TRƯỜNG CAO ĐẲNG KINH TẾ ĐỐI NGOẠI.docx

TRƯỜNG CAO ĐẲNG KINH TẾ ĐỐI NGOẠIDescription: C:\Users\HS\Desktop\truong-cao-dang-kinh-te-doi-ngoai.jpg

KHOA THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ

❧•❧

           

 

GVHD: LƯƠNG BẢO LINH

Nhóm thực hiện:

        NGUYỄN MINH DUY        XNK17I

        LÝ CHÍ THANH THẢO        XNK17I

        LÊ THỊ NGỌC LINH        XNK17I

        HỒ THỊ TRÚC LY        XNK17I

        NGUYỄN THỊ MỘNG HẰNG        XNK17I

        LÊ THỊ MỸ DUYÊN        XNK17I

        THIỀU THỊ THÙY TRANG        XNK17I


MỤC LỤC

 

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮC        

LỜI MỞ ĐẦU        

CHƯƠNG I : TỔNG QUAN CHUNG VỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI.        

I.        KHÁI NIỆM TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI        

1.        Sự hình thành tỷ giá hối đoái        

2.        Khái niệm về tỷ giá hối đoái (Exchange rate).        

II.        PHÂN LOẠI TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI.        

1.        Căn cứ vào nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối, tỷ giá hối đoái được chia ra làm 2 loại:        

2.        Căn cứ vào chế độ quản lý tỷ giá, tỷ giá hối đoái được chia ra thành tỷ giá cố định và tỷ giá thả nổi:        

3.        Căn cứ vào phương diện thanh toán quốc tế, tỷ giá hối đoái được chia ra thành:        

4.        Căn cứ vào thời điểm mua bán ngoại hối, tỷ giá hối đoái được chia ra thành:        

5.        Căn cứ vào thời điểm chuyển vốn, tỷ giá hối đoái được chia ra thành        

6.        Căn cứ vào hình thức thanh toán sử dụng:        

7.        Căn cứ vào mối quan hệ tỷ giá với chỉ số lạm phát, tỷ giá hối đoái được chia ra thành tỷ giá danh nghĩa và tỷ giá thực:        

III.        CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI.        

1.        Chênh lệch lạm phát của hai nước làm ảnh hưởng tới tỷ giá hối đoái        

2.        Chênh lệch lãi suất giữa các nước        

3.        Tình hình thiếu thừa trong cán cân thanh toán quốc tế        

4.        Tình hình tăng trưởng hay suy thoái kinh tế        

5.        Yếu tố tâm lý và các hoạt động đầu cơ        

IV.        PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI.        

1.        Phương pháp yết tỷ giá.        

2.        Phương pháp biểu thị tỷ giá hối đoái        

a.        Phương pháp trực tiếp        

b.        Phương pháp gián tiếp        

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ CHÍNH SÁCH ĐIỀU CHỈNH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006-2010.        

I.        THỰC TRẠNG TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI 2006-2010        

1.        THỰC TRẠNG TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI NĂM 2006-2007        

2.        THỰC TRẠNG TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI 2008        

3.        THỰC TRẠNG TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI 2009.        

4.        THỰC TRẠNG TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI NĂM 2010        

II.        CHÍNH SÁCH ĐIỀU CHỈNH TỶ GIÁ HỐI ĐỐI Ở VIỆT NAM        

1.        Chính sách ngoại hối        

2.        Chính sách đối với ngoại tệ        

4.        Các chính sách điều chỉnh kinh tế vĩ mô        

5.        Một số giải pháp khác        

III.        MỘT SỐ GIẢI PHÁP ỔN ĐỊNH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI Ở VIỆT NAM.        

1.        Tỷ giá hối đoái ở Việt Nam - những vấn đề đặt ra.        

2.        Các giải pháp kiểm soát lạm phát mà NHNN đã thực hiện .        

KẾT LUẬN        

       


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮC

ADB

Ngân hàng phát triển châu Á

CP

Chính phủ

CNY

Nhân dân tệ

EUR

Euro

FDI

Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài

GBP

Bảng Anh

IMF

Quỹ tiền tệ thế giới

JPY

Yên Nhật

LNH

Liên ngân hàng

ODA

Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức

OECD        

Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế

NHNN

Ngân hàng nhà nước

NHTM

Ngân hàng thương mại

NHTW

Ngân hàng trung ương

SDR

Đồng tiền tập thể

TCTD

Tổ chức tín dụng

TGHĐ

Tỷ giá hối đoái

USD

Đôla Mỹ

VND

Đồng Việt Nam


LỜI MỞ ĐẦU

Trong 20 năm trở lại đây, chúng ta đã từng chứng kiến những sự kiện Tài chính – Tiền tệ làm rung chuyển thế giới, đó là: cuộc khủng hoảng đồng peso Mexico tháng 12/1994; sự mất giá kỉ lục của USD vào năm 1995, để rồi lên giá đột biến sau đó; cuộc khủng hoảng Tài chính – Tiền tệ Đông Nam Á vào năm 1997 – 1998; sự ra đời đồng tiền chung Châu Âu EURO; cuộc khủng hoảng tài chính thế giới  bắt đầu từ Mỹ năm 2008, những sản phẩm mới trên thị trường ngoại hối...Những biến động về Tài chính -  Tiền tệ với quy mô và tốc độ chưa từng có, đã ảnh hưởng lây lan có tính dây chuyền và để lại những hậu quả nặng nề cho nhiều quốc gia, nhiều tập đoàn kinh tế và công ty.

TGHĐ luôn gắn liền với các nền kinh tế thị trường mở, do đó trước nhu cầu hội nhập quốc tế, đòi hỏi chúng ta phải có sự am hiểu thấu đấu về lĩnh vực này, đặc biệt là những kiến thức hiện đại đang được áp dụng phổ biến trên thế giới. TGHĐ là một trong những vấn đề phức tạp, nhạy cảm và là một yếu tố vô cùng quan trọng. Không ít nền kinh tế lâm vào tình trạng khó khăn do TGHĐ gây ra. TGHĐ đang tạo ra một sự chú ý đặc biệt đối với các nhà kinh tế, các nhà chính trị và nó đã trở thành một chủ đề thảo luận sôi nổi và kéo dài không chỉ ở Việt Nam mà cả trên thế giới. Trong một loạt các chính sách tài chính - tiền tệ, thì chính sách điều chỉnh TGHĐ mà điển hình là chính sách nâng giá tiền tệ hay phá giá tiền tệ đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc điều tiết nền kinh tế cả về đối nội lẫn đối ngoại. Với chính sách TGHĐ, CP các quốc gia có thể đưa nền kinh tế thoát ra khỏi những  cuộc khủng hoảng tài chính…và ngược lại cũng có thể vì một chính sách TGHĐ không hợp lý mà đưa nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái, khủng hoảng nghiêm trọng. Thêm vào đó, tăng trưởng kinh tế, kiềm chế lạm phát, giảm tỷ lệ thất nghiệp, cân bằng cán cân thương mại, chính sách thu hút đầu tư nước ngoài… luôn là những mục tiêu kinh tế quan trọng của mọi quốc gia, đặc biệt là trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay; để thực hiện được những mục tiêu đó, tùy vào tình hình cụ thể của từng nước mà áp dụng chính sách điều chỉnh TGHĐ cho phù hợp.

Thấy rõ  được tầm quan trọng của vấn đề TGHĐ trong xu thế phát triển của nền kinh tế thế giới cũng như tính cấp thiết của vấn đề này đối với nền kinh tế của Việt Nam. Đặc biệt là sau khi Việt Nam tiến hành mở cửa cải cách nền kinh tế vào năm 1986, việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO vào đầu năm 2007, ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới diễn ra vào năm 2008 tới nền kinh tế Việt Nam, điển hình là trong năm 2011. Với sự gia tăng mạnh mẽ của TGHĐ chủ yếu là tỷ giá VND/USD, lạm phát có tình hình diễn biên phức tạp trong năm 2011, giá vàng tăng lên chóng mặt liên tục phá kỷ lục về giá, giới đầu cơ liên tục làm giá. Bên cạnh đó, hiện tượng tích trữ ngoại tệ trong người dân còn phổ biến dẫn đến sự khan hiếm ngoại tệ, cán cân thanh toán bị thâm hụt, lái suất ngân hàng tăng cao…đã tác động tới TGHĐ. Để làm rõ những tác động đó tới TGHĐ, hiểu rõ được thực trạng TGHĐ thực tế ở Việt Nam

        Đề tài nghiên cứu với mục đích là nhằm hiểu rõ hơn, nắm vững hơn về mặt lý thuyết và cơ sở ứng dụng của TGHĐ, chính sách điều chỉnh TGHĐ. Đặc biệt là ứng dụng thực tiễn vào thực trạng tình hình biến động TGHĐ ở Việt Nam giai đoạn 2006 đến nay, trên cơ sở đó rút ra một số bài học kinh nghiệm, đưa ra một số giải pháp giải quyết biến động TGHĐ cho Việt Nam.

Đối tượng nghiên cứu của đề án là thực trạng TGHĐ của Việt Nam cùng với chính sách TGHĐ đối với hoạt động thương mại, phát triển kinh tế nói chung. Phạm vi nghiên cứu là vấn đề TGHĐ, chính sách điều chỉnh TGHĐ ở Việt Nam giai đoạn 2008 đến nay với những ảnh hưởng của nó đến sự phát triển kinh tế của Việt Nam.


CHƯƠNG I : TỔNG QUAN CHUNG VỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI.

  1. KHÁI NIỆM TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
  1. Sự hình thành tỷ giá hối đoái

        Toàn cầu hóa và ngoại thương ngày càng phát triển cho nên hoạt động trao đổi, buôn bán, đầu tư không chỉ xảy ra trong một quốc gia, mà còn giữa các quốc gia với nhau. Khi một nước nhập hay xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ từ nước ngoài cần phải có một lượng đồng tiền của quốc gia đó hay đồng tiền được chấp nhận thanh toán quốc tế nhất định để thanh toán. Để biểu hiện giá trị trao đổi của đồng tiền nước ngoài so với đồng tiền trong nước thì TGHĐ ra đời. Thương mại quốc tế chính là cơ sở để hình thành TGHĐ.

  1. Khái niệm về tỷ giá hối đoái (Exchange rate).

Khi thực hiện các giao dịch tiền tệ trên thị trường tiền tệ, các chủ thể kinh doanh tùy theo khả năng tham gia thị trường sẽ hình thành quan hệ cung cầu giữa hai đồng tiền và hình thành nên giá cả cân bằng của hai đồng tiền đó. Hình thành trên cơ sở quan hệ cung cầu trên thị trường  tiền tệ nên tỷ giá hối đoái được định nghĩa khác nhau tùy theo mục đích hoạt động của chủ thể tham gia thị trương.

Tỷ giá hối đoái là quan hệ so sánh về mặt giá trị giữa hai  đồng tiền của hai quốc gia. Chẳng hạn, tỷ giá hối đoái giữa Bảng Anh và Đô la Mỹ là 1,8235, có nghĩa là quan hệ so sánh về giá trị giữa hai đồng tiền này 1 Bảng Anh bằng 1,8235 Đô la Mỹ hay 0.5484 Bảng Anh tương đương 1 Đô la Mỹ. Cách định nghĩa này không cho thấy bản chất của tỷ giá hối đoái là giá cả tiền tệ được hình thành do quan hệ cung cầu và không cho phép các nhà kinh doanh tiền tệ lựa chọn được các phương thức kinh doanh phù hợp.

Mặt khác, về bản chất, tỷ giá hối đoái chính là giá cả của một đơn vị tiền tệ nước này được thể hiện bằng một số đơn vị tiền tệ của nước khác. Do đó, tỷ giá hối đoái được định nghĩa là “giá cả mà tại mức giá đó một đơn vị tiền tệ được đổi lấy một số đơn vị tiền tệ khác” hoặc “ tỷ giá hối đoái là giá cả của một đơ vị tiền tệ được thể hiện bằng một số đơn vị tiền tệ khác”. Chẳng hạn, một nhà nhập khẩu Mỹ bỏ ra 180.000 Đô la Mỹ để mua một tờ Séc có mệnh giá là 100.000 Bảng Anh. Như vậy, giá 1 Bảng Anh bằng 1,8 Đôla Mỹ.Tỷ giá hối đoái được xác định là 180000

USD/100000 GBP = 1,8 USD/GBP

Định nghĩa tỷ giá hối đoái như trên cho thấy bản chất tỷ giá là giá cả của một đơn vị tiền tệ, nó gắn với quan hê cung cầu về đồng tiền đó trên thị trường nên tỷ giá sẽ thay đổi nếu cung cầu thay đổi Cách định nghĩa này cũng giúp cho các nhà kinh doanh và các tổ chức tài chính có thể tính toán được giá cả tiền tệ, xây dựng các phương án kinh doanh tiền tệ  và thanh toán tiền  hàng sao cho có lợi nhất. Cách định nghĩa này cũng cho thấy phương pháp có thể áp dụng để phân tích sự biến động và dự báo tỷ giá hối đoái là trên cơ sở các nhân tố tác động trực tiếp và gián tiếp đến cung cầu một đồng tiền.
Luật Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam (1997) định nghĩa tỷ giá hối đoái là tỷ lệ giữa giá trị của đông Việt Nam với giá trị của đồng tiền nước ngoài. Tỷ giá này được hình thành trên cơ sở cung cầu ngoại tệ trên thị trường có sự điều tiết của Nhà Nước và do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xác định và công bố, Bảng tỷ giá giao dịch được công bố theo ngày trên cơ sở tỷ giá của thị trường liên ngân hàng và các ngân hàng thương mại được quyền giao dịch trên cơ sở tỷ giá công bố và biên độ dao động do ngân hàng nhà nước qui định.


  1. PHÂN LOẠI TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI.
  1. Căn cứ vào nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối, tỷ giá hối đoái được chia ra làm 2 loại:

- Tỷ giá mua: là tỷ giá mà ngân hàng mua ngoại hối vào.

- Tỷ giá bán: là tỷ giá mà ngân hàng bán ngoại hối ra.

Tỷ giá mua bao giờ cũng thấp hơn tỷ giá bán và khoảng chênh lệch đó (SPREAD) là lợi nhuận kinh doanh ngoại hối của ngân hàng.

