được” (Rôma 8:5-7). “Vả người thuộc về huyết khí (thiên nhiên) không nhận được những sự thuộc Thánh Linh của Đức Chúa Trời, bởi sự ấy là ngu dại cho người, người cũng chẳng có thể biết được, vì phải phán đoán sự ấy cách thuộc linh” (I Côrinhtô 2:14).
Do những câu Kinh Thánh trên đây, ta thấy rõ rằng không thể dùng giáo dục, văn hoá, hoặc cải cách mà thay đổi địa vị thiên nhiên của người ta thành ra địa vị thiêng liêng trong Nước Đức Chúa Trời được.
Như vậy, sự tái sanh là biện pháp của Đức Chúa Trời để đáp lại giai đoạn hoặc khía cạnh của vấn đề tội lỗi liên quan đến bổn tánh tội lỗi của loài người. Trong ơn cứu rỗi do sự tái sanh, Đức Chúa Trời ban cho loài người một bổn tánh mới mẻ, vô tội, giống như bổn tánh của Ngài.
Nhưng còn bổn tánh cũ tội lỗi của những người đã được cứu rỗi, thì sao? Nó thành ra thể nào? Nó vẫn cứ sống trong cá nhân tín đồ đang khi họ còn sống trong thân thể hay chết hiện tại. Khi người được cứu rỗi qua đời, thần linh họ lìa khỏi thân thể, thì bổn tánh cũ chết đi.
Chính vì bổn tánh cũ tội lỗi còn sống, nên những người được cứu rỗi vẫn có thể phạm tội. Tình trạng nầy xảy ra khi bổn tánh xác thịt thắng thế trong cuộc giao tranh giữa bổn tánh xác thịt và bổn tánh thiêng liêng. Đức Chúa Trời kêu gọi mọi người được cứu rỗi “hãy làm chết các chi thể của anh em ở dưới đất” (Côlôse 3:5), và “hãy kể mình là thật chết đối với tội lỗi, mà sống đối với Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Jêsus Christ” (Rôma 6:11).
Sự dựng nên mới trong Đức Chúa Jêsus Christ
Người được tái sanh đã “được dựng nên trong Đức Chúa Jêsus Christ” (Êphêsô 2:10). Trong Đức Chúa Jêsus Christ, “chịu cắt bì (tức là người Do Thái), hay không chịu cắt bì (tức là người dân ngoại) đều chẳng quan hệ gì, quan hệ là người được dựng nên mới” (Galati 6:15). Sự dựng nên mới nầy thay thế sự dựng nên cũ trong Ađam. “Nếu ai ở trong Đấng Christ, thì nấy là người được dựng nên mới” (II Côrinhtô 5:17). Công trình dựng nên mới nầy chính là “người mới, là người đã được dựng nên y theo Đức Chúa Trời trong sự công nghĩa và sự thánh khiết của lẽ thật” (Êphêsô 4:24).
Ta không khó hiểu rằng đoàn thiên sứ gồm những loài thọ tạo thuộc về công cuộc dựng nên khác hẳn loài người. Cũng có sự khác nhau rất lớn giữa loài người là dòng dõi của Ađam và người được dựng nên mới trong Đức Chúa Jêsus Christ, vì người được dựng nên mới còn cao trọng hơn cả thiên sứ. Cần phải nhận biết rằng người được tái sanh thuộc về đoàn thân vị thiêng liêng cao trọng hơn cả. Ta khó nhận biết điểm ấy đang khi sự sống mới của họ còn ở trong thân thể hay chết hiện tại của sự dựng nên cũ trong Ađam. Trong họ còn có nhiều dấu hiệu của sự dựng nên cũ hoặc thứ nhất.
Ta đã thấy rằng loài người đã thừa hưởng bổn tánh tội lỗi của kẻ làm đầu, là Ađam. Vì cớ tội lỗi của ông, mọi người đã trở thành tội nhân; vả, vì án phạt tội lỗi là sự chết, nên sự chết đã trải qua trên hết mọi người. “Cho nên, như bởi một người mà tội lỗi đã vào thế gian (loài người), lại bởi tội lỗi mà có sự chết, thì sự chết đã lan khắp mọi người” (Rôma 5:12).
Bên trên sự dựng nên thứ nhất, tức là bên trên loài người do Ađam làm đầu, có viết mấy chữ lớn nầy: TỘI LỖI ĐÃ CAI TRỊ, LÀM NÊN SỰ CHẾT! Tình trạng ấy không thay đổi được, vì Đức Chúa Trời đã truyền cho Ađam không được ăn trái cây biết điều thiện và điều ác, và đã dùng sự chết để hình phạt tội không vâng lời. Ấy có nghĩa là sự chết đầy đủ hơn hết, cả phần thân thể lẫn phần thần linh, và sự chết thứ hai, tức là thân thể, hồn và thần linh chung cuộc bị phân rẽ với Đức Chúa Trời cho đến đời đời. Ađam đã vi phạm mạng lịnh của Đức Chúa Trời, nên không thể tránh khỏi hình phạt.
Khi Con Đức Chúa Trời trở nên Người và ngự đến thế gian, thì Ngài ở giữa loài người thuộc về sự dựng nên cũ. Ngài chẳng thuộc về dòng dõi Ađam, nhưng là dòng dõi của người nữ. Ngài được thai dựng bởi Đức Thánh Linh. Vậy, Ngài chẳng có bổn tánh tội lỗi của Ađam. Ngài “đầy lẽ thật”(Giăng 1:14). Ngài “lấy hình trạng của xác thịt tội lỗi” (Rôma 8:3), nhưng trong Ngài chẳng có tội lỗi.
Đoạn, do lòng yêu thương vô hạn, Ngài liên hiệp với loài người và gánh vác tội ác của họ. Ngài là “Chiên Con của Đức Chúa Trời, là Đấng cất tội lỗi của thế gian đi” (Giăng 1:29). Kết quả, “Ngài vì mọi người phải nếm sự chết” (Hêbơrơ 2:9). Ngay đối với Ngài, tội lỗi cũng thắng và làm cho Ngài chết khi Ngài “trở nên tội lỗi vì chúng ta” (II Côrinhtô 5:21).
Nhưng Đức Chúa Trời đã kêu Ngài sống lại, “đã giải thống khổ của sự chết, khiến Ngài sống lại, vì sự chết không thể giữ Ngài được” (Công vụ 2:24). Ngài đã toàn thắng sự chết mà sống lại. Ngài là Con Đức Chúa Trời chăng? Phải, nhưng cũng là Con Người. Khi Ngài sống lại, thì có một công cuộc sáng tạo mới do Đức Chúa Trời đem ra từ sự chết của công cuộc sáng tạo cũ. Mọi người được cứu rỗi đã được sống lại cùng với Đấng Christ trong sự sống lại của Ngài. “Nhưng Đức Chúa Trời… đang khi chúng ta chết trong các sự quá phạm của mình, thì Ngài đã làm cho chúng ta đồng sống động với Đấng Christ - ấy là nhờ ân điển mà anh em được cứu – và khiến cho chúng ta cùng sống lại với Ngài và đồng ngồi với Ngài ở trên trời trong Đức Chúa Jêsus Christ” (Êphêsô 2:4-6).
Trong sự dựng nên thứ nhất có một người làm đầu thể nào, thì cũng một thể ấy, sự dựng nên thứ hai có Đức Chúa JÊSUS CHRIST làm Đầu (Rôma 5:15). Loài người thứ nhất nhận được bổn tánh tội lỗi từ kẻ làm đầu là Ađam. Còn loài người mới nhận được bổn tánh công bình từ Đấng làm Đầu, là Đức Chúa Jêsus Christ, vì “bởi sự vâng phục của một Người mà mọi người đều sẽ trở nên công bình thể ấy” (Rôma 5:19). Trong mỗi trường hợp, bổn tánh của loài người tuỳ theo hành động của thủ lãnh họ, chớ chẳng tuỳ theo hành động của những kẻ phát xuất từ các thủ lãnh ấy.
Luật pháp không thể thay đổi của sự dựng nên thứ nhất là: TỘI LỖI LÀM NÊN SỰ CHẾT thể nào, thì cũng một thể ấy, luật pháp của sự dựng nên mới là: ÂN ĐIỂN NHƠN SỰ CÔNG NGHĨA MÀ LÀM VUA… ĐỂ DẪN ĐẾN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI (Rôma 5:21). Luật pháp của sự dựng nên mới còn bất di bất dịch hơn luật pháp của sự dựng nên thứ nhất nữa: “17 Vả, nếu bởi tội một người mà sự chết đã cai trị bởi một người ấy, thì huống chi những kẻ nhận ân điển và sự ban cho của sự công bình cách dư dật, họ sẽ nhờ một mình Đức Chúa Jêsus Christ mà cai trị trong sự sống là dường nào!”(Rôma 5:17). Vì Đấng làm Đầu sự dựng nên mới không thể bị lên án (Rôma 6:9-10); cho nên các người thuộc trong sự dựng nên mới cũng không thể bị lên án.