  1. Căn cứ vào chế độ quản lý tỷ giá, tỷ giá hối đoái được chia ra thành tỷ giá cố định và tỷ giá thả nổi:
  • Tỷ giá cố định (Tỷ giá chính thức) là tỷ giá do NHTW công bố và không thay đổi trong một khoảng thời gian.
  • Tỷ giá thả nổi (Tỷ giá thị trường) là tỷ giá được hình thành theo quan hệ cung cầu ngoại hối. Tỷ giá này biến động thường xuyên thùy theo tình hình cung cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối.
  1. Căn cứ vào phương diện thanh toán quốc tế, tỷ giá hối đoái được chia ra thành:
  • Tỷ giá tiền mặt: là loại tỷ giá áp dụng cho các ngoại tệ tiền mặt, séc, thẻ tín dụng.
  • Tỷ giá chuyển khoản: là tỷ giá áp dụng cho các trường hợp giao dịch thanh toán ngoại hối được thực hiện bằng cách chuyển khoản qua ngân hàng. Loại tỷ giá này thường thấp hơn tỷ giá tiền mặt do khi sử dụng tỷ giá chuyển khoản không cần phải có sự xuất hiện của một lượng tiền mặt thực sự, do vậy giảm được chi phí lưu thông tiền mặt.
  1. Căn cứ vào thời điểm mua bán ngoại hối, tỷ giá hối đoái được chia ra thành:
  • Tỷ giá mở cửa: là tỷ giá chào hàng đầu tiên của một ngày giao dịch. Nó có thể là tỷ giá chào hàng vào đầu giờ giao dịch hay tỷ giá mua bán ngoại hối của phiên giao dịch đầu tiên trong ngày làm việc.
  • Tỷ giá đóng cửa: là tỷ giá vào cuối giờ giao dịch hay tỷ giá mua bán ngoại hối của phiên giao dịch cuối cùng trong ngày làm việc.

Trong giao dịch ngoại, thông thường các ngân hàng không thông báo tất cả tỷ giá của các hợp đồng ký trong ngày mà chỉ công bố tỷ giá mở cửa và tỷ giá đóng cửa. Hai tỷ giá này có mối quan hệ mật thiết với nhau, tỷ giá mở cửa thường được hình thành trên cơ sở tỷ giá đóng cửa của ngày hôm trước có tham khảo sự biến động tỷ giá trên thị trường quốc tế trong đêm đó.

  1. Căn cứ vào thời điểm chuyển vốn, tỷ giá hối đoái được chia ra thành:
  • Tỷ giá giao ngay: là tỷ giá được áp dụng trong giao dịch mà việc chuyển vốn, thanh toán xảy ra đồng thời với thời điểm ký hợp đồng (đồng thời ở đây được hiểu theo nghĩa trong phạm vi 02 ngày làm việc kể từ ngày ký hợp đồng mua bán ngoại hối).
  • Tỷ giá kỳ hạn (forwards): là tỷ giá được áp dụng trong giao dịch mà việc chuyển vốn được tiến hành sau 1 thời gian nhất định, theo 1 tỷ giá được xác định trước vào thời điểm ký kết hợp đồng.
  1. Căn cứ vào hình thức thanh toán sử dụng:
  • Tỷ giá điện hối: là tỷ giá mua bán ngoại hối mà ngân hàng có trách nhiệm chuyển ngoại hối bằng điện. Tỷ giá điện hối là tỷ giá làm cơ sở xác định các loại tỷ giá khác.
  • Tỷ giá thư hối: là tỷ giá mua bán ngoại hối mà ngân hàng có trách nhiệm chuyển ngoại hối bằng thư. Tỷ giá thư hối nhỏ hơn tỷ giá điện hối do chi phí chuyển bằng thư rẻ hơn chuyển bằng điện. Ngoài ra, việc chuyển ngoại hối bằng thư chậm hơn do đó người ta phải tính lãi phát sinh trong thời gian đó và được khấu trừ vào tỷ giá.
  • Tỷ giá check: là tỷ giá được xác định trên cơ sở bằng tỷ giá điện hối trừ đi số tiền lãi phát sinh theo số ngày cần thiết của bưu điện để chuyển check từ nước này sang nước khác.
  • Tỷ giá hối phiếu: là tỷ giá được xác định bằng tỷ giá điện hối trừ đi số tiền lãi phát sinh tính từ lúc ngân hàng mua hối phiếu cho đến lúc hối phiếu đó được trả tiền.
  1. Căn cứ vào mối quan hệ tỷ giá với chỉ số lạm phát, tỷ giá hối đoái được chia ra thành tỷ giá danh nghĩa và tỷ giá thực:
  • Tỷ giá danh nghĩa (E): Là giá cả của một đồng tiền được biểu thị thông qua đồng tiền khác mà chưa đề cập đến tương quan sức mua hàng hoá và dịch vụ giữa chúng. Tỷ giá danh nghĩa là tỷ giá phổ biến được sử dụng hàng ngày trong giao dịch trên các thị trường ngoại hối.
  • Tỷ giá thực: Là tỷ giá được xác định trên cơ sở tỷ giá danh nghĩa đã được điều chỉnh bởi tỷ lệ lạm phát giữa trong nước với nước ngoài,do đó nó là chỉ số phản ánh tương quan sức mua giữa nội tệ và ngoại tệ. Từ khái niệm trên tỷ giá thực được xác định theo công thức:  Er = E.P*/P

Trong đó:  Er là tỷ giá thực

                E là tỷ giá danh nghĩa

                 P* là giá cả ở nước ngoài bằng ngoại tệ

                 P là giá cả ở trong nước bằng nội tệ.

 

                                                                                        


  1. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI.

Sau khi chế độ tiền tệ Bredtton Woods sụp đổ năm 1971, quan hệ tiền tệ giữa các nước được "thả nổi". Với cơ chế này, tỷ giá hối đoái của các nước biến động lên xuống do chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố khác nhau.

  1. Chênh lệch lạm phát của hai nước làm ảnh hưởng tới tỷ giá hối đoái

Theo lý thuyết cân bằng sức mua, tỷ giá hối đoái phản ánh so sánh sức mua của đồng nội tệ so với đồng ngoại tệ hay mức giá trong nước và mức giá của nước ngoài. Vì vậy, khi chênh lệch lạm phát giữa hai nước thay đổi, tức là mức giá cả ở hai nước này thay đổi, tỷ giá hối đoái giữa hai đồng tiền của hai nước đó sẽ biến động theo.

Nếu mức lạm phát trong nước cao hơn mức lạm phát của nước ngoài, sức mua của đồng nội tệ giảm so với ngoại tệ thì tỷ giá hối đoái có xu hướng tăng lên. Ngược lại, nếu mức lạm phát trong nước thấp hơn mức lạm phát ở nước ngoài, sức mua của đồng nội tệ tăng tương đối so với đồng ngoại tệ và tỷ giá giảm xuống.

Ví dụ, trước lạm phát, mặt hàng A bán tại Mỹ với giá 1USD, bán tại Việt Nam với giá 16.000 VND. Tỷ giá hối đoái USD/VND lúc này là 1 USD = 16.000 VND. Giả sử, năm 2006, mức lạm phát tại Mỹ là 3%, tại Việt Nam là 7% thì mức giá của mặt hàng A lúc này đã thay đổi. Ở Mỹ, mặt hàng A sẽ được bán với giá 1 USD + 1USD×3% = 1,03 USD. Tại Việt Nam, giá của mặt hàng A do tác động của lạm phát lúc này sẽ là 16.000 VND + 7%×16.000 VND = 17.120 VND. Tỷ giá USD/VND sau tác động của lạm phát là 1 USD = 17.120/1,03 = 16.621 VND. Như vậy, do chênh lệch lạm phát dương giữa Việt Nam và Mỹ, tỷ giá hối đoái giữa hai đồng tiền này đã tăng lên. Nếu chúng ta giả sử ngược lại, tức là mức lạm phát ở Mỹ là 7% và ở Việt Nam là 3% thì tỷ giá sẽ giảm đi, nhỏ hơn mức 1 USD tương đương với 16.000 VND.

  1. Chênh lệch lãi suất giữa các nước

Nước nào có lãi suất ngắn hạn cao hơn thì luồng vốn ngắn hạn có xu hướng chảy vào nhằm thu phần chênh lệch do tiền lãi tạo ra, do đó sẽ làm cung ngoại hối tăng lên, cầu ngoại hối giảm đi và tỷ giá hối đoái có xu hướng giảm.

Để xác định mức lãi suất của một nước là cao hay thấp, thông thường người ta so sánh mức lãi suất của nước đó với các lãi suất quốc tế như lãi suất đi vay trên thị trường liên ngân hàng London LIBID, lãi suất quốc tế trên thị trường liên ngân hàng Singapore SIBID...

Cần lưu ý rằng, chênh lệch lãi suất có tác động tới sự biến động của tỷ giá nhưng đó chỉ là sự tác động gián tiếp chứ không phải trực tiếp bởi lãi suất trong nhiều trường hợp không phải là nhân tố quyết định tới sự di chuyển của các dòng vốn. Chênh lệch lãi suất phải trong điều kiện ổn định kinh tế chính trị thì mới thu hút được nhiều vốn ngắn hạn từ bên ngoài đổ vào.

  1. Tình hình thiếu thừa trong cán cân thanh toán quốc tế

Nhân tố này tác động trực tiếp đến quan hệ cung cầu ngoại tệ, thông qua đó tác động tới tỷ giá. Khi cán cân thanh toán bội thu, theo tác động của quy luật cung cầu ngoại tệ sẽ làm cho đồng ngoại tệ mất giá, đồng nội tệ lên giá, tỷ giá hối đoái giảm. Ngược lại, khi cán cân thanh toán quốc tế bội chi sẽ làm cho đồng ngoại tệ lên giá, đồng nội tệ mất giá, tỷ giá hối đoái tăng.

  1. Tình hình tăng trưởng hay suy thoái kinh tế

Nếu các yếu tố khác không đổi mà thu nhập quốc dân của một nước tăng lên so với nước khác thì nhu cầu nhập khẩu hàng hóa từ nước khác cũng tăng dẫn tới cầu ngoại hối tăng. Kết quả là tỷ giá hối đoái sẽ có xu hướng tăng lên.

  1. Yếu tố tâm lý và các hoạt động đầu cơ

Yếu tố tâm lý được thể hiện bằng sự phán đoán của thị trường về các sự kiện kinh tế, chính trị... từ những sự kiện này, người ta dự đoán chiều hướng phát triển của thị trường và thực hiện những hành động đầu tư về ngoại hối, làm cho tỷ giá có thể đột biến tăng, giảm trên thị trường.

Ngoài ra, tỷ giá hối đoái còn phụ thuộc vào chính sách có liên quan tới quản lý ngoại hối, các sự kiện kinh tế - xã hội, các rủi ro bất khả kháng như chiến tranh, thiên tai...

Nguồn: Ths. Đặng Thị Việt Đức - Ths. Phan Anh Tuấn (Quantri.vn biên tập và hệ thống hóa


  1. PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI.

Từ khái niệm tỷ giá hối đoái , tùy thuộc vào mục đích kinh doanh và sự phát triển của thị trường tiền tệ và thị trường hàng hóa, dịch vụ thế giới mà phương pháp xác định tỷ giá hối đoái khác nhau.

Trong hệ thống tiền tệ và thanh toán quốc tế dựa trên cơ sở bản vị vàng, tỷ giá hối đoái được xác định trên cơ sở so sánh hàm lượng vàng giữa hai đông tiền với nhau, còn gọi là trên cơ sở ngang giá vàng (Gold parity). Chẳng hạn,hàm lượng vàng của một Bảng Anh (GBP) là 2,1328 gam và của Đôla Mỹ (USD) là 0,7366, tỷ giá hối đoái giữa GBP và USD là:

1 GBP = 2,8954 USD

Tỷ giá hối đoái xác định theo phương pháp này phổ biến trong chế độ lưu thông tiền vàng và tiền giấy được tự do đổi ra vàng căn cứ vào hàm lượng vàng của nó.

Trong điều kiện nền kinh tế thế giới với hoạt động kinh doanh thương mại quốc tế hàng hóa, dịch vụ phát triển cao, tiền tệ được xem là phương tiện thanh toán giữa các quốc gia, tỷ giá hối đoái được xác định trên cơ sở so sánh sức mua của cả hai đồng tiền hay trên cơ sở cân bằng sức mua ( Purchasing Power Parity). Chẳng hạn, hàng hóa X mua bằng Đôla Mỹ với giá là 10 USD, mua bằng Đôla ÚC có giá trị là 15 AUD, trên cơ sở cân bằng sức mua, tỷ giá hối đoái giữa hai đồng tiền là:

1USD = 1,5 AUD

Các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu sử dụng tỷ giá hối đoái tính theo cân bằng sức mua để so sánh giá cả hàng hóa, dịch vụ, xây dựng các phương án kinh doanh xuât nhập khẩu, tính hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu và thực hiện các ngiệp vụ hải quan. Tỷ giá trên cơ sở cân bằng sức mua cũng cho thấy sức mua của các đồng tiền, tạo cơ sở để so sánh sức mua của các khoản thu nhập. Tỷ giá này không sử dụng cho các nghiệp vụ kinh doanh thị trường, tín dụng và thanh toán quốc tế

Hiện nay, thị trường tiền tệ hoạt động ở trình độ cao, kinh doanh tiền tệ với các phương thức đa dạng, khối lượng tiền tệ mua bán cao hơn nhiều lần khối lượng hàng hóa, dịch vụ. Trong điều kiện thanh toán, lưu giữ giá trị, thực hiện tín dụng mà là hàng hóa được mua bán trên thị trường. Vì vậy, tỷ giá hối đoái phản ánh quan hệ cung cầu tiền tệ, được hình thành trên thị trường tiền tệ, không tùy thuộc vào việc mua bán đồng tiền đó cho mục đích gì. Tỷ giá hối đoái do các nhân tố thị trường quyết định nên không phải là tỷ giá tính toán, không thể quy định được mà chỉ can thiệp thông qua tác động vào các nhân tố thị trường. Một khi tỷ giá đã được hình thành và biến động theo quan hệ cung cầu trên thị trường, các hoạt động đầu cơ , mua bán ngoại tệ, tín dụng và thanh toán thương mại quốc tế đều lấy tỉ giá thị trường làm cơ sở.