Vậy, ơn cứu rỗi gồm một cái gì bội phần trổi hơn sự khôi phục loài người vào địa vị trọn lành nguyên thuỷ khi họ mới được dựng nên. Nó gồm sự sống đời đời mới mẻ và bổn tánh của Đức Chúa Trời. Người nào tin nhận Đức Chúa Jêsus Christ, thì lập tức nhận được sự sống mới nầy. Mọi người “tái sanh” như vậy trở nên những thành phần của sự dựng nên mới mẻ công bình và vô cùng trọn lành trong Đức Chúa Jêsus Christ.
CHƯƠNG 9: ĐƯỢC CỨU RỖI BỞI SỰ SỐNG CỦA NGÀI
T
RONG thơ tín gởi cho tín đồ ở kinh thành La-mã, Sứ đồ Phaolô viết rằng; “Vì nếu đương khi chúng ta còn là kẻ thù nghịch mà đã được hòa lại với Đức Chúa Trời bởi sự chết của Con Ngài, thì huống chi nay đã được hòa lại rồi, lại sẽ nhờ sự sống của Con ấy mà được cứu càng hơn là dường nào” (Rôma 5:10). Hãy chú ý hai chữ: “càng hơn”. Mọi người tin Đức Chúa Jêsus Christ đều được phục hòa với Đức Chúa Trời bởi sự chết của Con Ngài; đó là một điều trọng đại. Nhưng còn một điều trọng đại hơn nữa, là mọi người được phục hòa như vậy sẽ được cứu bởi sự sống của Con Đức Chúa Trời.
Ấy chẳng có nghĩa là họ được cứu bởi đời sống trần gian của Đức Chúa Jêsus và bởi theo gương của Ngài. “Sự sống” nói đây chính là đời sống hiện thời của Đức Chúa Jêsus Christ tại bên hữu Đức Chúa Trời ở trên trời. Điểm nầy được dạy rõ trong khúc Kinh Thánh nầy: “Nhưng Đấng ấy (Đức Chúa Jêsus), vì hằng có đời đời, nên… có thể cứu toàn vẹn những kẻ nhờ Ngài mà đến gần Đức Chúa Trời, vì Ngài hằng sống để cầu thay cho họ” (Hêbơrơ 7: 24, 25).
Ý nghĩa đơn giản của mọi lời nầy là: Sau khi Đức Chúa Jêsus Christ chịu chết trên Thập tự giá để giải thoát loài người khỏi quyền phép của quỉ Sa-tan, để chuộc họ khỏi án phạt của luật pháp và để phục hòa họ với Đức Chúa Trời, thì ngài từ mộ phần sống lại và ngự lên trời, tại đó hiện nay Ngài ở trước mặt Đức Chúa Trời, là Cha. Công việc của Ngài ở đó là lo sao cho mọi người nhờ Ngài (tức là nhờ sự chết của Ngài) mà đến cùng Đức Chúa Trời có thể được cứu khỏi cơn thạnh nộ và được đưa vào cõi vinh hiển đời đời ở trước mặt Đức Chúa Trời, là nơi Ngài đang ngự. Kinh Thánh nói rằng ơn cứu rỗi nầy là “toàn vẹn”.
Những người được phục hòa với Đức Chúa Trời bởi sự chết của Con Ngài, thì làm thế nào mà được cứu bởi sự sống của Ngài? Đây là câu đáp lại; “Ngài hằng sống để cầu thay cho họ”. Nói cách khác, vì Con người cầu thay với Cha Toàn năng cho những kẻ nhờ Ngài mà đến cùng Đức Chúa Trời, nên Đức Chúa Trời vận dụng quyền phép để cứu giúp họ.
Ta được ích lợi vì suy xét tánh chất sự cầu thay của Đức Chúa Jêsus Christ với Đức Chúa Cha. Những trường hợp Ngài cầu thay cho các môn đồ đang khi ở với họ trên thế gian nầy cho ta một ý niệm về hiện nay Ngài cầu thay cho hết thảy tín đồ ở bên hữu Đức Chúa Trời là thể nào.
Ngay trước khi Đức Chúa Jêsus bị Giu-đa phản và bị dân Do Thái bắt, Ngài phán cùng Phierơ rằng: “Simôn ơi, Simôn, nầy, Satan đã đòi sàng sảy ngươi như lúa mì. Song Ta đã cầu nguyện cho ngươi, hầu cho đức tin ngươi không bị mất” (Luca 22:31, 32). Những người thường đọc Kinh Thánh chắc là thông thạo truyện tích nầy (Mác 14: 54, 66-72), và biết sau khi Đức Chúa Jêsus phán mấy lời đó, Phierơ thật đã chối Ngài ba lần. Lời Đức Chúa Jêsus cầu thay cho Phierơ không được Đức Chúa Trời đáp lại sao? Chẳng phải như vậy. Đức Chúa Jêsus không cầu nguyện cho Phierơ khỏi bị cám dỗ, Ngài cũng không cầu nguyện cho ông khỏi yếu đuối mà chối Ngài. Không, Ngài cầu nguyện cho đức tin của Phierơ khỏi ngã mất. Và đức tin của Phierơ thật đã không ngã mất. Dầu ông phạm cùng Chúa vì chối Ngài, thậm chí thốt lời rủa sả, nhưng đức tin của ông chẳng ngã mất. Ông đã được phục hưng và về sau đức tin ông còn mạnh mẽ hơn khi trước. Cũng một thể ấy, hiện nay Đức Chúa Jêsus cầu thay cho những kẻ nhờ Ngài mà đến cùng Đức Chúa Trời, ngõ hầu đức tin họ không ngã mất.
Còn một trường hợp khác Chúa cầu thay cho những kẻ thuộc về ngài, ta thấy chép ở đoạn 17, sách Tin Lành Giăng. Cả đoạn nầy gọi là; “Lời cầu thay của Đấng Christ” . Đức Chúa Jêsus tỏ rõ rằng lời cầu nguyện nầy chẳng vì thế gian (nghĩa là cả loài người), nhưng chỉ vì những kẻ mà Đức Chúa Cha đã ban cho Ngài từ trong thế gian (câu 9). Những kẻ nầy gồm mọi người tin Ngài Con Đức Chúa Trời. Nhưng ngoài những kẻ đang sống thời đó, Ngài còn cầu nguyện cho nhiều người khác nữa. Ấy chẳng phải vì những kẻ đương thời Ngài mà thôi, “nhưng cũng vì kẻ nhơn lời họ mà tin Con nữa” (câu 20). Vậy, lời cầu thay nầy là vì mọi người, trải qua các thế kỷ cho tới ngày nay, đã tin sứ điệp của Tin Lành và nhận Đức Chúa Jêsus Christ làm Cứu Chúa mình.
Ngài cầu xin điều chi cho hết thảy tín đồ trong thời đại nầy? Ngài trước hết cầu nguyện cho họ rằng; “Cha Thánh ơi, xin gìn giữ họ trong Danh Cha mà Cha đã ban cho Con” (câu 11). Những kẻ đã được Ngài chết thế và đã được phục hòa với Đức Chúa Trời bởi sự chết của Ngài, thì trước hết Ngài lo cho họ được gìn giữ an toàn. Ngay bây giờ, Ngài cũng lo như vậy cho những kẻ nhờ Ngài mà đến cùng Đức Chúa Trời. Họ sẽ được “cứu toàn vẹn”.
Có thể nào lời cầu thay của Đức Chúa Jêsus với Chúa Cha đó khônag được đáp lại chăng? Nói vậy tức là nói rằng Đức Chúa Trời không đáp lời cầu nguyện của chính Con Ngài.
Đoạn, Đức Chúa Jêsus mở rộng lời cầu nguyện cho những kẻ thuộc về Ngài: “Con chẳng xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ cho họ khỏi sự ác” (câu 15). Cầu nguyện cho họ được gìn giữ khỏi sự ác ở giữa cõi đời gian ác, thì trọng đại hơn cầu nguyện cho họ được cất khỏi thế gian để được giữ gìn cho khỏi bị hư mất. Nếu nhờ lời cầu nguyện trọng đại hơn không được ứng nghiệm, chắc Ngài đã dâng lời cầu nguyện kém trọng đại. Vậy, nhờ lời Ngài cầu thay, mọi người thuộc về Ngài được gìn giữ khỏi tội ác đang khi ở thế gian nầy. Ấy chẳng có nghĩa là họ không thỉnh thoảng sa sút, tỉ như Phierơ; nhưng có nghĩa là tội ác sẽ chẳng thắng được họ.
Ngài lại cầu nguyện rằng: “Cha ơi, Con muốn Con ở đâu, thì những kẻ Cha đã ban cho Con cũng ở đó với Con, để họ ngắm xem sự vinh hiển của Con, là vinh hiển Cha đã ban cho Con” (câu 24).
Mọi phước nầy là do Ngài cầu thay cho kẻ thuộc về Ngài và là một phần của tình trạng được cứu bởi sự sống của Ngài.
Nhưng sự Đấng Christ cầu thay cho kẻ thuộc về Ngài còn có một khía cạnh khác. Sự cầu thay của Ngài có lẽ có tánh chất một bản biện hộ của luật sư trước tòa án. Có những lúc mà người được cứu rồi còn phạm tội.
Khi tình trạng ấy xảy ra, thì có một tên hiện nay được quyền vào cõi trời[18] để tố cáo con cái Đức Chúa Trời vừa mới phạm tội. Nó chính là quỉ Satan, có danh là “kẻ kiện cáo anh em chúng ta, kẻ ngày đêm kiện cáo chúng ta trước mặt Đức Chúa Trời” (Gióp 1:6). Tình trạng nầy đòi hỏi sự cầu thay của Đấng đang ngồi bên hữu Đức Chúa Trời và kẻ tố cáo không thể buộc tội những người được Đấng Christ cầu thay cho. Kinh Thánh chép rằng: “Ai sẽ cáo kiện kẻ được chọn của Đức Chúa Trời? Há chẳng phải Đức Chúa Trời là Đấng xưng nghĩa cho họ sao? Ai sẽ định tội họ? Há chẳng phải Đức Chúa Jêsus Christ là Đấng đã chết, hơn nữa, cũng đã từ kẻ chết sống lại, hiện nay ở bên hữu Đức Chúa Trời, cũng đương cầu thay cho chúng ta sao?” (Rôma 8:33).
Còn một khúc Kinh Thánh khác trình bày cùng một chân lý ấy: “Hỡi các con bế mọn ta (tức là những kẻ sanh bởi Đức Chúa Trời), ta viết cho các con những điều nầy, hầu cho các con không phạm tội. Nhưng nếu có ai phạm tội, thì chúng ta có một Đấng biện hộ ở nơi Cha, là Đức Chúa Jêsus Christ, Đấng công nghĩa. Ngài vì tội lỗi chúng ta mà làm Tế lễ Vãn hồi, chẳng những vì tội lỗi chúng ta thôi đâu, mà cũng vì tội lỗi cả thế gian nữa” (I Giăng 2:1, 2).
Vậy, khúc sách trên đây dạy rằng khi người đã được xưng công bình bởi Đức Chúa Trời nhờ sự chết của Con Ngài, lỡ phạm tội, thì họ liền bị quỉ Satan tố cáo trước mặt Đức Chúa Trời. Họ bị cáo là đã vi phạm luật pháp thánh của Đức Chúa Trời và, do đó, đáng phải chết. Lúc ấy, Đức Chúa Jêsus Christ, là Đấng công bình, bèn bước vào và biện hộ rằng sự chết của Ngài trên Thập tự giá đã trả hết án phạt tội đặc biệt mà nó tố cáo đó; vậy nên thân chủ của Ngài không thể nào bị đoán phạt. Ấy là nhờ sự biện hộ của Đức Chúa Jêsus Christ mà người được xưng công bình không thể nào bị đoán phạt nữa.
Sự biện hộ nầy chẳng chút tùy thuộc sự xưng tội, ăn năn, cầu nguyện hay là bất cứ điều gì khác mà người phạm tội buộc phải làm. “Nếu có ai phạm tội, thì chúng ta có một Đấng biện hộ ở nơi Cha”. Có như vậy là tốt lắm, vì nhiều khi tín đồ phạm tội cùng Đức Chúa Trời mà không biết-trong trường hợp nầy, nếu họ phải thi hành một điều chi trước đã, thì họ làm thể nào mà được miễn nghị?
Lẽ tự nhiên, sự biện hộ của Đấng Christ không thể là một bước từng trải trong đời sống tín đồ. Ấy là một sự trạng xảy ra trên Thiên đàng chính lúc bất cứ con cái nào của Đức Chúa Trời phạm tội và thường xảy ra nhiều hơn là số đông người vẫn tưởng. Nếu Lời Đức Chúa Trời không bày tỏ, thì chúng ta không thể biết rằng Đức Chúa Jêsus biện hộ cho tín đồ. Tuy nhiên người nào nhận biết chân lý trọng đại nầy và hiểu rằng kẻ được cứu rỗi cũng thường phạm tội là dường nào, thì sẽ được yên ủi và vững lòng lắm!
Đây cũng là một phần trong sự được cứu bởi sự sống của Ngài. Ta còn có thể luận nhiều về đề mục nầy, song những điểm trình bày trên đây cũng đủ tỏ ra phần nầy trong công ơn cứu rỗi của Đức Chúa Trời là quan trọng dường nào. Vì có Đức Chúa Jêsus Christ cầu thay, nên người được cứu rỗi sẽ “được cứu toàn vẹn” hoặc “được cứu tới cuối cùng” theo như ta có thể dịch thơ Hê-bơ-rơ 7: 25. Họ được an ninh đang khi Đấng cầu thay cho họ còn sống, tức là suốt cả cõi đời đời.
CHƯƠNG 10: ĐỊA VỊ ĐỜI ĐỜI CỦA NGƯỜI ĐƯỢC CỨU RỖI
N
HIỀU người tự nhận là tín đồ Đấng Christ, song lại nói rằng họ không để ý tới địa vị tương lai. Họ chỉ chú trọng vào hiện tại. Tuy nhiên, Kinh Thánh dạy rằng địa vị tương lai là quan trọng hơn cả. Thứ nhất, đời hiện tại chỉ kéo dài mấy chục năm, còn đời tương lai là đời đời vô cùng. Thứ hai, dầu có những vinh quang của ơn cứu rỗi mà tín đồ đuợc huởng đang khi còn ở trong thân thể hiện tại, song tội lỗi vẫn hiện diện, và các hậu quả của nó, như nghèo khổ, bịnh tật, chết và sầu não, sẽ không bao giờ bị cất bỏ trong đời hiện tại. Quả thật, đời sống của nguời đuợc cứu rỗi trên mặt đất này chỉ là thời kỳ dự bị để buớc vào địa vị đời đời. Dường như chỉ có ít người nhận biết những vinh quang chờ đợi kẻ được cứu rỗi và địa vị cao quí mà họ sẽ giữ suốt cõi đời đời vô tận. Trí óc hữu hạn không thể nào hiểu thấu mọi sự đó, nhưng Kinh Thánh đã khải thị đủ để tỏ ra rằng đó là tình trạng cao đại hơn hếtt mà một loài thọ tạo của Đức Chúa Trời từng hưởng được.
Địa vị đời đời của các tín đồ thuộc về thời đại nầy được thực hiện khi Đức Chúa Jêsus Christ tái lâm. Vì chính Chúa sẽ từ trời giáng xuống với tiếng kêu bảo, tiếng của thiên sứ cực phẩm, và kèn của Đức Chúa Trời, thì những kẻ chết trong Đấng Christ sẽ sống lại trước; đoạn, chúng ta là kẻ sống mà còn ở lại, đều sẽ cùng họ được cất lên trong đám mây để nghinh tiếp Chúa tại khoảng không; như vậy, chúng ta sẽ ở cùng Chúa luôn luôn” (I Têsalônica 4:16-17). “Chúng ta không ngủ (chết) hết, nhưng hết thảy đều sẽ biến hóa, trong tích tắc, trong nháy mắt, lúc kèn chót thổi. Vì kèn sẽ trổi tiếng, thì kẻ chết đều được sống lại chẳng hay hư nát, và chúng ta đều sẽ được biến hóa. Ấy là thể hay hư nát nầy cần phải mặc lấy sự không hư nát và thể hay chết nầy cần phải mặc lấy sự không hay chết. Khi thể hay hư nát nầy đã mặc lấy sự chẳng hay hư nát, thể hay chết nầy đã mặc lấy sự chẳng hay chết, thì được ứng nghiệm lời đã chép rằng: Sự chết đã bị sự đắc thắng nuốt mất” (I Côrinhtô 15:51-54). Đó là hi vọng hạnh phước mà tín đồ hiện nay đang chờ đợi. Khi tình trạng nầy thực hiện, thì Đức Chúa Trời, bởi công ơn cứu rỗi của Ngài, sẽ cất bỏ hết hậu quả của tội lỗi Ađam, kể cả sự hư nát và sự hay chết.
Nhưng còn nhiều phước hơn nữa. Người được cứu rỗi “sẽ ở cùng Chúa luôn luôn”. Ngài đã hứa với các môn đồ như vậy: “Ta đi để sắm sẵn cho các ngươi một chỗ… Ta sẽ trở lại, tiếp các ngươi về với Ta, hầu cho Ta ở đâu, thì các ngươi cũng ở đó” (Giăng 14:2-3). Từ trước khi sáng thế, các tín đồ đã được Đức Chúa Trời lựa chọn trong Đấng Christ để được “nên thánh, không chỗ trách được trướcmặt Ngài” (Êphêsô 1:4). Đức Chúa Jêsus thưa với Đức Chúa Cha rằng: “Cha ơi, Con muốn Con ở đâu, thì những kẻ Cha đã ban cho Con cũng ở đó với Con, để họ ngắm xem sự vinh hiển của Con, là vinh hiển Cha đã ban cho Con, vì từ trước buổi sáng thế, Cha đã thương yêu Con”(Giăng 17:24). Ở trước mặt Đức Chúa Cha, hưởng lòng yêu thương của Ngài cùng với Con Đức Chúa Trời và ngắm xem sự vinh hiển của Ngài – đó là triển vọng chắc chắn của mỗi người được cứu rỗi. Nhưng còn nhiều hơn nữa.