Giáo trình Tín dụng và Thanh toán Thương mại Quốc tế

TS.Trần Văn Hòe ( Chủ Biên)

Quantri.vn  biên tập

  1. Phương pháp yết tỷ giá.

Theo tập quán kinh doanh tiền tệ của ngân hàng, TGHĐ thường được yết giá như sau:

USD/CNY = 8,15/75

                                    USD/VND = 15.840/45

  • Đồng USD đứng trước gọi là tiền yết giá và là một đơn vị tiền tệ. Các đồng CNY, VND đứng sau gọi là tiền định giá và là một số đơn vị tiền tệ và thường thay đổi phụ thuộc vào thời giá của tiền yết giá.
  • Tỷ giá đứng trước 8,15 là tỷ giá mua USD trả bằng CNY của ngân hàng và tỷ giá đứng trước 15.840 là tỷ giá mua USD trả bằng VND của ngân hàng, chúng gọi là tỷ giá mua vào của ngân hàng.
  • Tỷ giá đứng sau 8,75 là tỷ giá bán USD thu bằng CNY của ngân hàng và 15.845 là tỷ giá bán USD thu bằng VND của ngân hàng, chúng được gọi là tỷ giá bán ra của ngân hàng.
  • Tỷ giá bán thường lớn hơn tỷ giá mua, chênh lệch giữa chúng gọi là lợi nhuận chưa thuế của ngân hàng.

Trong giao dịch mua bán ngoại hối qua ngân hàng, để đảm bảo tính nhanh, gọn, các tỷ giá thường không được đọc đầy đủ, mà chỉ đọc những số nào thường biến động, đó là những số cuối.

Ví dụ: EUR/USD = 1,2015 chỉ được đọc các số lẻ sau dấu phẩy. Các số này chia làm hai nhóm số. Hai số thập phân đầu tiên đọc là “số”, hai số kế tiếp đọc là “điểm”. Tỷ giá trên đọc là “EUR, đôla bằng một, hai mươi số, mười lăm điểm”. Cách đọc điểm có thể dùng phân số “Một phần tư” thay vì đọc 25;  “ba phần tư” thay vì đọc 75.

Để thống nhất các kí hiệu tiền tệ của các nước, tổ chức tiêu chuẩn quốc tế (ISO) đã ban hành kí hiệu tiền tệ ISO.

Ví dụ:

Đôla Mỹ

USD

Bảng Anh         

GBP

Yên Nhật                              

JPY

Phrăng Thuỵ Sĩ

CHF

Đôla Úc                          

AUD

Đôla Canađa                    

CAD

Nhân dân tệ Trung Quốc

CNY

Đôla Hồng Kông                  

HKD

Đôla Sing-ga-po                            

SGD

Đồng Việt Nam                          

VND

  1. Phương pháp biểu thị tỷ giá hối đoái

Đứng trên góc độ thị trường tiền tệ quốc gia thì có hai phương pháp yết giá: yết giá trực tiếp và yết giá gián tiếp.

  1. Phương pháp trực tiếp

Là phương pháp biểu thị một đơn vị ngoại tệ bằng bao nhiêu đơn vị tiền tệ trong nước.

Đối với phương pháp trực tiếp thì ngoại tệ là đồng tiền yết giá, tiền trong nước là đồng tiền định giá.

Đa số các quốc gia trên thế giới áp dụng phương pháp trực tiếp.

Ví dụ: Tại Hà Nội niêm yết USD/VND = 15.840/45

Có nghĩa là: Tại Hà Nội ngân hàng mua 1 USD trả 15.840 VND và bán 1USD thu 15.845 VND.

  1. Phương pháp gián tiếp

Là phương pháp biểu thị một đơn vị tiền tệ trong nước bằng bao nhiêu đơn vị tiền ngoại tệ.

Đối với phương pháp gián tiếp thì tiền trong nước là đồng tiền yết giá, còn ngoại tệ là đồng tiền định giá. Anh, Hoa Kì và một số nước liên hiệp Anh thương sử dụng phương pháp này.

Ví dụ: Tại London niêm yết GBP/USD = 1,835/15

Có nghĩa là: Tại London ngân hàng mua 1 GBP trả 1,835 USD và bán 1 GBP thu 1,815 USD.      

            Nếu đứng ở góc độ thị trường tiền tệ quốc gia, thì nước Anh và nước Mỹ dùng cách yết giá gián tiếp để thể hiện giá cả ngoại hối ở nước họ, các quốc gia còn lại thì dùng cách yết giá trực tiếp để thể hiện giá cả ngoại hối.

Ví dụ : Tại Hà Nội, TGHĐ được công bố như sau:

USD/VND = 15.840/15.845

Với cách yết giá trực tiếp này trên thị trường Hà Nội, giá một ngoại tệ USD đã thể hiện trực tiếp ra bên ngoài.

Tỷ giá 1USD = 15.840VND là tỷ giá ngân hàng mua USD vào. Tỷ giá 1 USD = 15.845 VND là tỷ giá ngân hàng bán USD ra.

Nếu đứng ở góc độ thị trường tiền tệ quốc tế thì trên thế giới chỉ có hai tiền tệ quốc gia (USD, GBP) và hai tiền tệ quốc tế (SDR, EUR) là dùng cách yết giá trực tiếp, tiền tệ còn lại dùng cách yết giá gián tiếp.

Ví dụ:

                  USD/VND                                       SDR/VND

                  USD/JPY                                         EUR/CHF    

                  GBP/VND                                       SDR/USD      

           Có nghĩa là giá của USD, GBP hay của SDR, EUR  được thể hiện trực tiếp ra bên ngoài, còn các tiền tệ khác như VND, CHF, JPY.. chưa thể hiện trực tiếp ra bên ngoài, mới thể hiện gián tiếp.

Ví dụ:                 USD /VND = 15.840

Tức là giá 1 USD = 15.840 VND, còn giá 1 VND thì chưa thể hiện trực tiếp ra bên ngoài, muốn tìm, chúng ta làm phép chia như sau:

        1VNĐ =  USD = 0,0000631 USD

        


CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ CHÍNH SÁCH ĐIỀU CHỈNH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006-2010.

  1. THỰC TRẠNG TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI 2006-2010
  1. THỰC TRẠNG TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI NĂM 2006-2007

         Tỷ giá hối đoái là giá của một đồng tiền (quốc gia) tính bằng đồng tiền (quốc gia) khác.

        TGHĐ được điều hành linh hoạt có sự điều tiết. Chính sách ngoại hối được thực hiện theo hướng nới lỏng các giao dịch vãng lai. NHNN cho phép cá nhân được gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ không kể nguồn gốc, được rút cả vốn và lãi bằng ngoại tệ. Tín dụng bằng ngoại tệ cũng được mở rộng về đối tượng vay . Ban hành Pháp lệnh quản lý ngoại hối có hiệu lực từ 1/6/2006 thúc đẩy sự phát triển của thị trường ngoại hối, góp phần tăng dự trữ ngoại hối quốc gia. Ban hành Pháp lệnh quản lý ngoại hối có hiệu lực từ 1/6/2006 thúc đẩy sự phát triển của thị trường ngoại hối, góp phần tăng dự trữ ngoại hối quốc gia.

        Vào năm 2006 , tỷ giá danh nghĩa VND/USD có xu hướng tăng nhẹ, ổn định trong biên độ 0,01% đến 0,25% và 0,5%. Thay đổi tỷ giá sẽ khuyến khích hoạt động xuất khẩu, giảm bớt thâm hụt cán cân thương maị và cải thiện cán cân thanh toán quốc tế. Hơn nữa, thay đổi tỷ giá có khả năng hạn chế nhập khẩu nhằm bảo vệ khả năng sản xuất trước cạnh tranh của nước ngoài. Đồng thời thay đổi tỷ giá theo hướng ngăn chặn việc nhập khẩu tràn lan những hàng hóa dịch vụ mà trong nước có thể sản xuất được, góp phần giảm bớt về cầu ngoại tệ phục vụ cho nhập khẩu trên thị trường ngoại hối. Không những thế ,  khi gia nhập WTO ảnh hưởng đến biến động của tỷ giá hối đoái ở Việt Nam.VNlaf thành viên chính thức Tổ chức thương mại thế giới WTO vào ngày 7.11.2006, mở ra những vận hội Mowisnhuwng cũn đầy thách thức.

        Từ tháng 9- 1985 đến cuối năm 2007, VND luôn luôn mất giá so với USD. Cụ thể tháng 9-1985, tỷ giá VND/USD là 15 VND/1 USD, đến năm 2007 thì tỷ giá đó đã là 16.115 VND/ 1 USD. Như vậy, sau 22 năm VND mất giá so với USD 16.100 VND hay 107.333,33% {[(16.115 VND - 15 VND) : 15 VND] x 100 = 107.333,33%}.

Năm 2001, đồng tiền chung châu Âu (Euro) ra đời, sức mua của USD so với Euro:1,1 USD/1 Euro. Cuối tháng 12-2007, tỷ giá giữa hai loại tiền trên là 1,44 USD/1 Euro. Như vậy, sau 7 năm, USD mất giá 30,9% so với Euro. Đầu năm 2001, tỷ giá VND/USD: 14.200 VND/ 1 USD; cuối tháng 12-2007 trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng 16.114 VND/1 USD. Như vậy, sau 7 năm, VND mất giá 13,48% so với USD.

    Năm 2007, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam điều hành chính sách tiền tệ theo hướng VND yếu so với USD từ 1% đến 2%/năm. Ngược lại, Cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed) tiếp tục thực hiện chính sách USD yếu nhằm giải quyết món nợ gần 1.000 tỷ USD thể hiện trên tài khoản vãng lai, trong bảng cân đối thanh toán quốc tế của Mỹ. Như vậy, “hai cái yếu chồng lên VND” - USD yếu so với các loại tiền mạnh; VND lại yếu so với USD.

    Đầu năm 2007, NHNN Việt Nam đưa ra tỷ giá VND/USD trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng 16.165 VND/1 USD, trong khi tỷ giá  VND/USD trên thị trường tư do là 16.070 VND/1 USD. Do đó, một số NHTM bán USD cho NHNN Việt Nam để kiếm lời. Nguyên nhân chính là do tỷ giá VND/USD trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do NHNN công bố để NHNN mua USD, đem lại lợi nhuận cao cho NHTM. Những tháng cuối năm 2007, NHNN Việt Nam vẫn đưa ra tỷ giá 16.114 VND/1 USD theo hướng VND mất giá so với USD, nhưng tỷ giá ngoại tệ trên thị trường liên ngân hàng vẫn cao hơn tỷ giá VND/USD trên thị trường tự do.

            Lạm phát 2 con số cũng là một vấn đề đáng quan tâm trong năm 2007.  Năm 2007 lạm phát của Việt Nam tăng cao ở mức hai con số 12,63%. Nếu so sánh với mức lạm phát của một số nước trong khu vực và trên thế giới như Trung Quốc: 6,5%; Indonesia: 6,59%; Mỹ: 4,08%, Thái Lan: 3,21%, Khu vực đồng Euro: 3,07%, Nhật Bản: 0,7% thì lạm phát của Việt Nam có phần cao hơn. Bước sang Quý I/08 lạm phát của Việt Nam đạt 9,19%, vẫn cao hơn so với mức 3,02% của Quý I/07 và bằng khoảng trên 70% so với mức tăng của cả năm 2007 đây là mức tăng cao trong vòng 12 năm trở lại đây.

Nguyên nhân dẫn đến lạm phát của Việt Nam tăng cao là do các xuất phát từ nội tại nền kinh tế Việt Nam.

 Thứ nhất: Chi phí sản xuất tăng cao: Trước bối cảnh lạm phát toàn cầu gia tăng đã tác động làm giá hầu hết các nhóm hàng nhập khẩu của Việt Nam gia tăng mạnh mẽ như xăng dầu, sắt thép, phân bón, thuốc trừ sâu - là những nguyên nhiên vật liệu đầu vào chính của sản xuất. Mặc dù Chính phủ đã cố gắng kiểm soát giá xăng dầu, nhưng từ đầu năm 2007 đến hết Quý I/08 giá xăng dầu đã phải điều chỉnh tăng 4 lần, tính chung giá xăng dầu đã tăng tới 38%, giá thép tăng 91%, giá điện tăng 7,6%; giá than tăng 30%; giá xi măng tăng 15%; giá phân bón tăng 58%. Điều này đã tác động làm chi phí sản xuất tăng cao.

Thứ hai: Giá lương thực, thực phẩm tăng cao: biến đổi khí hậu toàn cầu trên thế giới không những tác động đến nhiều quốc gia mà Việt Nam cũng bị ảnh hưởng nặng nề. Chỉ trong tháng 10/2007, miền Trung phải hứng chịu 5 cơn bão liên tiếp, trong khi đó dịch bệnh trong chăn nuôi, trồng trọt như cúm gia cầm, lợn tai xanh, lở mồm long móng ở lợn, vàng lùn ở lúa cùng với rét đậm, rét hại khiến cho nguồn cung lương thực - thực phẩm bị sụt giảm.

Mặc dù Chính phủ đã ban hành Công văn 639/BTM-XNK ngày 16/8/2007 và Công văn số 266/TTg-KTTH ngày 21/2/2008 để khống chế lượng gạo xuất khẩu tối đa nhằm kiểm soát lạm phát và đảm bảo an ninh lương thực trong nước, nhưng việc giá lương thực, thực phẩm thế giới tăng cao đã khiến giá gạo xuất khẩu và giá một số mặt hàng thực phẩm xuất khẩu khác như thuỷ hải sản gia tăng cộng với chi phí sản xuất tăng cao đã đẩy giá lương thực, thực phẩm trong nước tăng cao ở mức 18,92% năm 2007 và 14,45% trong QI/2008, cao gấp 5 lần so với mức tăng 4,18% của quý I/2007, trong khi nhóm này có quyền số 42,85%, lớn nhất trong rổ hàng hoá CPI, có thể nói đây là nguyên nhân chủ yếu tác động làm CPI tăng mạnh.

Thứ ba: Chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ liên tục mở rộng từ 2001-2006 nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế: Trong vòng 3 năm trở lại đây kinh tế Việt Nam liên tục tăng trưởng ở mức rất cao trên 8%, và mục tiêu của giai đoạn này đối với Chính phủ Việt Nam là ưu tiên tăng trưởng kinh tế. Với mục tiêu này đã khuyến khích cho “chính sách tài chính, tiền tệ nới lỏng đã thực hiện trong nhiều năm liền nhưng quản lý chưa chặt chẽ” nhằm mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, và đây cũng là nhân tố góp phần khiến lạm phát bình quân từ 2005 đến 2007 tăng trên 8,01%. Tín dụng ngân hàng cho nền kinh tế tăng mạnh trong một thời gian dài nhằm phục vụ mục tiêu tăng trưởng kinh tế là một nguyên nhân quan trong làm gia tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế. Các ngân hàng cũ mở rộng tín dụng bằng việc nới lỏng điều kiện cho vay, cạnh tranh nhau bằng giảm lãi suất cho vay, tăng lãi suất huy động để tìm kiếm nguồn vốn cho vay,chuyển đổi mô hình, liên doanh liên kết với các doanh nghiệp, tập đoàn để tăng vốn điều lệ, mở rộng mạng lưới nhanh chóng vượt quá khả năng quản trị, cho thành lập thêm các ngân hàng mới và tất cả các ngân hàng chủ yếu đua nhau tìm kiếm lợi nhuận từ nghiệp vụ cho vay nên càng làm cho tín dụng của hệ thống ngân hàng tăng cao trong suốt năm 2007 và 3 tháng đầu năm 2008, đó là nguyên nhân rất quan trong gây sức ép rất lớn làm gia tăng lạm phát trong thời gian qua.

Thứ tư: Luồng vốn nước ngoài vào Việt Nam gia tăng mạnh: bắt đầu từ cuối năm 2006 khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), cùng với những cải cách về cơ chế chính sách và môi trường đầu tư đã tạo điều kiện cho các luồng vốn nước ngoài đổ vào Việt Nam tăng mạnh. Năm 2007 luồng vốn FDI tăng 20,3 tỷ USD vốn đăng ký, cao hơn nhiều so với mức 10,2 tỷ USD của năm 2006, đặc biệt là luồng vốn đầu tư gián tiếp gia tăng mạnh mẽ khoảng trên 6 tỷ, gấp 5 lần con số của năm 2006 mà chủ yếu đổ vào thị trường chứng khoán, trái phiếu đặc biệt là đổ vào IPO các doanh nghiệp nhà nước lớn. Đứng trước bối cảnh này, Ngân hàng nhà nước đã phải cung ứng một lượng lớn tiền VND để mua ngoại tệ vào nhằm mục tiêu ổn định và phá giá nhẹ tỷ giá để hỗ trợ xuất khẩu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và điều này làm cho tổng phương tiện thanh toán tăng cao, tác động làm lạm phát gia tăng.

Và bối cảnh kinh tế toàn cầu cũng tác động đến tình hình lạm phát Việt Nam:

Thứ nhất: Giá dầu và giá nguyên nhiên vật liệu đầu vào của sản xuất liên tục gia tăng: Trong 4 năm từ 2003-2006 kinh tế toàn cầu liên tục tăng trưởng cao, đặc biệt là nhóm các nước “mới nổi” ở khu vực Châu á, nhất là Trung Quốc đã đẩy nhu cầu năng lượng toàn cầu tăng cao đột biến, cùng với những bất ổn và xung đột chính trị quân sự tại khu vực Trung Đông là các nguyên nhân trực tiếp đẩy giá dầu lên cao chưa từng có trong lịch sử 110 USD/thùng trong tháng 3/2008, đồng thời giá các nguyên vật liệu đầu vào khác như sắt thép, phân bón, xi măng cũng liên tục gia tăng. Như vậy, giá dầu đã tăng 72%, sắt thép tăng 114%, phân bón tăng 59,6%, khí hoá lỏng tăng 95% kể từ đầu năm 2007 đến tháng 3/2008 và đây cũng là mức tăng cao nhất từ trước tới nay.

Thứ hai: Giá lương thực, thực phẩm liên tục gia tăng: xuất phát từ quá trình biến đổi khí hậu toàn cầu, thiên tai dịch bệnh diễn ra liên tiếp, cùng với những năm tăng trưởng kinh tế mạnh trên thế giới - là những năm quá trình công nghiệp hoá được đẩy mạnh khiến diện tích đất sử dụng cho trồng trọt, chăn nuôi bị thu hẹp. Tất cả những điều trên làm sản lượng lương thực - thực phẩm ngày càng giảm mạnh. Ngoài ra, giá năng lượng tăng cao đã khiến nhiều nước sử dụng một sản lượng lớn ngũ cốc chuyển sang sản xuất nhiên liệu sinh học càng làm cho nguồn cung lương thực đã giảm càng giảm sút.

Thứ ba: Một khối lượng tiền lớn được đưa ra nền kinh tế toàn cầu: Trước việc giá dầu và giá lương thực - thực phẩm liên tục leo thang đã tạo nên cú sốc cung rất lớn đẩy lạm phát toàn cầu tăng cao, tình hình này đã buộc các NHTW phải tăng các mức lãi suất chủ chốt để kiềm chế lạm phát, cụ thể: Nhật Bản tăng 1 lần từ 0,25%- 0,5%/năm; khu vực đồng Euro tăng 2 lần từ 3,5%-3,75%-4,0%/năm; Anh tăng 3 lần từ 5%-5,5%/năm (trong đó có 1 lần giảm); Thuỵ Điển tăng 4 lần từ 3,0%-4,0%/năm; Trung Quốc tăng 6 lần từ 6,12-7,47%/năm.

Việc các nước thực hiện thắt chặt tiền tệ thông qua tăng lãi suất chủ đạo cùng với việc giá dầu, giá lương thực - thực phẩm tiếp tục tăng cao chính là nguyên nhân cơ bản đã đẩy nền kinh tế toàn cầu rơi vào suy thoái vào những tháng đầu năm 2008, mà biểu hiện là cuộc khủng hoảng cho vay dưới tiêu chuẩn của Mỹ bắt đầu từ tháng 7/2007. Trước bối cảnh lạm phát gia tăng và kinh tế toàn cầu rơi vào suy thoái, các NHTW không còn cách nào khác là phải bơm một lượng tiền khổng lồ để cứu vãn nền kinh tế, trong đó riêng Mỹ từ tháng 8/2007 đến nay đã phải đưa ra nền kinh tế trên 2.300 tỷ USD, trong đó có 800 tỷ USD tiền mặt để cứu vãn hệ thống ngân hàng, NHTW Châu âu, Nhật Bản, Anh cũng phải đưa một lượng tiền lớn để cứu vãn nền kinh tế cũng như hệ thống ngân hàng; cùng với việc một số NHTW phải thực hiện cắt giảm lãi suất từ tháng 8/2007 trở lại đây như Mỹ, Anh, Canada. Việc cứu vãn nền kinh tế thế giới rơi vào suy thoái bằng biện pháp đưa hàng nghìn tỷ USD ra nền kinh tế lại càng đẩy lạm phát toàn cầu tiếp tục tăng cao.

Tình hình ngoại tệ tại Việt Nam như vậy là do các nguyên nhân sau:

    Thứ nhất, năm 2007 nước ta nhập siêu khoảng 12 tỷ USD, nhưng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ của nước ta đạt 45 tỷ USD, tăng hơn năm trước, nhiều mặt hàng xuất khẩu vượt kim ngạch 1 tỷ USD;

    Thứ hai, thị trường chứng khoán nước ta phát triển mạnh, vốn đầu tư gián tiếp (FII) đổ vào thị trường chứng khoán tăng mạnh, vào khoảng hơn 6 tỷ USD;

    Thứ ba, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) năm 2007 ước đạt 20,3 tỷ USD, tăng 69,3% so với năm 2006;

    Thứ tư, sau khi Việt Nam gia nhập WTO, chúng ta tự do hoá nguồn vốn vãng lai, gồm: nguồn vốn USD từ nước ngoài chuyển  vào nước ta và từ nước ta chuyển ra nước ngoài;

    Thứ năm, kiều hối năm 2007 đạt khoảng gần 6 tỷ USD, bên thụ hưởng kiều hối được lĩnh bằng ngoại tệ;

    Thứ sáu, tình trạng đôla hoá ở mức cao, thể hiện nguồn vốn huy động của nhiều NHTM được phép kinh doanh ngoại tệ quy đổi ra VND chiếm tỷ trọng 30% tổng nguồn vốn huy động…

    Ngoài ra, còn có những nguyên nhân do NHNN Việt Nam điều hành chính sách tiền tệ quốc gia năm 2007 VND yếu so với USD từ 1% đến 2%. Hệ quả của chính sách ấy khiến ngoại tệ mạnh đổ vào nước ta.

 

  1. THỰC TRẠNG TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI 2008

Năm 2008, nền kinh tế Việt Nam bị ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới làm tác động tới tình hình sản xuất, xuất khẩu trong nước. Do đó gây ra những biến động tỷ giá rất phức tạp với những ảnh hưởng từ các yếu tố vĩ mô, cung cầu ngoại tệ, thậm chí là cả tin đồn thất thiệt.

 Chỉ trong năm 2008, biên độ tỷ giá được điều chỉnh 5 lần một mật độ chưa từng có trong lịch sử.

Biếu đồ diễn biến tỷ gía USD/VNĐ năm 2008

 Tình hình biến động tỷ giá năm 2008 được chia làm 4 giai đoạn:

* Giai đoạn 1: từ 01/01/2008 tới 25/03/2008:

Tỷ giá USD/VND có xu hướng giảm, theo công bố của tổng cục thống kê, giá tiêu dùng tháng 1/2008 tăng 2,38% so với cuối năm 2007. để kiềm chế lạm phát thì NHNN đã điều chi nhr lãi suất cơ bản từ 8.25%/năm lên 8.75%/năm, tăng 0,5%/năm, lãi suất tái cấp vốn tăng lên 7,5%/năm,... Ngày 13/2, NHNN thông báo phát hành tín phiếu NHNN bằng VND, vào ngày 17/3 dưới hình thức bắt buộc đối với 41 NHTM với tổng giá trị tín phiếu phát hành 20300 tỷ đồng với kỳ hạn 364 ngày, lãi suất 7,8%/năm. Đồng thời tỷ giá ÚD trên thị trường thế giới tăng mạnh.

Trong giai đoạn này, tỷ giá USD/VND trên thị trường LNH giảm mạnh từ 16.112 đồng xuống còn 15.960 đồng. Tỷ giá trên TTTD có lúc rớt xuống thấp hơn tỷ giá LNH và dao động trong khoảng từ 15.700 đến 16.000 VND/USD.

Biểu đồ diễn biến các loại lãi suất trong năm 2008

Nguyên nhân:

         ▪Thời điểm này đang trong giai đoạn gần Tết Dương lịch, do đó lượng kiều hối chuyển về nước khá lớn.

        ▪Các nhà đầu tư dự đoán VND sẽ tăng giá so với USD, cộng thêm chênh lệch lãi suất lớn giữa USD và VND nên các nhà đầu tư đẩy mạnh việc bán USD chuyển qua VND. Tập trung vào các đối tượng là nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Trái Phiếu Chính phủ Việt Nam (1,4 tỷ USD), các doanh nghiệp xuất khẩu vay USD để phục vụ sản xuất kinh doanh... Các NHTM cũng đẩy mạnh việc bán USD.

* Giai đoạn 2: từ 26/03/2008 tới 16/07/2008: Tăng với tốc độ chóng mặt tạo cơn sốt USD trên cả thị trường LNH lẫn thị trường tự do.

Trong giai đoạn này tỷ giá tăng dần đều và đột ngột tăng mạnh từ giữa tháng 6, đỉnh điểm lên đến 19.400 VND/USD vào ngày 18/6, cách hơn 2.600 đồng so với mức trần, còn trên TTTD cao hơn khoảng 100-150 VND/USD sau đó dịu lại khi NHNN nới biên độ từ 1% lên +/- 2% (ngày 27/6) và kiểm soát chặt các giao dịch.

Nguyên nhân:

        ▪USD tăng mạnh trong giai đoạn này là do tâm lý bất ổn của doanh nghiệp và người dân khi thấy USD tăng nhanh dẫn đến trạng thái găm ngoại tệ của nhà đầu cơ. Nhu cầu mua ngoại tệ trả các khoản nợ của doanh nghiệp xuất và nhập khẩu đến hạn cao; tăng nhập khẩu vàng do chênh lệch lớn giữa giá vàng trong nước và thế giới.

         ▪Nhà đầu tư nước ngoài bắt đầu rút vốn khỏi Việt Nam bằng việc bán trái phiếu CP khi lo ngại về tình hình kinh tế và do tình hình thanh khoản thấp trên thị trường thế giới đẩy nhu cầu mua USD chuyển vốn về nước tăng cao (bán ròng 0,86 tỷ USD).

        ▪Cung ngoại tệ thấp do NHNN không cho phép cho vay ngoại tệ đối với doanh nghiệp xuất khẩu (theo quyết đinh số 09/2008/QĐ, NHNN không cho phép vay để chiết khấu bộ chứng từ xuất khẩu, vay thực hiện dự án sản xuất, xuất khẩu, giảm hiện tượng doanh nghiệp xuất khẩu vay ngoại tệ bán lại trên thị trường).

* Giai đoạn 3: 17/07/2008 tới 15/10/2008: Giảm mạnh và dần đi vào bình ổn
Tỷ giá USD/VND giảm mạnh từ 19.400 VND/USD còn 16.400 VND/USD và giao dịch bình ổn quanh mức 16.600 VND/USD trong giai đoạn từ tháng 8 đến tháng giữa tháng 10.

Nguyên nhân:

        ▪Nhờ có sự can thiệp kịp thời của NHNN, cơn sốt USD đã bị chặn đứng. Nhận thấy tình trạng sốt USD đã ở mức báo động, lần đầu tiên trong lịch sử, NHNN đã công khai công bố dự trữ ngoại hối quốc gia là 20,7 tỷ USD khi các thông tin trên thị trường cho rằng USD đang khan hiếm.