Chẳng những họ được ở với Đức Chúa Jêsus, song còn giống như Ngài nữa. “Hỡi kẻ yêu dấu, hiện nay chúng ta là con cái Đức Chúa Trời, còn chúng ta sẽ ra thể nào, thì chưa được tỏ ra. song chúng ta biết rằng khi Ngài hiện ra, thì chúng ta sẽ giống như Ngài, vì sẽ thấy Ngài như Ngài vốn thật là vậy” (I Giăng 3:2). “Như chúng ta đã mang ảnh tượng của người thuộc về đất (là Ađam), thì chúng ta cũng sẽ mang ảnh tượng của Người thuộc về trời (là Đức Chúa Jêsus Christ)” (I Côrinhtô 15:49). Vì Đức Chúa Jêsus Christ “sẽ biến hóa thân thể hèn mạt của chúng ta ra giống như thân thể vinh hiển của Ngài” (Philíp 3:21).
Được giống như hình ảnh Con Đức Chúa Trời, thì gợi cho ta nghĩ đến một địa vị rất vinh hiển, cao trọng. Và thật có như vậy, vì Tin Lành kêu gọi chúng ta “hưởng được sự vinh hiển của Chúa chúng ta, là Đức Chúa Jêsus Christ” (II Têsalônica 2:14). Dầu họ chưa nếm trải, nhưng Đức Chúa Jêsus đã ban cho Ngài (Giăng 17:22). Và “khi nào Đấng Christ, là Sự Sống của chúng ta, hiện ra, bấy giờ anh em cũng sẽ hiện ra với Ngài trong sự vinh hiển” (Côlôse 3:4).
Nhưng còn nhiều phước dành cho những kẻ được cứu rỗi, trổi hơn cả tình trạng được giải thoát khỏi các hậu quả của tội lỗi, được ở với Đấng Christ luôn luôn, được nên giống như hình ảnh Ngài và được nhận lấy sự vinh hiển của Ngài. Họ sẽ được liên hiệp trọn vẹn với Đức Chúa Trời. Phước nầy còn vô cùng trổi hơn sự thuận hiệp. Các thiên sứ thuận hiệp trọn vẹn với Đức Chúa Trời, nhưng các vị ấy thuộc về một thứ bậc khác hẳn. Đức Chúa Jêsus cầu nguyện với Đức Chúa Cha rằng: “Con chẳng những vì họ cầu xin thôi đâu, nhưng cũng vì kẻ nhơn lời họ mà tin Con nữa, để họ thảy đều hiệp làm một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha; lại để cho họ cũng là một ở trong Chúng Ta” (Giăng 17:20, 21). Đây chính là được cất đem lên tới bậc Đức Chúa Trời, vì có như vậy mới là thực hiện sự hợp nhất bây giờ đang có giữa Đức Cha và Đức Con.
Để ủng hộ lời quả quyết trên đây còn có mấy lời tuyên bố khác liên quan đến những người được cứu rỗi trong thời đại nầy. “Vì chúng ta là chi thể của Thân Ngài (Đấng Christ). Bởi cớ ấy, người ta phải lìa cha mẹ mà keo sơn với vợ mình, cả hai cùng nên một thịt. Sự mầu nhiệm nầy là lớn, nhưng tôi nói về Đấng Christ và Hội Thánh” (Êphêsô 5:30-31). Đây chúng ta thấy mối liên quan giữa Đấng Christ và những người được cứu rỗi giống như mối liên quan giữa vợ và chồng. Chồng và vợ phải ngang hàng với nhau thể nào, thì cũng một thể ấy, Đấng Christ và Hội Thánh phải ngang hàng với nhau. Như vậy, hạnh phước sau chót của người được cứu rỗi là được cất đem lên bậc của Đức Chúa Trời.
Nếu Đức Chúa Trời chỉ cứu loài người khỏi tội lỗi và khôi phục họ vào địa vị nguyên thủy của Ađam, thì cũng đã kỳ diệu lắm. Nếu Ngài làm thêm chút nữa và cho họ địa vị của thiên sứ, thì lại kỳ diệu hơn. Nếu cho họ địa vị của thiên sứ trưởng, hoặc một sê-ra-phin, hoặc một chê-ru-bin thì lại kỳ diệu hơn nữa. Nhưng Đức Chúa Trời còn làm trổi hơn vô cùng: Ngài cất đem người được cứu rỗi trong thời đại nầy lên chính bậc của Ngài.
Vì thực sự trên đây ít được người ta nhận biết, nên ta đáng phải nhắc tới một điểm, là: Ơn phước nầy càng vĩ đại hơn khi ta nhớ rằng Lu-xi-phe muốn được giống như Đấng Chí Cao và toan thực hiện ý muốn đó bởi sự cố gắng riêng của nó. Chính Satan cũng hứa rằng loài người sẽ giống như Đức Chúa Trời, do đó, nó đã khiến họ phạm tội và loạn nghịch cùng Đức Chúa Trời. Cái địa vị mà cả Lu-xi-phe và loài người loạn nghịch tìm kiếm bởi gắng sức riêng và bởi loạn nghịch, thì Đức Chúa Trời ban vô điều kiện cho những ai tuy đã loạn nghịch, song chịu tiếp nhận Con Ngài làm Tế lế đền chuộc tội mình.
CHƯƠNG 11: ƠN CỨU RỖI CHẮC CHẮN
R
ẤT đông tín đồ Đấng Christ trải qua đường đời mà không biết chắc mình được cứu rỗi chăng? Thậm chí nhiều người quả quyết rằng không thể nào biết chắc về vấn đề ấy. Nhiều người khác tuy chẳng nghi ngờ địa vị được cứu rỗi của mình, song lại không biết chắc mình có được giữ vẹn cho khỏi bị phân rẽ với Đức Chúa Trời và khỏi bị Ngài đoán phạt chăng?
Không biết chắc tương lai ra sao, đó là nguyên nhân của nhiều cuộc khủng hoảng kinh tế trên thế giới. Sự biết chắc có giá trị khôn lường trong mọi giai đoạn của đời người. Trong đời thiêng liêng của mọi người được cứu rỗi cũng vậy, sự biết chắc chiếm một địa vị rất quan trọng. May thay, Lời Đức Chúa Trời (Kinh Thánh) chẳng để loài người không biết chi hết về vấn đề quan trọng nầy!
Người ta làm thế nào để biết chắc mình được cứu rỗi ?
Do một trong ba nguyên nhân sau đây, người ta mới nghi ngờ và không biết chắc mình được cứu rỗi.
Thứ nhất, có thể do ngưồi ta muốn dựa vào cảm giác của mình. Dầu cảm giác có địa vị thích đáng trong đời sống của người được cứu rỗi, nhưng nó chẳng liên quan đến tình trạng được cứu rỗi.
Thứ hai, có thể do người ta cảm thấy mình không đủ tốt lành để được cứu rỗi. Sự cứu rỗi không hề tùy thuộc bậc tốt lành của người ta. Trái lại, nó tùy thuộc lòng nhân lành, yêu thương của Đức Chúa Trời và tùy thuộc người ta tiếp nhận lòng nhân lành, yêu thương của Ngài đó.
Thứ ba, có thể do người ta lý luận về ơn cứu rỗi. Ngay khi người ta bắt đầu lý luận, thì họ lìa khỏi nền tảng đức tin. Vì đức tin là điều kiện duy nhất nơi Đức Chúa Trời đặt ra cho loài người được cứu rỗi, nên họ không biết chắc mình được cứu rỗi một khi lý luận và để cho mối hoài nghi thế chỗ đức tin đơn giản.
Khi một người nào nổi tiếng thành thực hứa làm điều gì, thì lời người đó liền được tin nhận, và ai nấy hành động vì biết chắc rằng người đó sẽ làm đúng như đã hứa. Đức Chúa Trời nổi tiếng là Đấng thành thực. Ngài “không thể nói dối” (Tít 1:2). “Đức Chúa Trời chẳng phải là người để nói dối, cũng chẳng phải là con loài người đặng hối cải. Điều Ngài đã nói, Ngài há sẽ chẳng làm ư? Điều Ngài đã phán, Ngài há sẽ chẳng làm ứng nghiệm sao?” (Dân số ký 23:19). Vậy, loài người có thể tiếp nhận, điều Đức Chúa Trời đã phán trong Lời Ngài, chẳng chút ngần ngại. Lời Đức Chúa Trời phải luôn luôn là căn bản cho ta hiểu biết ơn cứu rỗi. Khi phán dạy về ơn cứu rỗi, Đức Chúa Trời dùng những danh từ dứt khoát, minh bạch, không cần phải giải thích, song thỉnh thoảng cần phải nhấn mạnh lại vì thành kiến của loài người làm cho những danh từ ấy giảm bớt ý nghĩa rõ ràng.