Biểu đồ dự trữ ngoại hối (tỷ USD) của Việt Nam 10 tháng đầu năm 2008

         ▪NHNN cũng ban hành một loạt các chính sách nhằm bình ổn thị trường ngoại tệ như kiểm soát chặt các đại lý thu đổi ngoại tệ ( cấm mua bán ngoại tệ trên TTTD không đăng kí với NHTM ), cấm mua bán USD thông qua ngoại tệ khác để lách biên độ, cấm nhập khẩu vàng và cho phép xuất khẩu vàng, bán ngoại tệ can thiệp thị trường thông qua các NTHM lớn.

* Giai đoạn 4: từ 16/10/2008 đến hết năm:

 Tỷ giá USD/VND tăng đột ngột trở lại từ mức 16.600 lên mức cao nhất là 16.998 VND/USD sau đó giảm nhẹ. Giao dịch nằm trong biên độ tỷ giá. Tuy nhiên cung ngoại tệ hạn chế, cầu ngoại tệ vẫn lớn. Sau khi NHNN tăng biên độ tỷ giá từ 2% lên 3% trong ngày 07/11, tỷ giá tăng tới mức 17.440 VND/USD.

Nguyên nhân:

        ▪Trong khoảng thời gian tháng 10 - 11, nhà đầu tư nước ngoài đẩy mạnh việc bán chứng khoán trong đó bán Trái phiếu (700 triệu USD), Cổ phiếu (100 triệu USD). Nhu cầu mua ngoại tệ của khối đầu tư nước ngoài tăng cao khi muốn đảm bảo thanh khoản của tổ chức tại chính quốc. Nhu cầu mua USD của ngân hàng nước ngoài cũng tăng mạnh ( khoảng 40 triệu USD/ ngày ).

        ▪Cầu USD trên TTTD tăng cao bởi khi NHNN không cho phép nhập vàng thì hiện tượng nhập lậu vàng gia tăng, làm tăng cầu USD để nhập khẩu (do USD là đồng tiền thanh toán chính ).

        ▪Vào ngày 24/12/2008, Bộ Kế hoạch - Đầu tư công bố GDP cho năm 2008 ở mức 6,23% thấp hơn rất nhiều so với mức dự tính trước đó là 6,5%. Thông tin thống kê xuất khẩu tháng 11 giảm 4,8% so với tháng 10 (trong khi cùng kỳ năm trước xuất khẩu tăng 6%).

Biểu đồ Cán cân thương mại Việt Nam 10 tháng đầu năm 2008

        ▪NHNN bán hơn 1 tỷ USD cho các NHTM đáp ứng nhu cầu nhập khẩu một số mặt hàng thiết yếu.

► Sự biến động của tỷ giá đã làm ảnh hưởng đến các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu Việt Nam trong năm 2008:

 Năm 2008, hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp vượt qua nhiều biến động về thị trường, giá cả, khó khăn của những rào cản thương mại, tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu....Đi cùng với đó là những thay đổi trong cơ chế điều hành, hoạch định chính sách. Theo số liệu ước tính của bộ công thương, kim ngạch xuất khẩu cả năm 2008 của Việt Nam ướt đạt gần 63 tỷ USD, tăng trên 29,5% so với năm 2007. Đây là mức tăng trương cao nhất trong nhiều năm trở lại đây. Những mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD những năm trước tiếp tục duy trì ở mức cao như dầu thô( 10,5 tỷ USD), dệt may(  9,1 tỷ USD),giày dép(4,5 tỷ USD), thủy sản(4,56 tỷ USD), gạo( 2.9 tỷ USD), sản phẩm gỗ(2,78 tỷ USD), cà phê(2 tỷ USD), cao su(1,6 tỷ USD), than đá(1,44 tỷ USD). Đặc biệt trong năm này có thêm hàng dây điện và cáp điện đạt kinh ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD( ước đạt 1,04 tỷ USD).

Kin ngạch nhập khẩu năm 2008 đạt 80,71 tỷ USD tăng 28,8% so với 2007 tương ứng với mức nhập siêu ở khoảng 18 tỷ USD đạt con số kỷ luật từ trước tới nay tăng 27,7% so với con số 14,12 tỷ USD năm 2007.

Đối với Việt Nam là quốc gia nhập siêu do đó tỷ lệ nhập khẩu luôn cao hơn so với xuất khẩu tuy nhiên trong năm 2008 tốc độ tăng trưởng xuất khẩu vượt tốc độ tăng trưởng nhập khẩu. Đây là dấu hiệu đáng mừng vì nó góp phần kiềm chế nhập siêu và ổn định cán cân thương mại.

  1. THỰC TRẠNG TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI 2009.

Xu hướng chung của năm 2009 là sự mất giá của VND so với USD. Cho đến cuối năm 2009, tỷ giá chính thức VND/USD đã tăng 5,6% so với cuối năm 2008. Trong khi trong năm 2008, tỷ giá niêm yết tại các NHTM biến động liên tục, đầu năm còn có giai đoạn thấp hơn tỷ giá chính thức, thì năm 2009 lại làmột năm mà tỷ giá NHTM luôn ởmức trần của biên độgiao động mà NHNN công bố.

Biểu đồ 2.5: Diễn biến tỷ giá năm 2009

                                                                  Nguồn: vneconomy.vn

Và ta có thể chia làm 2 giai đoạn:

Giai đoạn 1(từ ngày 01/01 đến 24/11/2009): Tỷ giá biến động mạnh trên cả thị trường LNH và TTTD. Cụ thểlà:

  1.  Từ tháng 1 đến tháng 3:Giá USD tháng 01/2009 so với tháng 12/2008 tăng 1,48%, so với tháng 01/2008 tăng 8,16%.Tỷ giá LNH và tỷ giá trên TTTD tăng chậm, mức độ không cao lắm; riêng tỷ giá LND dao động trong khoảng 17.450 đến 17.700 VND/USD, cách giá trần khoảng từ 0-200 đồng, còn tỷ giá TTTD cao hơn LNH khoảng 100 đồng.

 Nguyên nhân:

+Hiện tượng nắm giữ ngoại tệ chờ lên giá của người dân.

+ Lượng kiều hối giảm nghiêm trọng. Lượng kiều hối năm 2009 giảm 20% so với năm 2008, và không đạt mức 5,8 tỷ USD như NHNN đề ra. Theo chi nhánh NHNN TP.Hồ Chí Minh, lượng kiều hối chi trả qua các ngân hàng trên địa bàn đầu năm nay chỉ đạt 2,6 tỉ USD, bằng 60% so với cùng kỳ. Không những thế các ngân hàng phản ánh kiều hối về ít, nhưng quan trọng hơn, người nhận không bán cho NH theo tỷ giá niêm yết.

+Lượng vốn FDI vào Việt Nam cũng giảm.

Biểu đồ 2.6: Nguồn vốn FDI vào Việt Nam năm 2009 so với năm 2008

                                                       Nguồn:  vietpartner.com

  1. Từ tháng 4 đến tháng 9: tỷ giá USD/VND trên 2 thị trường tăng không mạnh và dao động trong khoảng 18.180 – 18.500 VND/USD.

Nguyên nhân:

+ NHNN đã triển khai đồng bộ nhiều biện pháp:

  • Quyết định mở rộng biên độ tỷ giá từ +/-3% lên +/-5% nhằm giảm bớt sự chênh lệch tỷ giá giữa thị trường tự do và thị trường chính thức;
  • Kiểm soát chặt chẽ hoạt động kinh doanh ngoại hối của các tổ chức tín dụng nhằm bảo đảm các tổ chức tín dụng thực hiện nghiêm túc các quy định quản lý ngoại hối về thực hiện niêm yết và giao dịch;
  • Tăng cường công tác tuyên truyền ổn định tâm lý người dân.

+Hiện tượng doanh nghiệp vay USD tuy chưa đến kỳ trả nợ nhưng đã mua sẵn USD để giữ vì sợ tỷ giá sẽ tăng. Chính lượng đặt mua nhiều của doanh nghiệp khiến cầu ngoại tệ tăng.

+ Sự chênh lệch quá lớn giữa tỷ giá chính thức và TTTD (có lúc là 10%) là một cơ hội không thể bỏ qua cho giới đầu cơ tìm kiếm lợi nhuận từ chênh lệch giá này.

  1. Từ tháng 10 đến 25/11/2009: Biến động tỷ giá rất dữ dội từ 18.545 đến 19.300 VND/USD, có lúc đạt đỉnh 20.000 VND/USD trên TTTD và 19.750 đồng trên thị trường LNH.

Nguyên nhân:

 +Tác động của chính sách hỗ trợ lãi suất cho các doanh nghiệp bằng tiền đồng, cộng thêm lãi suất vay tiền đồng thấp, phạm vi và thời gian vay được mở rộng theo chủ trương của CP nên một số doanh nghiệp có ngoại tệ có xu hướng không bán ngoại tệ và chỉ muốn vay tiền đồng. Đây là 1 tác động thiếu tích cực không mong muốn khi triển khai gói kích cầu.

+Nguồn cung USD giảm do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế, xuất khẩu, du lịch của Việt Nam. Số liệu của Tổng cục thống kê, hết tháng 9 năm 2009, xuất khẩu của Việt Nam giảm 11,6%, khách quốc tế đến Việt Nam giảm 12,3% so với cùng kỳ năm 2008. Giá trị nhập khẩu trong 3 tháng cuối năm đãtăng mạnh so với 3 tháng đầu năm, chiếm 30% tổng giátrịnhập khẩu cảnăm 2009. Giátrịxuất khẩu trong cảnăm giảm 10% so với năm 2009 chủyếu do mặt bằng giáxuất khẩu giảm đặc biệt làcác mặt hàng xuất khẩu chủlực của Việt Nam. Mặc dùxuất khẩu tăng vào cuối năm nhưng trong tháng 11, nhập siêu lên tới hơn 2 tỷ USD, mức lớn nhất trong cảnăm.Do đó, nguồn cung USD trên thị trường giảm.

 Biểu đồ 2.7:  Cán cân xuất nhập khẩu năm 2009

                                                                                       Nguồn:  customs.gov.vn

Giai đoạn 2 (từ ngày 25/11 đến hết năm 2009): ngày 26/11/2009, NHNN đãbuộc phải chính thức phágiáVND 5,4%, tỷ lệ phágiá cao nhất trong một ngày kể từ năm 1998 để chống đầu cơ tiền tệvàgiảm áp lực thịtrường, đồng thời thu hẹp biên độgiao động xuống còn +/-3%. Cùng với chính sách tỷgiá, vào thời điểm này NHNN đãnâng lãi suất cơ bản từ7% lên 8%/năm. Các chính sách này được cho làhợp lýnhưng khámuộn màng. Đồng Việt Nam tiếp tục mất giátrên thịtrường tựdo thểhiện qua việc tỷgiátrên thịtrường tựdo vào thời điểm cuối năm 2009 vẫn đứng vững ởmức cao khoảng 19.400 VND cho 1 USD vàcác NHTM tiếp tục giao dịch ởmức trần.

Những biện pháp đúng đắn và phù hợp của NHNN đã giúp thị trường ngoại hối trong Quý III/2009 diễn biến tương đối ổn định. Tuy nhiên, đến quý IV/2009, tình hình mất cân đối cung - cầu ngoại tệ lại xuất hiện trở lại vào tháng 11/2009. Ảnh hưởng của thông tin về mức thâm hụt cán cân thương mại ngày càng tăng và dự trữ ngoại hối suy giảm, mà đặc biệt là dưới tác động của cơn sốt giá vàng. Giá vàng trong nước tăng cao đã khiến cầu ngoại tệ tăng đột biến do giới đầu cơ đẩy mạnh hoạt động thu mua USD để mua vàng, chênh lệch lớn giữa giávàng trong nước và giá vàng quốc tếđãkhiến cho nhu cầu vềUSD càng tăng đểphục vụviệc nhập khẩu vàng. Giávàng vàUSD đều đãtăng mạnh. Người dânđẩymạnh mua ngoại tệ trên thị trường tự do, giá USD trên thị trường  chợ đen tăng  mạnh.  Do khan hiếm nguồn cung USD, các doanh nghiệp cũng phải nhờ đến thị trường chợ đen hoặc phải cộng thêm phụ phí khi mua ngoại tệ tại các NHTM. Tâm lý hoang mang mất lòng tin vào VND làm tăng cầu vàgiảm cung vềUSD đãđẩy tỷgiáthịtrường tựdo tăng lên hàng ngày, có thời điểm đẩy giá USD lên tới 20.000 VND/ 1 USD và mức chênh lệch tỷ giá giữa hai thị trường tăng mạnh từ mức xấp xỉ 800 VND đầu tháng 11/2009 lên gần 1.700 VND/ 1 USD vào tuần thứ 3 tháng 11/2009.

Biểu đồ 2.8: Biểu đồ so sánh giá vàng năm 2009

                                                                   Nguồn: btmc.vn

Nguyên nhân :

  • Sau 1 giai đoạn đấy biến động NHNN thực hiện biện pháp bình ổn tỷ giá, đặc biệt là sự chung góp sức của các NHTM;
  • Trước tình hình giá USD tự do tăng mạnh dưới ảnh hưởng của cơn sốt giá vàng, NHNN đã lập tức công bố cho nhập khẩu vàng nhằm giảm sức ép lên cung vàng; qua đó, hạ bớt sức nóng của đồng USD trên thị trường tự do;
  • Thêm vào đó, NHNN quyết định can thiệp trực tiếp và mạnh tay vào tỷ giá khi điều chỉnh tỷ giá bình quân LNH tăng 5,44% từ mức 17.034 VND ngày 25/11/2009 lên 17.961 VND/ 1 USD áp dụng cho ngày 26/11/2009; thu hẹp biên độ tỷ giá giao dịch USD/VND từ mức ±5% xuống mức ±3% và tăng lãi suất cơ bản tiền đồng lên 8%. NHNN cũng cam kết hỗ trợ bán ngoại tệ cho các TCTD có trạng thái ngoại tệ từ âm 5% trở xuống.

 Bên cạnh các quyết định trên của NHNN, Thủ tướng CP đã có văn bản số 2578/TTg-KTTH yêu cầu 7 tập đoàn, tổng công ty nhà nước bán ngay số ngoại tệ dưới dạng tiền gửi và các nguồn thu vãng lai cho các TCTD  được phép hoạt động ngoại hối để góp phần giảm áp lực đè nặng lên nguồn cung ngoại tệ.

  1. THỰC TRẠNG TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI NĂM 2010

               Diễn biến tỷ giá USD/VND năm 2010 vẫn tiếp tục là một vấn đề gây sự chú ý đặc biệt của các nhà hoạch định chính sách, các nhà nghiên cứu cũng như giới đầu tư khi nó liên tục có những biến động, gây nên những bất ổn về kinh tế vĩ mô, gây xáo động thị trường. Để bình ổn thị trường ngoại hối, ngân hàng nhà nước đã thực thi rất nhiều chính sách, biện pháp như điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng (2 lần), cung ứng ngoại tệ ra thị trường (mặc dù dự trữ ngoại hối của quốc gia không được dồi dào), và đặc biệt là kiểm soát chặt chẽ thị trường vàng khi ban hành Thông tư 22 về quản lý huy động và cho vay bằng vàng đối với các TCTD.

Diễn biến tỷ giá USD trên thị trường năm 2010 có thể được chia thành 4 giai đoạn tùy thuộc vào mối quan hệ giữa tỷ giá trên TTTD và trên thị trường chính thức:

Biểu đồ: Biến động tỷ giá USD/VND năm 2010

Description: Diễn biến các loại tỷ giá USD/VND trong nước năm 2010.

Nguồn:  cafef.vn

- Giai đoạn 1: Quý 1 năm 2010: Giá USD trên TTTD giao dịch ở mức cao hơn tỷ giá chính thức.

            Sau khi NHNN thực thi nhiều biện pháp kiểm soát mạnh thị trường ngoại hối cuối năm 2009, tỷ giá USD/VND trên TTTD đã dần hạ nhiệt. Tuy nhiên, chênh lệch tỷ giá trên TTTD và chính thức vẫn ở mức khá cao, khoảng 1000 VND/USD giao dịch cho đến những ngày đầu tháng 2. Ngày 10/2,  NHNN bất ngờ phá giá VND thêm 3,3% từ 17.941 lên mức 18.544 đồng/USD. Động thái này của NHNN vào những ngày giáp Tết, thời điểm nguồn cung ngoại tệ thường dồi dào đã giúp cho giá USD trên TTTD tiếp tục giảm xuống và sát với tỷ giá giao dịch của các NHTM vào cuối quý 1 năm 2010.

Nguyên nhân: Do nguồn cung ngoại tệ trong giai đoạn này khá dồi dào nhưng tỷ giá mua USD của các NHTM đã tăng nhanh trong tháng 3, và gần như tiệm cận sát với tỷ giá bán (được đặt ở mức trần 19.100 VND/USD). Diễn biến này được cho là bắt nguồn từ việc các doanh nghiệp có nguồn thu xuất khẩu có xu hướng găm giữ USD để sử dụng khi cần thiết, bởi nếu gửi vào ngân hàng thì lãi suất rất thấp (tại thời điểm đó là 1% cho các tổ chức kinh tế), trong khi lo lắng có thể khó tiếp cận USD hoặc rủi ro tỷ giá khi có nhu cầu trong tương lai.

      Và do lãi suất cho vay bằng VND khá cao (14-18%) trong khi lãi suất cho vay bằng USD lại ở mức thấp (6-7,5%), nên đã dẫn đến một hiện tượng đó là các doanh nghiệp thay vì vay bằng VND lại chuyển sang vay bằng USD với lãi suất thấp hơn và kỳ vọng tỷ giá ổn định hơn. Diễn biến này trên thị trường tiền tệ được cho là đã gây ra căng thẳng cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối trong các quý còn lại của năm 2010 khi các doanh nghiệp đến hạn phải trả tín dụng ngoại tệ cho ngân hàng.

       - Giai đoạn 2:  Quý 2 năm 2010: Giá USD tự do và USD tại các NHTM giảm và rời mốc trần tỷ giá theo quy định của NHNN.

        Thị trường ngoại hối của Việt Nam đã có những chuyển biến khá tích cực trong tháng 4 sau một thời gian dài căng thẳng. Từ chỗ mất cân đối cung cầu ngoại tệ đến nay các NHTM đã bắt đầu tự cân đối được cung cầu ngoại tệ và thậm chí bán ngoại tệ cho NHNN. Tính thanh khoản của thị trường được cải thiện rõ rệt, nhu cầu mua ngoại tệ được đáp ứng đủ. Chính vì vậy mà giá USD trên TTTD liên tục giảm ngay từ đầu tháng 4, từ mức 19.300-19.330 xuống còn 18.950-18.970 tại thời điểm cuối tháng 4; Sau đó tiếp tục ổn định ở mức dưới 19.000 cho đến hết tuần 3 tháng 6. Song song với giá USD trên TTTD, giá USD tại các NHTM cũng giảm liên tục rời xa mức trần tỷ giá, theo đó giá USD giảm từ 19.050-19.100 xuống còn 18.950-19.010, và dao động quanh mức 18.950-18.990 vào thời điểm cuối quý 2. Diễn biến tỷ giá USD giảm liên tục trong quý 2 được cho là do lượng cung USD tăng mạnh, trong khi cầu USD không biến động nhiều.

Nguyên nhân:

Về cung USD: Trong giai đoạn này lượng cung USD tăng mạnh trên thị trường chủ yếu là lượng cung ảo bắt nguồn từ một chênh lệch lãi suất bằng VND và USD quá cao, cộng thêm với việc tỷ giá tại NHTM lại tương đối ổn định nên đã dẫn đến một thực tế là các doanh nghiệp đi vay bằng USD rồi chuyển sang VND. động thái này đã hình thành nên một lượng cung USD ảo trên thị trường ngoại hối khiến cho tỷ giá USD giảm mạnh trong quý 2. Một yếu tố nữa góp phần tăng nguồn cung USD trên thị trường là do các chính sách và biện pháp hành chính liên quan đến quản lý thị trường ngoại tệ của NHNN trong quý 1 (như kết hối ngoại tệ, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi ngoại tệ, mở rộng đối tượng được vay ngoại tệ...). Bên cạnh đó, luồng vốn giải ngân FDI, luồng vốn đầu tư gián tiếp, và ODA giải ngân trong quý 1 năm 2010 tăng cao hơn so với cùng kì năm trước cũng làm cung ngoại tệ trên thị trường ngoại hối tăng thêm.

            Về cầu USD: Trong khi lượng cung ảo USD tăng mạnh thì cầu USD không có nhiều biến động. Diễn biến này xuất phát sau khi NHNN cho phép thực hiện cho vay ngắn hạn theo lãi suất thỏa thuận, lãi suất huy động  VND có xu hướng tăng cao dao động quanh mức 10-10,49%, thậm chí lên tới 11,5-11,99% khiến cho người dân có xu hướng gửi tiết kiệm VND, hoạt động đầu cơ vào USD và vàng giảm, làm giảm cầu USD trên thị trường. Thêm vào đó, việc chấm dứt hoạt động của các sàn vàng, lãi suất tiết kiệm bằng vàng tại các NHTM gần như 0%, cộng với một lượng vàng khá lớn tại các NHTM đã khiến cho giá vàng trong nước có xu hướng giảm (thậm chí thấp hơn giá vàng thế giới) khiến cho hoạt động đầu tư vào vàng suy giảm. điều này góp phần giảm sức ép đối với cầu USD do nhu cầu nhập khẩu vàng thấp.

     Biểu đồ: Giá vàng trong nước (tr.VND/chỉ)

          Biểu đồ: Giá vàng trong nước (tr.VND/chỉ)

                                                                                           

                   

                                                                                               Nguồn: vneconomy.vn

  • Giai đoạn 3:  Quý 3 năm 2010: Giá USD tự do biến động mạnh vượt giá USD trên thị trường chính thức. NHNN bất ngờ điều chỉnh tỷ giá bình quân LNH tăng thêm 2% vào ngày 18/8/2010. Sau một thời gian ổn định trong quý 2, giá USD có xu hướng tăng mạnh bắt đầu từ cuối tháng 6, kéo dài hết tháng 7 và tiếp tục tăng trong tháng 8 khi đạt mức 19.300-19.330 vào ngày 17/8- một ngày trước khi NHNN bất ngờ điều chỉnh tỷ giá bình quân LNH lên mức 1 USD=18.932 VND, tương đương với việc VND giảm 2%. Như vậy, trong vòng chưa đầy một năm NHNN đã 3 lần điều chỉnh tăng tỷ giá LNH.

Nguyên nhân:

      Thứ nhất, có thể đây là thời điểm đáo hạn các khoản tín dụng ngoại tệ mà các DN đã vay trong những tháng đầu năm dẫn đến nhu cầu mua USD trả nợ tăng.

      Thứ hai, do nhu cầu nhập khẩu cuối năm thường tăng cao nên các doanh nghiệp có xu hướng gom mua USD đề phòng trường hợp khan hiếm ngoại tệ.

Thứ ba, từ giữa tháng 6, NHNN đưa ra yêu cầu kiểm soát chặt tín dụng ngoại tệ, hạn chế cấp ngoại tệ dùng để nhập khẩu những mặt hàng thiết yếu mà trong nước đã sản xuất được. Chính vì vậy, nhà nhập khẩu thuộc diện bị hạn chế có thể đã tìm cách gom ngoại tệ nhằm tránh khó khăn khi tiếp cận vốn trong tương lai, khiến cho cầu USD tăng lên.

Thứ tư, lãi suất USD có xu hướng tăng lên, trong khi NHNN đang yêu cầu các NHTM đồng thuận giảm lãi suất VND khiến cho người dân có tâm lý lựa chọn nắm giữ USD, dẫn đến cầu USD tăng lên.

Thứ năm, các báo cáo kinh tế thế giới gần đây cho thấy nền kinh tế toàn cầu chưa có dấu hiệu hồi phục rõ ràng và ổn định khiến cho USD tăng giá trên thị trường thế giới do đây vẫn là kênh trú ẩn an toàn.

  • Giai đoạn 4: Quí 4 năm 2010:  Tỷ giá TTTD vượt mốc 20.000. Sau khi NHNN điều chỉnh tỷ giá LNH vào ngày 18/8, giá USD trên TTTD dao động khá ổn định quanh mức 19.500. Tuy nhiên, vào cuối tháng 9, USD trên TTTD lại bắt đầu bước vào một đợt tăng giá mới và kéo dài cho đến tận cuối tháng 10. Giá USD trên TTTD liên tục tăng mạnh và vượt mức 20.000 vào ngày 19/10. Mặc dù các NHTM vẫn niêm yết giá USD là 19.490-19.500, nhưng hầu hết các doanh nghiệp đều phải chịu thêm một mức phụ phí khiến cho mức giá thực tế phải trả cũng gần như mức giá trên TTTD. Diễn biến này cho thấy cung cầu trên thị trường ngoại hối đang có dấu hiệu căng thẳng thực sự chứ không phải là cân bằng hay mua ròng ngoại tệ như công bố ngày 8/10 của NHNN.

       Tỷ giá thị trường tự do vượt mốc 21.000 trong tháng 11/2010 song song với việc giá vàng trong nước và giá vàng thế giới lập kỉ lục đà tăng giá mạnh của USD trong tuần cuối tháng 10 được tiếp nối trong những ngày đầu của tháng 11 bằng việc chạm mốc 21.000 vào ngày 4/11. Biến động này đã đẩy chênh lệch giữa giá USD trên TTTD và giá trần theo quy định của NHNN đã lên đến 1.300-1.500VND/1USD giao dịch trong tuần đầu tiên của tháng 11.

Nguyên nhân:  Động thái của NHNN tiếp tục cho phép một số DN nhập vàng không hạn chế thời gian có thể khiến cho giá vàng trong nước sát với giá thế giới, nhưng nó khó có thể khiến cho thị trường ngoại tệ giảm nhiệt bởi vì các doanh nghiệp có giấy phép nhập khẩu vàng sẽ phải gom USD để nhập.

           Những căng thẳng trên thị trường ngoại tệ không thể giải quyết chỉ bằng thông điệp sẽ cung ngoại tệ,  mà  chính là số lượng ngoại tệ mà NHNN có thể cung ra bao nhiêu khi mà lượng dự trữ ngoại hối hiện nay là khá mỏng.

            Tâm lý lo sợ VND ngày càng mất giá cộng với lạm phát có xu hướng tăng cao đã khiến cho người dân nắm giữ vàng và ngoại tệ thay vì VND cũng khiến cho thị trường ngoại tệ nóng hơn bao giờ hết.

         Biểu đồ: Mất giá của VND so với một số đồng tiền từ  đầu năm đến 04/11/2010

Description: bang28-2

                                                                                          Nguồn: dantri.com.vn

              Nhập siêu tăng mạnh trong tháng 11 lên mức cao nhất kể từ tháng 2/2010 cũng là nguyên nhân tăng sức ép tới tỷ giá cho dù các nguồn tài trợ cho thâm hụt thương mại năm 2010 có tăng mạnh.

       Như vậy, sự biến động mạnh với nhiều trạng thái khác nhau của USD trong năm 2010 đã gây nên bất ổn cho nền kinh tế đồng thời khiến cho các mất cân đối vĩ mô như tình trạng nhập siêu, lạm phát... ngày càng trở nên trầm trọng và khó kiểm soát hơn. Cụ thể, lạm phát không thể đạt mục tiêu khi lên tới 2 con số trong năm 2010, còn thâm hụt thương mại trong 11 tháng năm 2010 (nếu loại bỏ xuất khẩu vàng ước tính khoảng 2,8 tỷ USD) cũng lên tới 13,6 tỷ (tương đương với 21,2% tổng kim ngạch xuất khẩu), vượt mục tiêu 13,5 tỷ USD nhập siêu cho cả năm 2010.