Chính miệng Đức Chúa Jêsus đã phán một lời dứt khoát hơn hết, liên quan đến việc loài người hưởng được ơn cứu rỗi ngay từ bây giờ: “Quả thật, quả thật Ta nói cùng các ngươi, ai nghe lời Ta mà tin Đấng đã sai Ta, thì có sự sống đời đời, không đến sự định tội, song đã vượt khỏi sự chết mà vào sự sống rồi” (Giăng 5:24). Hãy chú ý, Chúa mở đầu lời phán bằng chữ “quả thật” lặp lại hai lần, dường như cần phải nhấn mạnh vào lời theo sau vì cớ loài người chậm tin chắc rằng thật có như vậy. Đoạn, bởi hai chữ “Ta nói”, Đức Chúa Jêsus tuyên bố rằng Ngài có thẩm quyền đầy đủ để phán lời ấy. Và lời quả quyết theo sau đó tự nhiên phải được tiếp nhận là Lời phán trực tiếp của Đức Chúa Trời và là chân lý. Nghi ngờ lời nầy tức là nghi ngờ sự thành thực của chính Con Đức Chúa Trời.
Đức Chúa Jêsus phán về mỗi người tin Ngài rằng họ “có sự sống đời đời”. Ngài không phán rằng họ có thể hoặc sẽ nhận được sự sống đời đời trong tương lai, sau khi chết. Đây là một phước sở hữu hiện tại của mọi người tin. Vì sự sống nầy còn đến đời đời, nên nó không thể chết được. Nó không hay chết như sự sống của thân thể. Không thể nào hiện nay có sự sống đời đời mà lại không được cứu rỗi mãi mãi. Lời tuyên bố nầy cũng đủ rồi, nhưng còn một lời tuyên bố khác theo sau. Người tin Ngài, “không đến sự định tội”. Sự phán xét tội lỗi họ đã giáng vào Đức Chúa Jêsus trên Thập tự giá, nên không còn sự phán xét, không bị định tội, thì chắc phải được cứu rỗi, và được cứu rỗi ngay từ bây giờ. Lại còn một lời thứ ba tuyên bố địa vị được cứu rỗi hiện tại của người tin. Họ “đã vượt khỏi sự chết mà vào sự sống rồi”. Chắc hẳn đó có nghĩa là vượt khỏi địa vị bị hư mất (sự chết) mà vào địa vị được cứu rỗi (sự sống). Đó là một việc đã hoàn thành rồi.
Trước ba lời tuyên bố nầy của chính Con Đức Chúa Trời, thì tuyệt đối không còn nghi ngờ chi nữa về sự cứu rỗi hiện tại của mọi người tin Ngài. Câu hỏi duy nhất có thể nêu lên mối hoài nghi trong trí óc một người là: Tôi đã tin Ngài chưa? Tin nghĩa là nhờ cậy Đức Chúa Trời làm đúng như Ngài đã hứa, và là nhờ cậy Đức Chúa Jêsus Christ đã dâng thân làm Tế lễ chuộc tội cho mình. Tin gồm sự thay đổi tư tưởng đối với tội lỗi, và sự xưng nhận mình là tội nhân cần được cứu rỗi. Tin là một vấn đề hoàn toàn riêng biệt giữa Đức Chúa Trời và tín đồ. Chắc không ai cần phải tự hỏi mình đã tin Ngài hay chưa?
Ta có thể biết chắc mình được Chúa giữ vẹn chăng?
Lời phán của Đức Chúa Jêsus Christ trưng dẫn trên đây chẳng những chứng quyết sự cứu rỗi hiện tại, song cũng đoán chắc với tín đồ rằng sự cứu rỗi họ không thể nào sa sẩy trong tương lai. Người đã nhận được sự sống đời đời, thì không thể nào chết về phần thiêng liêng và bị hư mất. Người không bị phán xét, thì không thể nào bị hư mất, vì chính là trong cuộc phán xét mà người hư mất bị tuyên bố là đời đời phải phân rẽ với Đức Chúa Trời. Người “đã vượt khỏi sự chết mà vào sự sống rồi”, thì đã vượt khỏi khu vực của quỉ Satan mà gia nhập Nước của Con Đức Chúa Trời, và tình trạng đó đã “được ấn chứng” (Êphêsô 1:13) không thể nào thay đổi nữa.
Khi suy luận tánh chất vĩ đại của ơn cứu rỗi, chúng ta đã thấy rằng không thể lường nó bằng những qui tắc áp dụng cho công trình sáng tạo, song chỉ có thể lường bằng những danh từ vô hạn vô lượng vốn ứng dụng cho Đức Chúa Trời. Không thể nào một người được cứu rỗi rồi lại bị hư mất, vì như vậy, thì ơn cứu rỗi có một giới hạn thời gian. Nếu một người chỉ được cứu rỗi mấy năm, thì ơn cứu rỗi chỉ là một công tác tạm thời. Nhưng Đức Chúa Trời phán rằng ơn cứu rỗi còn đến đời đời (Hêbơrơ 5:9)
Mọi điều Đức Chúa Trời làm để cứu rỗi loài người có một tánh chất bền vững, lâu dài, đến nỗi không có sa sẩy ở một điểm nào hết. Sự cứu chuộc khỏi án phạt của luật pháp là do Huyết không hề hư nát của Đức Chúa Jêsus Christ. Giá chuộc nầy không bao giờ có thể mất giá trị, nhưng đảm bảo cho ta sự “cứu chuộc đời đời” (Hêbơrơ 9:12). Người đã được cứu chuộc, thì không bao giờ có thể mắc tội dưới luật pháp.
Sự xưng công bình là do Đức Chúa Trời kể sự công bình vô hạn vô lượng của Đức Chúa Jêsus là của người tin Ngài. Ta không bao giờ có thể tìm thấy sự công bình nầy có điểm bấy toàn nào. Có thể được như vậy là vì tội lỗi của loài người đã được kể là của Đức Chúa Jêsus, và Ngài đã chịu án phạt vì tội lỗi họ. Khi ấy, mọi khoản đòi hỏi của sự công bình Đức Chúa Trời đã được thỏa mãn, nên không hề có gì tố cáo nghịc cùng người đã được xưng công bình nữa.
Khi sự công bình của Đức Chúa Trời đã được thỏa mãn, thì không gì có thể hạn chế sự hành động của lòng yêu thương Ngài. Một cách quyết chắc, mọi người được cứu chuộc, được xưng công bình và được phục hòa với Đức Chúa Trời đều lệ thuộc ân điển Ngài, là sự biểu hiện đầy đủ lòng yêu thương vô hạn vô lượng của Ngài. Họ được thụ hưởng quyền phép Đức Chúa Trời, tức là quyền phép mà Ngài đã vận dụng khi kêu Đức Chúa Jêsus từ kẻ chết sống lại và đặt Đức Chúa Jêsus Christ lên cao hơn muôn vật trong vũ trụ bội phần.
Bởi sự tái sanh, loài người được sanh trong Nước Đức Chúa Trời, cũng như bởi sự sanh thiên nhiên, họ được sanh trong vòng loài người. Sự sống thiêng liêng sanh bởi Đức Chúa Trời đó (Giăng 1:13) được dự phần bổn tánh Ngài, cho nên không thể phạm tội (I Giăng 3:9). Chính là tội lỗi đã phân rẽ loài người với Đức Chúa Trời. Vì sự sống thiêng liêng không thể phạm tội, nên nó không bao giờ có thể bị phân rẽ với Đức Chúa Trời.
Người được tái sanh là một loài sáng tạo mới mẻ trong đó luật pháp bất di dịch là: “21 hầu cho tội lỗi đã cai trị làm nên sự chết thể nào, thì ân điển cũng cai trị bởi sự công bình thể ấy, đặng ban cho sự sống đời đời bởi Đức Chúa Jêsus Christ, là Chúa chúng ta.” (Rôma 5:21).
Mọi người được phục hòa với Đức Chúa Trời bởi sự chết của Con Ngài, thì cũng được cứu bởi sự sống hiện tại của Ngài trên Thiên đàng, tại đó “Ngài hằng sống đã cầu thay cho họ” (Hêbơrơ 7:25).
Vì sự cứu rỗi tuyệt đối do Đức Chúa Trời, vì nó do ân điển và bởi đó loài người tự mình chẳng đáng được hưởng, vì loài người hay sa ngã không thể gom góp chút gì vào sự cứu rỗi mình, nên sự cứu rỗi nầy không thể sa sẩy ở điểm nào hết.
Sự cứu rỗi của người tin Đức Chúa Jêsus Christ cũng chắc chắn và bền vững như chính Đức Chúa Trời vậy.
Có nhiều câu Kinh Thánh tuyên bố sự cứu rỗi là chắc chắn, nhưng đây chúng tôi chỉ cần trưng dẫn mấy câu: “Chiên Ta nghe tiếng Ta, Ta biết nó và nó theo Ta. Ta ban cho nó sự sống đời đời; nó hẳn chẳng hư mất bao giờ, chẳng ai giựt nó khỏi tay Ta. Cha Ta, là Đấng đã ban nó cho Ta, vốn lớn hơn hết, chẳng ai có thể giựt nó khỏi tay Cha Ta” (Giăng 10:27-29).
Trước lời phán như vậy, há có ai cần phải nghi ngờ sự cứu rỗi của mình? há có ai cần phải tự hỏi mình đã được cứu rỗi đời đời chăng?
CHƯƠNG 12: THẾ NÀO LÀ BỊ HƯ MẤT?
Đ
ỨC Chúa Jêsus phán về chính mình Ngài rằng: “Bởi con người đã đến tìm và cứu kẻ hư mất” (Luca 19:10). Sứ đồ Phaolô viết rằng: “Nếu Tin Lành của chúng tôi còn che khuất, là chỉ che khuất cho những kẻ bị hư mất mà thôi” (II Côrinhtô 4:3). Danh từ “hư mất” đây ứng dụng cho người ta và tỏ ra tình trạng của họ trong mối liên quan với Đức Chúa Trời. Vì Đức Chúa Jêsus đến tìm kiếm họ, nên rõ ràng lắm, kẻ hư mất bị lìa xa Đức Chúa Trời. Họ chưa nhận được ơn phước của Tin Lành ân điển; ấy vì Tin Lành về ơn cứu rỗi vô điều kiện bị che khuất khỏi họ, bởi chưng tâm trí họ đã bị Satan, là chúa đời nầy, làm cho mù tối. Vì lời nầy ứng dụng cho kẻ không được cứu rỗi, nên ta phải kết luận rằng mọi người không được cứu rỗi đều bị hư mất.
Người ta chẳng hư mất vì cớ đã làm gì. Họ hư mất cho tới ngày được cứu rỗi. Chỉ có Ađam và Êva hư mất vì cớ tội lỗi của họ và trong họ, cả loài người hư mất. Đức Chúa Jêsus Christ đã ngự đến thế gian hầu cho người ta được cứu rỗi, thoát khỏi tình trạng hư mất.
Vì những kẻ hư mất đều không được cứu rỗi, “nên bị hư mất” trước nhứt có nghĩa là không được hưởng các phước trọng đại mà Đức Chúa Trời ban cho loài người bởi ơn cứu rỗi, như trên kia đã giải luận. Nhưng “bị hư mất còn có ý nghĩa nhiều hơn nữa. Ít người nhận biết ơn cứu rỗi gồm những phước nào và cũng một thể ấy, rất ít người nhận biết “bị hư mất” nghĩa là gì và số phận kẻ hư mất khủng khiếp dường nào.
Đức Chúa Trời thẩm định hiện trạng của kẻ hư mất
Ơn cứu rỗi gồm sự giải thoát khỏi quyền lực tối tăm. Vậy, “bị hư mất” tức là ở trong nước dưới quyền cai trị của quỉ Satan, và do đó, phải ở ngoài Nước Đức Chúa Trời. Ấy là ở trong nước toàn thể thù nghịch Đức Chúa Trời.
Trong Kinh Thánh, Đức Chúa Trời đã thẩm định hiện trạng của kẻ hư mất. Ngài phán rằng họ “chết trong sự quá phạm và tội lỗi mình” (Êphêsô 2:1,5). Theo Kinh Thánh, chết luôn luôn có nghĩa là sự phân rẽ. Sự chết thần linh (thiêng liêng) nghĩa là thần linh phân rẽ với Đức Chúa Trời; còn sự chết thứ hai nghĩa là thần linh và thân thể đời đời bị phân rẽ với Đức Chúa Trời (Khải huyền 20:14). “Chết trong sự quá phạm và tội lỗi” tức là chết phần thần linh, nghĩa là thần linh bị phân rẽ với Đức Chúa Trời.
Có người giải thích rằng chết là hết tương ứng với mọi vật chung quanh. Vậy, chết phần thần linh tức là hết tương ứng với Đức Chúa Trời.
Khi Ađam và Êva ăn trái cây cấm (Sáng thế ký 3:6), thì họ chết phần thần linh. Tội lỗi của họ phân rẽ họ với Đức Chúa Trời. Từ đó tới nay, tội lỗi vẫn phân rẽ loài người với Đức Chúa Trời. Chính vì đó mà những kẻ nào không được cứu rỗi, thì “chết trong sự quá phạm và tội lỗi mình.”
Chẳng những là tội lỗi dưới những hình thức vô luân lý thô lỗ, tỉ như sát nhân, say sưa, tà dâm, giả mạo, hối lộ và nhiều việc giống như vậy, song còn là lắm điều khác vẫn không bị coi là tội lỗi. Mọi sự không lên tới mức trọn lành và thánh khiết của Đức Chúa Trời, thì là tội lỗi. Kinh Thánh chép rằng: “Mọi người đều đã phạm tội, thiếu mất sự vinh hiển của Đức Chúa Trời” (Rôma 3:23). Cả đến những người đạo đức, trang nhã hơn hết cũng bị phân rẽ với Đức Chúa Trời vì cớ tội lỗi.
Hơn nữa, mọi người tự nhiên là tội nhân vì họ thuộc về dòng giống tội lỗi của Ađam, là tội nhân nguyên thủy. Nếu người nào chưa giải quyết vấn đề tội lỗi với Đức Chúa Trời, thì người ấy vẫn bị phân rẽ với Ngài vì cớ tội lỗi.
Do Ađam thay đổi thái độ đối với Đức Chúa Trời sau khi phạm tội, ta học biết ý nghĩa của sự “chết trong sự quá phạm và tội lỗi mình”. Ông giấu mình giữa bụi cây trong vườn để tránh khỏi hiện diện của Đức Chúa Trời, vì ông “sợ” (Sáng thế ký 3:8-10). Những người chết phần thần linh thì sợ Đức Chúa Trời. Trong nơi sâu thẳm của lòng, có một cái gì, dầu nhiều khi im lìm, song làm cho người chưa được cứu rỗi sợ gặp Đức Chúa Trời, cũng như Ađam đã sợ vậy. Họ ít nhận biết rằng Đức Chúa Trời lấy lòng yêu thương mà tìm kiếm Ađam thể nào, thì cũng một thể ấy, ngày nay Ngài lấy lòng yêu thương mà tìm kiếm họ và đem họ trở về hòa hiệp và liên kết với Ngài.
Kinh Thánh lại nói rằng người hư mất “xa cách Đấng Christ[19],…không có hi vọng, và ở thế gian không có Đức Chúa Trời” (Êphêsô 2:12). “Không có Đấng Christ” tức là không có phương pháp duy nhất để đến cùng Đức Chúa Trời và nhận lãnh các phước lành của Ngài. Đức Chúa Jêsus phán rằng: “Ta là Đường Đi, Lẽ Thật và Sự Sống; chẳng bởi Ta, thì không ai được đến cùng Cha” (Giăng 14:6). “Không có Đấng Christ” tức là không có hi vọng gì về địa vị tương lai. “Không có Đức Chúa Trời” tức là không có Đấng dựng nên và nâng đỡ loài người cùng vũ trụ, là không có Đức Chúa Trời làm Cha mình. Ấy tức là “cách xa” Đức Chúa Trời (Êphêsô 2:13). Phải, những ai không có Đức Chúa Trời cũng vẫn được hưởng nhiều phước do thiên cơ của Ngài, song họ không có quyền được Ngài săn sóc và trù liệu cho mình. Họ chẳng có địa vị gì trước mặt Ngài, vì họ thuộc về một nước bội nghịch. Chỉ nhân Danh Đức Chúa Jêsus, người ta mới có quyền đòi xin ơn phước nơi Đức Chúa Trời. Đức Chúa Jêsus phán rằng: “Quả thật, quả thật, Ta nói cùng các ngươi, nếu các ngươi xin Cha điều gì, thì Ngài chắc nhân Danh Ta mà ban cho các ngươi” (Giăng 16:23). Người hư mất không thể nào cầu xin nhân Danh Đấng mà họ chẳng chịu tiếp nhận.
Những người được cứu rỗi, thì đã được “gọi ra khỏi sự tối tăm đến sự sáng láng lạ lùng của Ngài” (I Phierơ 2:9). Còn người không được cứu rỗi, thì vẫn ở trong tối tăm. Kinh Thánh chép rằng: “Lòng của họ tối tăm, xa cách sự sống của Đức Chúa Trời bởi sự ngu muội trong họ, do lòng cứng cỏi của họ” (Êphêsô 4:18). Người ta có thể rất thông sáng đối với những sự vật đời nầy, song vẫn tối tăm đối với những sự vật thiêng liêng. “Thần của đời nầy đã làm mù tâm tư của kẻ chẳng tin, để sự sáng chói của Tin Lành vinh hiển của Đấng Christ … không chiếu đến họ” (II Côrinhtô 4:4).
Người chưa được cứu rỗi có danh hiệu là “con cái bội nghịch” (Êphêsô 2:2). Ấy vì họ “không phục Tin Lành của Chúa chúng ta, là Đức Chúa Jêsus” (II Têsalônica 1:8). Vì không vâng phục Tin Lành và vì chối bỏ Con Đức Chúa Trời, nên họ “là con cái của sự thạnh nộ” (Êphêsô 2:3). “Ai không tin Con, thì sẽ chẳng thấy sự sống đâu, nhưng cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời vẫn ở trên người đó” (Giăng 3:36).
Trên đây là bức tranh không đẹp đẽ mô tả hiện trạng của người chưa được cứu rỗi; nhưng đó chính là lời Đức Chúa Trời mô tả tình trạng của họ và thật đúng như vậy.
Địa vị chung kết của người hư mất.