  1. CHÍNH SÁCH ĐIỀU CHỈNH TỶ GIÁ HỐI ĐỐI Ở VIỆT NAM

Việc xác định một chính sách tỷ giá phù hợp đối với từng giai đoạn phát triển của một quốc gia có tác động rất lớn đến xuất nhập khẩu hàng hóa, xuất nhập khẩu tư bản và đến giá cả hàng hóa trong nước...Trong thời gian qua chính sách TGHĐ ở nước ta đã đóng góp những thành tựu đáng kể trong chính sách tài chính – tiền tệ như: hạn chế lạm phát, thực hiện mục tiêu hỗ trợ xuất khẩu, cải thiện cán cân thanh toán, tạo điều kiện ổn định ngân sách, ổn định tiền tệ. Tuy nhiên trong việc điều hành tỷ giá, Nhà nước vẫn còn thiếu những giải pháp hữu hiệu trong từng giai đoạn để sử dụng công cụ tỷ giá một cách phù hợp. Để tỷ giá được bình ổn lâu dài thì chắc chắn hai yếu tố căn bản là nhập siêu và lạm phát phải được khống chế. Sau đây là một số giải pháp giải quyết biến động tỷ giá hối đoái ở Việt nam:

  1. Chính sách ngoại hối

Trong giải pháp đối với chính sách ngoại hối hiện nay chúng ta có thể thực hiện các biện pháp như sau:

  • Hoàn thiện công tác quản lý ngoại hối ở Việt Nam: Quản lý tốt dự trữ ngoại hối, tăng tích lũy ngoại tệ: xây dựng chính sách phát triển xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu. Tiết kiệm chi ngoại tệ, chỉ nhập những hàng hóa cần thiết cho nhu cầu sản xuất và những mặt hàng thiết yếu trong nước chưa sản xuất được. Ngoại tệ dự trữ khi đưa vào can thiệp trên thị trường phải đạt được hiệu quả. Lựa chọn các phương án phù hợp cho việc dự trữ cơ cấu ngoại tệ. Trong thời gian trước mắt vẫn xem đồng USD có vị trí quan trọng trong dự trữ ngoại tệ của mình nhưng cũng cần đa dạng hóa ngoại tệ dự trữ để phòng tránh rủi ro khi USD bị mất giá. Tiến tới tự do hóa trong quản lý ngoại hối, hoạt động này bao gồm việc giảm dần, tiến đến loại bỏ sự can thiệp trực tiếp của NHTW trong việc xác định TGHĐ, xóa bỏ các quy định mang tính hành chính, thủ tục phức tạp trong kiểm soát ngoại hối, thiết lập tính chuyển đổi cho VND, sử dụng linh hoạt và hiệu quả các công cụ quản lý tỷ giá, chính sách điều chỉnh TGHĐ, nâng cao tính chủ động trong kinh doanh tiền tệ của các NHTM…
  • Hoàn thiện thị trường ngoại hối Việt Nam để tạo điều kiện cho việc thực hiện chính sách ngoại hối có hiệu qủa bằng cách mở rộng thị trường ngoại hối để các doanh nghiệp, các định chế tài chính phi ngân hàng tham gia thị trường ngày một nhiều, tạo thị trường hoàn hảo hơn, nhất là thị trường kỳ hạn để các đối tượng kinh doanh có liên quan đến ngoại tệ có thể tạo nên một thị trường ngoại hối linh hoạt giúp cho nền TGHĐ có thể ổn định và phát triển nền kinh tế.
  1. Chính sách đối với ngoại tệ

Một số biện pháp, chính sách đối với ngoại tệ:

  • Hoàn chỉnh thị trường ngoại tệ LNH: đây là điều kiện cần thiết để qua đó nhà nước có thể nắm được mối quan hệ cung cầu về ngoại tệ, đồng thời qua đó để thực hiện các biện pháp can thiệp của nhà nước khi cần thiết một cách chính xác và hiệu quả. Trước mắt cần có những biện pháp thúc đẩy các ngân hàng có kinh doanh ngoại tệ tham gia vào thị trường ngoại tệ LNH , song song đó phải củng cố và phát triển thị trường nội tệ LNH với đầy đủ các nghiệp vụ hoạt động của nó, tạo điều kiện cho NHNN phối hợp, điều hòa giữa hai khu vực thị trường ngoại tệ và thị trường nội tệ một cách thông thoáng.
  • Thực hiện chính sách đa ngoại tệ: Hiện nay trên thị trường ngoại tệ, mặc dù USD có vị thế mạnh hơn hẳn các ngoại tệ khác, song nếu trong quan hệ tỷ giá chỉ áp dụng một loại ngoại tệ trong nước sẽ làm cho tỷ giá ràng buộc vào ngoại tệ đó, cụ thể là USD. Khi có sự biến động về giá cả USD trên thế giới, lập tức sẽ ảnh hưởng đến quan hệ tỷ giá của USD đến VND mà thông thường là những ảnh hưởng rất bất lợi. Chúng ta nên lựa chọn những ngoại tệ mạnh để thanh toán và dự trữ, bao gồm một số đồng tiền của những nước mà chúng ta có quan hệ thanh toán, thương mại và có quan hệ đối ngoại chặt chẽ nhất như quan hệ về kinh tế (xuất, nhập khẩu) để làm cơ sở cho việc điều chỉnh tỷ giá của VND ví dụ như EUR, JPY vì hiện nay EU, Nhật là những thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Chính sách tỷ giá gắn với một rổ ngoại tệ như vậy sẽ làm tăng tính ổn định của TGHĐ danh nghĩa, hạn chế những tác động tiêu cực của các biến động bất lợi khi có sự thay đổi một loại ngoại tệ nào đó.
  • Nâng cao vị thế, sức mạnh cho đồng tiền Việt Nam: bằng các giải pháp kích thích nền kinh tế như: hiện đại hoá sản xuất trong nước, đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp quốc doanh làm ăn thua lỗ, tăng cường thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước, xây dựng chính sách thích hợp để phát triển nông nghiệp, khuyến khích xuất khẩu, bài trừ tham nhũng, nâng cao giá trị hàng hóa Việt Nam trên trường quốc tế, khẳng định vị thế kinh tế Việt Nam… Tạo khả năng chuyển đổi cho đồng tiền Việt Nam: đồng tiền chuyển đổi được sẽ tác động tích cực đến hoạt động thu hút vốn đầu tư, hạn chế tình trạng lưu thông nhiều đồng tiền trong một quốc gia, tránh tình trạng đôla hóa đang diễn ra phức tạp ở Việt Nam. Việc huy động các nguồn lực trong nền kinh tế trở nên thuận lợi, hoạt động xuất nhập khẩu của quốc gia đó năng động hơn. Đồng tiền tự do chuyển đổi làm giảm sự can thiệp trực tiếp của CP vào chính sách quản lý ngoại hối và cơ chế điều hành tỷ giá, giúp cho tốc độ chu chuyển vốn được đẩy mạnh, đẩy nhanh tiến độ hội nhập kinh tế thế giới. Tuy nhiên, muốn tạo khả năng chuyển đổi cho VND phải có đủ lượng ngoại tệ dự trữ và nền kinh tế vững mạnh. Khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam phải nhanh chóng cải thiện.
  1. Chính sách đối với xuất nhập khẩu

TGHĐ tác động lớn tới xuất nhập khẩu. Bên cạnh đó thì xuất nhập khẩu cũng ảnh hưởng lại tới TGHĐ. Để ổn định tỷ giá thì CP và NHTW cần tác động tới xuất nhập khẩu:

  • Khuyến khích xuất khẩu: Hoạt động xuất khẩu là một trong những kênh quan trọng nhất để tạo nguồn cung ngoại tệ trong nước, có tác động tới TGHĐ. Việt Nam cần tăng cường, khuyến khích xuất khẩu các mặt hàng mà quốc gia có lợi thế trên thị trường quốc tế, có những chính sách hỗ trợ nhất định cho các doanh nghiệp xuất khẩu như về các thủ tục hành chính, thuế quan… để từ đó có thể để xuất khẩu có thể là một giải pháp ổn định TGHĐ.
  • Hạn chế nhập siêu: Thực trạng ở Việt Nam hiện nay là trình trạng nhập siêu kéo dài nhiều năm. Năm 2010 nhập siêu của Việt Nam đạt 12 tỷ USD, dự đoán năm 2011 sẽ là 14,5 tỳ USD, đây là một con số rất lớn so với nền kinh tế Việt Nam hiện nay, không những không làm tăng lượng ngoại tệ mà còn làm giảm quỹ dự trữ ngoại hối của quốc gia. Để hạn chế nhập siêu NHNN và CP cần phải hạn chế nhập khẩu các mặt hàng không thiết yếu cho nền kinh tế, các mặt hàng mà trong nước có thể sản xuất được, khuyến khích hoạt động sản xuất các ngành công nghiệp phụ trợ trong nước để hạn chế nhập khẩu nguyên vật liệu nước ngoài. Nước ta cần giảm dần tình trạng nhập siêu tiến tới xuất siêu, thúc đẩy phát triển kinh tế.
  1. Các chính sách điều chỉnh kinh tế vĩ mô

Để giải quyết được những biến động của TGHĐ thì các chính sách điều chỉnh của CP cũng như NHTW cần được chú trọng nhất là các chính sách điều chỉnh kinh tế vĩ mô:

  • Hoàn thiện cơ chế điều chỉnh TGHĐ Việt Nam: Để đảm bảo cho tỷ giá phản ánh đúng quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường nên từng bước loại bỏ dần việc qui định khung tỷ giá với biên độ quá chặt của NHTW đối với các giao dịch của các NHTM và các giao dịch quốc tế (Hiện nay biên độ này là +/- 3% so với tỷ giá mà NHTW đưa ra). NHTW chỉ điều chỉnh tỷ giá trên các phiên giao dịch ngoại tệ LNH và theo hướng có tăng có giảm để kích thích thị trường luôn sôi động và tránh hiện tượng găm giữ USD trong người dân.
  • Sử dụng có hiệu quả công cụ lãi suất để tác động đến tỷ giá, CP phải tiến hành từng bước tự do hóa lãi suất, làm cho lãi suất thực sự là một loại giá cả được quyết định bởi chính sự cân bằng giữa cung và cầu của chính đồng tiền đó trong thị trường chứ không phải bởi những quyết định can thiệp hành chính của CP. Và thông qua lãi suất có thể tác động tích cực đến TGHĐ.
  • Phối hợp các chính sách kinh tế vĩ mô để hoạt động can thiệp vào tỷ giá đạt hiệu quả cao, đặc biệt là phải phối hợp chặt chẽ và nhịp nhàng giữa chính sách tài khóa và chính sách tỷ giá. Chú trọng hoàn thiện công cụ nghiệp vụ thị trường mở nội tệ. Chính sách tiền tệ được thực hiện qua 3 công cụ: lãi suất tái chiết khấu, dự trữ bắt buộc và nghiệp vụ thị trường mở nội tệ, ngoại thương, cán cân ngân sách, thuế, tín dụng, thu nhập… Tuy nhiên, đối với nghiệp vụ thị trrường mở thì nội tệ là công cụ quan trọng nhất vì nó tác động trực tiếp đến lượng tiền cung ứng, vì vậy nó quyết định đến sự thành bại của chính sách tiền tệ quốc gia, bên cạnh đó nó còn tham gia tích cực vào việc hỗ trợ chính sách tỷ giá khi cần thiết. Chẳng hạn khi phá giá sẽ tăng cung nội tệ, dẫn đến nguy cơ tạo ra lạm phát. Để giảm lạm phát người ta tiến hành bán hàng hóa giao dịch trong thị trường mở nội tệ, từ đó làm giảm cung nội tệ và lạm phát do đó cũng giảm theo. Xây dựng chính sách tỷ giá trên cơ sở hội nhập thị trường tiền tệ trong nước với quốc tế nhằm sử dụng hiệu quả các nguồn tài chính hạn chế và tránh nguy cơ tụt hậu.
  • Đối với các chính sách tài chính tiền tệ, tăng cường sử dụng nguồn vốn trong nước để bù đắp thiếu hụt ngân sách, phương án tốt nhất để thực hiện bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước là bằng vốn vay trong nước, hạn chế tối đa việc vay nợ nước ngoài.

Việc điều hành tỷ giá xuất phát từ  lợi ích chung của nền kinh tế; có nghĩa tại một thời điểm phải xác định rõ yếu tố nào cần ưu tiên và yếu tố nào có thể hy sinh để đạt lợi ích tổng thể tối đa, phải có một sự kết hợp giữa các chính sách để đạt được kết quả cao nhất mang lại lợi ích lớn nhất cho nền kinh tế. Ví dụ, quyết định tăng giá nội tệ để giảm nhẹ sức ép trả nợ nước ngoài của doanh nghiệp, CP và chấp nhận sự suy giảm tạm thời đối với xuất khẩu nếu điều này ít tạo khó khăn hơn cho nền kinh tế.

  1. Một số giải pháp khác

   Một số giải pháp khác mà NHTW có thể sử dụng trong những trường hợp khác nhau:

  • Thường xuyên phân tích tình hình kinh tế thế giới, khu vực và trong nước để đề ra được chính sách TGHĐ phù hợp cho từng giai đoạn. Đây là một trong những giải pháp quan trọng hàng đâu để thực hiện chính sách điều chỉnh TGHĐ.
  • Xem phá giá nhỏ VND như là một biện pháp kích thích xuất khẩu, giảm thâm hụt cán cân thương mại. Trong điều kiện hiện nay, một chính sách giảm giá nhẹ VND sẽ có thể tác động tích cực trong việc cải thiện đồng thời cả cân bằng bên trong và cân bằng bên ngoài: khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, sử dụng đầy đủ hơn các nguồn lực hiện có, làm tăng việc làm, sản lượng và thu nhập của nền kinh tế, trong khi vẫn kềm chế được lạm phát ở mức thấp
  • Thực hiện và vận dụng dự báo tỷ giá tốt để phòng ngừa và hạn chế rủi ro. Hoạt động dự báo có một tầm quan trọng rất lớn trong việc phòng ngừa rủi ro hoặc đầu cơ. NHTW có thể sử dụng các nhân tố cơ bản như thuyết PPP, hiệu ứng Fisher quốc tế để dự báo. Ngoài ra, NHTW cần theo dõi, phân tích diễn biến thị trường tài chính quốc tế một cách có hệ thống để có những cơ sở vững chắc cho đánh giá, dự báo sự vận động của các đồng tiền chủ chốt để từ đó đề ra những chính sách phù hợp cho nền kinh tế, tránh những tác động không tốt.
  • Nhanh chóng thực hiện các công cụ phòng ngừa rủi ro. Trong điều kiện tỷ giá hiện nay tiềm tàng nhiều nhân tố bất ổn chúng ta cần  phải gấp rút triển khai các công cụ phòng ngừa rủi ro. CP đã cho phép các NHTM thực hiện các công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá như hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, quyền chọn tiền tệ. Vấn đề là các NHTM và doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và những doanh nghiệp có thu, chi bằng ngoại tệ phải nhanh chóng sử dụng các công cụ này để phòng ngừa rủi ro tỷ giá.
  • Kiểm soát tốt giá vàng, giá dầu mỏ, chỉ số chứng khoán,… và những mặt hàng có liên quan mật thiết tới TGHĐ hạn chế những tác động từ thị trường thế giới cả giá vàng, dầu mỏ, thông qua đó có những chính sách cụ thể để điều chỉnh TGHĐ hợp lý, giảm mức kỳ vọng về sự mất giá của tiền đồng.
  • Đấu tranh có hiệu quả với hiện tượng đầu cơ, tích trữ ngoại tệ và kiềm chế tác động xấu của thị trường ngoại tệ chợ đen tới hiệu quả của các chính sách mà NHTW đưa ra. 