Những người không chú ý đến Tin Lành của Đức Chúa Jêsus Christ, nhưng chối bỏ ơn cứu rỗi, thì “sẽ bị hình phạt diệt vong đời đời, cách biệt sự Hiện diện của Chúa và sự vinh hiển của quyền năng Ngài” (II Têsalônica 1:9). Đó là một tình trạng đời đời. Trong đời nầy, người ta có cơ hội được cứu rỗi và được dẫn về với Đức Chúa Trời, nhưng khi họ đã bị phân rẽ chung kết với Ngài, thì sẽ không còn cơ hội ấy nữa.
Chẳng những bị phận cách với Hiện diện của Chúa, nhưng cũng bị phân cách với quyền năng Ngài; như vậy, họ không được hưởng một phước lành nào phát xuất từ nơi Ngài cả.
Nhiều người không suy nghĩ nghiêm trang về sự bị phân rẽ với Đức Chúa Trời. Họ không có liên quan gì với Ngài lúc bây giờ và không nhìn biết rằng mình nhận được chút chi từ nơi Ngài. Họ tưởng mình chẳng có Ngài thì cũng không sao. Họ ít nhìn biết rằng mỗi giờ, phút sống ở đời, mình vẫn tùy thuộc Ngài và nhận phước từ nơi Ngài. Không khí mà họ thở hút do Ngài chỉ định. Họ gọi đó là thiên nhiên, song Đức Chúa Trời đã dựng nên mọi sự đó và nâng đỡ mọi sự đó bởi quyền năng Ngài. Nếu không nhờ Đức Chúa Trời dự bị cho loài người, thì ai nấy phải chết trong giây lát.
Khi loài người bị phân rẽ với vinh quang của quyền năng Đức Chúa Trời, thì không còn hưởng chút ơn lành nào do thiên cơ của Ngài nữa. Họ sẽ bị hoàn toàn phân rẽ với mọi giai đoạn dự bị của Ngài. Tình trạng đó gọi là “sự mù mịt của tối tăm” (Giu-đe 13). Không có một tia sáng nào xuyên qua bóng tối tăm cực điểm; không có một giọt mưa làm cho đã cơn khát như điên cuồng; không có sao mai báo hiệu một ngày mới sau đêm dài vô tận.
Người hư mất ở trong tình trạng ấy cũng được mô tả là bị quăng vào hồ lửa. Kinh Thánh chép rằng mọi người “không được ghi vào Sách Sự Sống, thì bị quăng xuống hồ lửa” (Khải huyền 20:15). Có người cho đó là nói bóng mà thôi. Nếu vậy, thì tình trạng càng nghiêm trọng, vì sự thật bao giờ cũng trổi hơn hình bóng. Tình trạng nầy cũng gọi là “địa ngục, là nơi sâu bọ chẳng hề chết, lửa chẳng hề tắt” (Mác 9:47, 48). Cũng gọi là “chốn tối tăm ở ngoài, tại đó sẽ có khóc lóc và nghiến răng” (Mathiơ 8:12).
Mọi người không được cứu rỗi, thì đã bị lên án rồi. Đức Chúa Jêsus phán rằng: “Ai không tin, thì đã bị định tội rồi, vì không tin đến Danh Con độc sanh của Đức Chúa Trời” (Giăng 3:18). Hiện nay họ sống dưới bản án treo; nhưng nếu họ chẳng quay về với Đức Chúa Trời và tiếp nhận Đức Chúa Jêsus Christ làm Cứu Chúa, thì bản án chắc sẽ thi hành.
Ta sẽ thấy yếu tố của tội lỗi là mong ước được độc lập với Đức Chúa Trời. Địa vị chung kết của người hư mất sẽ là địa vị không thể nào tùy thuộc Ngài nữa. Vậy, không hơn, không kém, địa ngục chính là nơi thực hiện sự mong ước của loài người và là hiệu quả tối hậu do hành động của họ.
CHƯƠNG 13: NẾU CHÚNG TA XAO LÃNG, THÌ THỂ NÀO THOÁT KHỎI ĐƯỢC?
T
RONG những chương trước, chúng tôi đã nêu lên tánh chất vĩ đại của ơn cứu rỗi. Tuyệt điểm của ơn nầy là cõi đời đời, là chẳng những được ở trước mặt Đức Chúa Trời, song còn có hình ảnh của chính Con Ngài, và được liên hiệp trọn vẹn với Đức Cha và Đức Con. Chúng tôi cũng tỏ ra rằng ơn cứu rỗi nầy dành cho mọi người. Bởi Đức Chúa Jêsus Christ, Đức Chúa Trời đã hoàn toàn thực hiện ơn cứu rỗi nầy cho loài người. Ngài biến nó như một ân tứ vô điều kiện cho mọi người chịu nhận lấy. Rốt lại, chúng tôi đã mô tả sự đoán phạt kinh khiếp luôn cả sự phân rẽ đời đời với Đức Chúa Trời và kế hoạch dự bị của ngài cho loài người theo tư cách Đấng Tạo Hóa và Cứu Chúa. Chỉ còn một điểm cần phải giải luận. Ấy là tình trạng khủng khiếp có thể mất hết phước lành do ơn cứu rỗi và phải chịu sự đoán phạt đáng kinh sợ của Đức Chúa Trời.
“Vì nếu lời thiên sứ truyền đã là vững chắc và các sự quá phạm cùng các sự không vâng phục đều chịu báo ứng công bình rồi, mà nếu chúng ta xao lãng sự cứu rỗi lớn dường ấy, thì thể nào thoát khỏi được? Sự cứu rỗi ấy Chúa truyền ra trước hết, rồi có những kẻ nghe chứng thực cho chúng ta” (Hê-bơ-rơ 2:2,3).
Ý tưởng thứ nhất ở đây là: Ngoài ơn cứu rỗi, chẳng còn cách nào thoát khỏi sự đoán phạt của Đức Chúa Trời, bằng không, sẽ phải gặp Ngài với tư cách Quan Án xét xử mình. Nếu xao lãng ơn cứu rỗi ấy, thì họ không thể trình bày một duyên cớ nào khả dĩ được chấp thuận để thoát khỏi hình phạt.
Ý tưởng thứ hai đã nêu lên rồi, là: Khủng khiếp thay, người ta có thể xao lãng ơn cứu rỗi vĩ đại của Đức Chúa Trời! Chữ dùng trong câu Kinh Thánh nầy là “xao lãng” hoặc “bỏ lơ”. Không phải là chối bỏ đâu. Số người bị hư mất vì chối bỏ ơn ấy. Có lẽ tương đối chỉ ít người thật cân nhắc kết cuộc, rồi có ý chối bỏ ơn cứu rỗi. Phần nhiều người trì hoãn.
Khi Phaolô đứng trước Phêlít mà “giảng luận về sự công bình, sự tiết chế và sự xét đoán tương lai, thì Phêlít cả sợ, mà rằng: Bây giờ hãy tạm lui, đợi khi ta rảnh, sẽ gọi ngươi lại” (Công 24:25). Kinh Thánh không hề chép Phêlít có cơ hội nào tốt hơn để tiếp nhận ơn cứu rỗi nữa.
Người ta thuật rằng một nhà phát minh trứ danh của thế hệ trước đây có nói: “Tôi sẽ để 5 năm sau chót của đời mình nghiên cứu đạo lý”. Nhưng ông không được báo trước lúc nào 5 năm sau chót ấy bắt đầu, nên ông đã qua đời và theo chỗ người ta biết, thì ông chưa hề suy nghĩ đến vấn đề cứu rỗi tối quan trọng.
Người đời chạy nhào đến cõi đời đời, mà không chút suy nghĩ tới núi Gôgôtha và tới Đấng Christ đã chịu chết trên núi ấy, hầu cho họ được sống. Họ đi vào một cõi chết vô tận-cả thân thể và thần linh bị phân rẽ với Đức Chúa Trời và lòng yêu thương Ngài, cùng mọi phước lành do lòng yêu thương đó.
Trước những kết cuộc lớn lao dường ấy, tại sao rất nhiều người nam, người nữ và con trẻ cứ xao lãng, không chịu suy xét và tiếp nhận ơn cứu rỗi vô điều kiện của Đức Chúa Trời? Tại sao có một số người đi quá xa mà chối bỏ ơn ấy?
Dường như ta có thể yên trí nói rằng bất cứ lý trí của người ta là thế nào, nó cũng tự nhiên ở trong tình trạng “yêu mến sự tối tăm” (Giăng 3;19). Theo như Đức Chúa Trời nhận thấy, sự tối tăm không phải giới hạn ở những việc mà bọn quỉ dữ làm. Đức Chúa Jêsus ngự đến thế gian để làm “sự sáng soi trong tối tăm” (Giăng 1:5). Nếu ở ngoài Ngài, thì người ta ở trong tối tăm. Như trên kia đã nói, ấy chẳng phải là ngu tối phần trí tuệ, vì trong thế gian nầy có rất nhiều sự sáng của trí tuệ. Nhưng có nghĩa là tối tăm phần thần linh. Có rất nhiều điều thực hiện trọng phạm vi văn hoá, trang nhã, mạo hiểm, tiến bộ và công nghiệp của loài người, nhưng theo như Đức Chúa Trời thẩm định, nó vẫn là công việc tối tăm.
Những điều ấy tự nó không phải là hư xấu, song người ta ưa thích những điều ấy đến nỗi không dẹp bỏ nó để suy xét việc tối quan trọng duy nhất, là ơn cứu rỗi. Người ta ham mến các cuộc vui chơi đời nầy đến nỗi xao lãng không chịu nghĩ đến sự an toàn, hạnh phước đời đời của mình. Thế gian thật có nhiều khoái lạc hiến cho họ: sự kính chuộng, danh vọng, được quần chúng hâm mộ, công nghiệp, vui chơi, thể thao và còn nhiều điều khác nữa. Nhưng khi thế gian nầy qua đi, thì mọi khoái lạc nầy cũng biến mất. Nó sẽ biến mất lâu lắm trước khi thế gian nầy qua đi, vì số ngày dành cho mỗi người sống trên mặt đất đã đếm cả rồi. Không có gì còn lại. Và tệ hại hơn nữa, người ta xao lãng ơn cứu rỗi của Đức Chúa Trời cho đến khi trễ quá, không tiếp nhận được nữa.
Còn lý do thứ hai khiến người ta xao lãng ơn cứu rỗi vĩ đại của Đức Chúa Trời, là họ tin rằng mình có thể được cứu rỗi nhờ gắng sức riêng. Nhiều người cố gắng đoạt sự cứu rỗi bởi lòng nhân đức của mình. Họ thường sẵn sàng chịu hi sinh lớn lao và từ bỏ hết khoái lạc trần gian để được Đức Chúa Trời ban ân huệ và cứu rỗi. Đang khi gắng sức như vậy, họ đã xao lãng ơn cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Nếu người ta chưa thấy rằng sự cố gắng của kẻ trang nhã, đạo đức hơn hết cũng vẫn hoàn toàn vô ích, không cứu rỗi họ được, thì họ sẽ cứ xao lãng hoặc chối bỏ ơn cứu rỗi của Đức Chúa Trời.
Như đã giải luận trước kia, người Pharisi không được cứu rỗi; họ chối bỏ ơn cứu rỗi của Đức Chúa Trời vì lo lập vững sự công bình riêng của mình. Có lẽ chưa hề có một nhóm người sùng đạo nào sốt sắng vì Đấng Chân Thần hơn họ, nhưng họ nương cậy sự nhân đức của mình, không cần đến ơn cứu rỗi vô điều kiện của Đức Chúa Trời ban cho.
Loài người mong ước được cứu rỗi bởi công đức của mình; sự mong ước đó đâm rễ ở chỗ họ không muốn nhìn nhận mình đang đứng vào tình trạng hư mất và hoàn toàn tuyệt vọng. Hơn bất cứ điều chi khác, loài người chẳng muốn nhìn nhận mình bị tai hại vì cớ tội lỗi. Họ không muốn xưng nhận như Phaolô rằng: “Trong tôi chẳng có điều gì lương thiện” (Rôma 7:18). Họ không muốn tự tuyên bố khánh tận trước toà của Quan Án Đời Đời, không muốn kể mình tuyệt đối chẳng có tiền của chi, và tổng số nợ lớn quá, không sao trả được. Họ không chịu viết chữ “VÔ GIÁ TRỊ” trên hết thảy việc nhân đức và sự nghiệp của mình. Họ muốn điều đình với Đức Chúa Trời, dầu chỉ trả được một phần trăm cũng được[20] (4).
Bất cứ nguyên nhân là gì, hoặc là mải miết ham mê những vật đời nầy, hay là cố gắng đoạt ơn cứu rỗi, kết quả cũng vẫn chỉ là một. Người ta xao lãng ơn cứu rỗi và sự đoán phạt của Đức Chúa Trời chắc sẽ giáng trên họ.
Sự trạng nầy đã được giải luận và nhấn mạnh rồi, nhưng nó quan trọng vô biên, nên cần phải nhắc lại ở đây bằng những danh từ khác để làm phần kết luận của sách nầy.
Người ta bị hư mất chỉ vì quyết không chịu tiếp nhận Đức Chúa Jêsus Christ, là Đường dẫn đến Đức Chúa Cha – ngoài Đường ấy, không thể nào có sự cứu rỗi.
Người ta hư mất chẳng phải vì họ không tốt lành đủ để được vào Thiên đàng. Họ hư mất chẳng phải về dòng giống tội lỗi của Ađam. Họ hư mất chẳng phải vì những tội lỗi mình đã phạm, dầu là tàn nhẫn chừng nào. Họ hư mất chẳng phải vì sanh ra đã là tội nhân. Bản án tuyên cho loài người vì cớ mọi tình trạng đó đã bị cất bỏ khi Con Đức Chúa Trời chịu bản án ấy trên Thập tự giá trồng ở ngọn đồi Gô-gô-tha. Tại đó, với tư cách Chiên Con của Đức Chúa Trời[21], Ngài đã “cất tội lỗi của thế gian đi” (Giăng 1:29). Quả thật, Ngài đến thế gian nầy vì mục đích ấy. Ngày nay, vì tội lỗi đã bị đoán phạt trên Thập tự giá rồi; nên Đức Chúa Trời ban sự sống đời đời cho mọi người chịu nhận Con Ngài là Đấng đã làm thỏa mãn mọi đòi hỏi của sự công bình Ngài. Những người không chịu tiếp nhận Con Ngài như vậy, thì sẽ bị đoán xét và hình phạt phải “đời đời cách biệt sự Hiện diện của Chúa và sự vinh hiển của quyền năng Ngài (II Têsalônica 1:9). “Ai không tin, thì đã bị định tội rồi, vì không tin đến Danh Con độc sanh của Đức Chúa Trời” (Giăng 3:18). “Ai không tin Con, thì sẽ chẳng thấy sự sống đâu, nhưng cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời vẫn ở trên người đó” (Giăng 3:36). “Chẳng có sự cứu rỗi trong đấng nào khác (ngoài ra Đức Chúa Jêsus Christ), vì dưới trời chẳng có danh nào khác ban cho loài người để chúng ta cần phải nhờ đó mà được cứu” (Công vụ 4:12).
Một ngày kia, cách đây gần 2000 năm, Philát nói rằng: “Còn JÊSUS gọi là CHRIST, thì ta phải xử thế nào?” (Mathiơ 27:22). Mỗi người phải trả lời câu hỏi ấy. Người ta không thể tránh khỏi câu hỏi ấy. Ai nấy phải tiếp nhận Ngài hoặc xao lãng rồi chối bỏ Ngài. Không có tình trạng nào ở giữa hai thái độ ấy.
Có người nói: “Làm sao Đức Chúa Trời từ ái bỏ người ta xuống địa ngục được?” Đáng lẽ phải hỏi rằng: “Đức Chúa Trời đầy lòng yêu thương đã ban Con Ngài cứu loài người khỏi địa ngục, mà họ lại chối bỏ phương pháp cứu mình khỏi địa ngục đó, thì Ngài còn làm chi khác được nếu không bỏ họ xuống địa ngục”?.
Nếu anh em chối bỏ ơn cứu rỗi vĩ đại dường ấy, thì làm sao tránh khỏi hình phạt được?
Với những ai chưa tiếp nhận Đức Chúa Jêsus Christ và ơn cứu rỗi của Đức Chúa Trời bởi Đức Chúa Jêsus Christ, Kinh Thánh vẫn còn lời mời sau chót dành cho họ: “Ai khát cũng hãy đến. Kẻ nào muốn, hãy nhận lấy nước sự sống nhưng không” (Khải huyền 22:17).
HẾT
[1] Hoặc: đời sống
[2] Hoặc dịch là “Đấng”, tức là Đức Chúa Jêsus Christ
[3] Hoặc: xưng công bình
[4] Nguyên văn là: “đã cầm quyền” (quá khứ)
[5] Coefficient de dilatation
[6] Gravite specifique
[7] Point de fusion
[8] Conductibilite
[9] Resistance à la traction
[10] Hoặc dịch là: “nhờ cậy”.
[11] Dịch là: hình ảnh, thì đúng hơn
[12] Em-ma-nu-ên” nghĩa là: “Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta.
[13] Nguyên văn là: “đã cầm quyền”
[14] Hoặc dịch là: “cuộc đời”.
[15] Hoặc dịch là: “dâng”, “hiến”
[16] Tức là mức hiểu biết luân lý, đạo đức
[17] Có thể dịch là: “Lời”
[18] Có thể dịch là: “Cũng là một trong Chúng Ta”
[19] Có thể dịch là: “Không có Đấng Christ”
[20] Đại lý của khúc sách nầy là: Tội nhân ví như con nợ, Đức Chúa Trời ví như Chủ Nợ; dầu không tự mình đền tội mình được, nhưng loài người chẳng chịu nhìn nhận thực trạng ấy mà cầu xin Đức Chúa Trời tha thứ cho mình bởi sự chết đền tội của Đức Chúa Jêsus Christ trên Thập tự giá.
[21] Thời Cựu Ước, dân Do Thái dâng huyết con chiên để chuộc tội làm hình bóng về Đức Chúa Jêsus Christ đổ Huyết chuộc tội cho người.