Chính sách TGHĐ ở Việt Nam trong thời gian tới phải được phối hợp đồng bộ với các chính sách quản lý vĩ mô khác mới đem lại hiệu quả cao cho nền kinh tế. Để đạt được mục tiêu của chính sách đó Đảng, CP cần phải có những bước đi phù hợp để trong thời gian tới việc quản lý ngoại hối ở Việt Nam sẽ có những bước cải tiến đáng kể đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế thế giới và phát triển kinh tế bền vững.


  1. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ỔN ĐỊNH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI Ở VIỆT NAM.
  1. Tỷ giá hối đoái ở Việt Nam - những vấn đề đặt ra.

PGS.TS. Nguyễn Thị Mùi Trường Đào tạo PTNNL VietinBank

Tỷ giá hối đoái (TGHĐ) là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô quan trọng  của mỗi quốc gia. Diễn biến của TGHĐ giữa USD với Euro, giữa USD/JPY cũng như sự biến động tỷ giá giữa USD/VND trong thời gian  qua cho thấy, tỷ giá luôn là vấn đề thời sự, rất nhạy cảm. Ở Việt Nam, TGHĐ không chỉ tác động đến xuất nhập khẩu, cán cân thương mại, nợ quốc gia, thu hút đầu tư trực tiếp, gián tiếp, mà còn ảnh hưởng không nhỏ đến niềm tin của dân chúng. Khi TGHĐ biến động theo chiều hướng không thuận, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã thực hiện nhiều giải pháp như: nới rộng biên độ +/-5% (3/2009); hạ biên độ xuống +/- 3% (2/2010), đồng thời với việc điều chỉnh tăng tỷ giá liên ngân hàng 3,36% ; 4/2010 NHNN yêu cầu các Tổng công ty, Tập đoàn có thu ngoại tệ phải bán cho ngân hàng và kiểm kiểm soát chặt chẽ các giao dịch mua bán ngoại tệ tại các địa điểm mua bán ngoại tệ. Gần đây nhất vào ngày 18/8/2010, NHNN đã điều chỉnh tăng tỷ giá liên ngân hàng lên hơn 2% (từ 18.544VND/USD lên 18.932 VND/USD) và giữa nguyên biên độ. Với những giải pháp này, thị trường ngoại tệ, thị trường vàng đã từng bước bình ổn, tỷ giá chính thức so với tỷ giá trên thị trường tự do được thu hẹp, từng bước lành mạnh hóa các giao dịch vốn trong xã hội.

Trong thời gian tới, TGHĐ biến động theo hướng nào, quả thật không dễ dự đoán. Sự biến động của tỷ giá sẽ khó lường, bởi nhiều nhân tố tác động như: nhập siêu còn lớn không chỉ trong ngắn hạn mà cả trong trung hạn; thâm hụt ngân sách vẫn ở mức cao (trên dưới 6%/GDP); giá vàng trong nước và thế giới luôn tăng mạnh (do khủng hoảng chi tiêu công tại một số quốc gia Châu Âu, châu Mỹ); nhu cầu ngoại tệ nói chung, USD nói riêng vào những tháng cuối năm sẽ tăng cao do khách hàng vay vốn đến hạn trả nợ ngân hàng; do nhu cầu chuyển lợi nhuận về nước của các nhà đầu tư nước ngoài; do kinh tế ngầm vẫn phát triển rất mạnh, khó có khả năng ngăn chặn, nên đôla hóa nền kinh tế còn ở mức cao; do thực hiện chính sách đồng tiền mạnh/ hay yếu của một số quốc gia trong khu vực… Như vậy sẽ có vài vấn đề đặt ra đối với TGHĐ:

Một là, có thể điều chỉnh TGHĐ theo quan hệ cung cầu ngoại tệ trong bối cảnh một số nước Châu Âu đang rơi vào cuộc khủng hoảng nợ công, còn Trung quốc lại nâng giá đồng nhân dân tệ? Trong bối cảnh khủng hoảng nợ công từ một số nước Châu Âu đang có chiều hướng lan rộng.Trong 7 tháng đầu năm 2010, Euro đã giảm giá 15,7% so với USD, giảm 8,5% so với đồng GBP và thậm chí giảm 20% so với đồng JPY.i  Trung quốc nâng giá Nhân dân tệ, ít nhiều tác động đến quan hệ ngoại thương giữa hai nuớc, tuy không lớn.

Tỷ giá USD/EUR từ tháng 7/2009 đến tháng 7/2010

Description: https://www.vietinbank.vn/web/export/sites/default/vn/research/10/10/100917.jpg

Như vậy TGHĐ sẽ phải điều chỉnh thế nào và khi nào để không gây ra những cú sốc và không tạo kỳ vọng mất giá đồng Việt Nam. TGHĐ là giá cả đối ngoại của đồng tiền, theo tín hiệu thị trường tỷ giá lúc lên, lúc xuống phải được xem là việc bình thường của nền kinh tế. Còn khi tỷ giá diễn biến theo chiều hướng bất lợi, thì bất cứ Quốc gia nào cũng cần can thiệp tỷ giá. Điểm khác nhau ở chỗ: thời điểm can thiệp; công cụ can thiệp, mức độ can thiệp và sự giám sát của quá trình can thiệp. Kinh nghiệm của nhiều Quốc gia trong điều hành chính sách tỷ giá cho thấy, việc chọn thời điểm điều chỉnh với “liều lượng” hợp lý là yếu tố quan trọng, thậm chí quyết định cho việc ổn định tỷ giá và khắc phục áp lực cộng hưởng lên tỷ giá và thị trường. Với kinh nghiệm này, khi tỷ giá đang dần ở thế ổn định, NHTW sẽ chủ động (tính toán một cách cụ thể) điều chỉnh tăng/giảm nếu dự báo trong thời gian tới là cần thiết, không nên để diễn biến tỷ giá ở mức “nóng” mới điều chỉnh, bởi điều chỉnh thời điểm này dễ gây hiệu ứng bất ổn từ tỷ giá sang các chỉ tiêu vĩ mô khác.

Hai là, Để khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, thì xử lý TGHĐ có phải là biện pháp hữu hiệu?

Ở Việt Nam, một số công trình nghiên cứu ii đã cho rằng: các đợt phá giá tiền vừa qua, không có tác dụng cải thiện cán cân thương mại”,  vì thế nếu cứ coi TGHĐ là một trong những rào cản cho xuất khẩu, để “lập luận” cần phải giảm giá VND, để cải thiện cán cân thương mại của Việt Nam sẽ là chưa ổn? Do cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam có nhiều bất cập, 70 -80% đầu vào của mặt hàng xuất khẩu là nhập khẩu, trong khi xuất khẩu lại lệ thuộc vào biến động trên thị trường quốc tế về điều kiện thương mại cũng như biến động giá cả. Ở khía cạnh nhập khẩu, TGHĐ có thực sự hạn hạn chế nhập khẩu, để thông qua đó hạn chế nhập siêu? Điều này cũng không hẳn như vậy. Do xuất khẩu nhiều, nhưng hầu hết ở dạng thô, giá trị gia tăng trên từng đơn vị xuất khẩu không cao, trong khi nhập siêu rất lớn, chủ yếu từ Trung Quốc (chiếm đến 80-90%/tổng kim ngạch nhập khẩu). Như vậy sự phụ thuộc của giá cả trong nước vào giá cả thị trường quốc tế khá lớn. Do đó, các ý kiến cho rằng cần xử lý tỷ giá theo hướng tăng để khuyến khích xuất khẩu, chủ động nhập khẩu là trực tiếp hoặc gián tiếp thu hẹp vai trò của tỷ giá iii, trong khi TGHĐ còn liên quan đến hàng loạt vấn đề như cán cân thanh toán, nợ quốc gia, thị trường tiền tệ, thị trường chứng khoán và bất động sản. Chỉ xét riêng mối quan hệ giữa tỷ giá với nợ quốc gia cũng cho thấy cần rất thận trọng trong việc nâng hay giảm giá của tiền đồng. Nợ quốc gia của Việt Nam chủ yếu là nợ nước ngoài (khoảng 40% GDP), nếu giảm giá tiền tệ thì ảnh hưởng không nhỏ đến nợ quốc gia. Với cơ cấu nợ công iv của Việt Nam nghiêng về nợ nước ngoài, thì khi tỷ giá điều chỉnh tăng lên, sẽ dẫn đến rủi ro nợ công do lãi suất biến động theo xu hướng tăng. Như vậy sẽ dẫn đến chênh lệch lãi suất quá lớn giữa thị trường trong nước và thị trường quốc tế, sẽ làm gia tăng mức độ đôla hóa và tiếp tục tạo áp lực lên TGHĐ. Vì vậy, khi cần điều chỉnh tỷ giá không chỉ đặt nó trong mối quan hệ với xuất, nhập khẩu, mà còn phải xem nó trong mối quan hệ với đầu tư, lãi suất và vay nợ  nước ngoài v.v… trong  chiến lược chung là nâng cao uy tín và vị thế của VND, hướng đến một đồng tiền tự do chuyển đổi trong khu vực.

Ba là, có khắc phục được yếu tố kỳ vọng VND mất giá?

 Khi người dân và doanh nghiệp luôn kỳ vọng VND mất giá, sẽ làm giảm niềm tin của người dân vào điều hành chính sách tài chính – tiền tệ của Chính phủ, NHNN, tiếp tục gây ra những bất ổn trên thị trường. Điều này đã và đang xảy ra trong dân chúng. Khi tỷ giá trên thị trường tự do biến động tăng, người dân nghĩ ngay đến việc NHNN sẽ điều chỉnh tỷ giá theo hướng VND giảm giá. Khi giảm giá VND thì giá một số hàng hóa dịch vụ tăng, lãi suất cho vay và huy động cũng bị đẩy lên cao, các giao dịch ngắn hạn trở lên phổ biến hơn lúc nào hết (gửi tiền cũng chỉ chấp nhận kỳ hạn ngắn từ tuần, đến tháng; nếu có gửi kỳ hạn 6 tháng hay 1 năm thì các NHTM lại phải áp dụng theo kiểu “rút ra trước hạn ở thời điểm nào sẽ được hưởng lãi suất ở kỳ hạn đó”. Nếu vẫn cứ tiếp cách hành xử này, VND luôn đặt trong  xu thế điều chỉnh giảm. Điều này là rất bất ổn trong trung hạn. Vậy có khắc phục được vấn đề này không? Theo chúng tôi có thể khắc phục được bằng cách trong ngắn hạn cần chấp nhận một tỷ lệ tăng trưởng thấp hơn hiện tại (trên dưới 5%),  duy trì một tỷ lệ lạm phát thấp (trên dưới 6%), đồng thời với nó là dùng các biện pháp để nâng giá tiền đồng, tạo một sự thay đổi từ nhận thức của người dân. Việc làm này sẽ tạo yếu tố tâm lý rất quan trọng, đặc biệt trong bối cảnh niềm tin của người dân bị suy giảm về sự không ổn định sức mua của tiền đồng, họ có tiền nhàn rỗi sẽ nhanh chóng chuyển sang vàng và ngoại tệ nắm giữ v.

Khi VND lên giá, có thể sẽ làm tăng thêm tình trạng nhập siêu, xuất khẩu có thể giảm đi. Nhưng như đã phân tích trên, yếu tố tỷ giá có tác động đến xuất nhập khẩu nhưng không hẳn là yếu tố quyết định. Vì vậy hướng đến sự ổn định tỷ giá trong trung hạn, rất cần thiết có cách nhìn mới về vấn đề này./.

i  Tính toán theo số liệu từ RatesFX

Đề tài nghiên cứu của PGS.TS. Nguyễn Thị Quy: ở Việt Nam, tác động của tỷ giá đến cán cân thương mại không rõ ràng. Cuộc phá giá VND giai đoạn 1998 - 2001 không có tác dụng cải thiện cán cân thương mại do năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu kém, cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là những mặt hàng ít nhạy cảm vào thay đổi tỷ giá, chính sách thương mại có xu hướng bảo hộ sản xuất trong nước; VND được định giá cao so với giá trị thực của nó. Ý kiến của Ông Trương Đình Tuyển – nguyên Bộ trưởng BTM cũng khẳng định: “TGHĐ có tác động không lớn đến xuất khẩu ở Việt Nam”.

Tham khảo thêm bài của TS. Vũ Đình Ánh “Xác định lại vai trò và quan điểm điều hành tỷ giá hối đoái” – Kỷ yếu HTKH VietinBank tháng 6 năm 2010.

Thống kê chính thức, nợ của Việt Nam hiện nay là 44,7% GDP năm 2009, đứng thứ 44/129 quốc gia, còn theo số liệu của WB, con số này là 47,5% GDP năm 2009. Nguồn số liệu thống kê và WB.

Có thể tham khảo bài viết của TS. Nguyễn Đức Độ: “Kỳ vọng VND mất giá & những tác động chủ yếu đến nền kinh tế” – Kỷ yếu HTKH, VietinBank tháng 6 năm 2010.

  1. Các giải pháp kiểm soát lạm phát mà NHNN đã thực hiện .

Trước việc lạm phát tăng quá cao ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của dân chúng, NHNN đã thực hiện các biện pháp thắt chặt tiền tệ với mong muốn nhanh chóng đưa chỉ số giá tiêu dùng giảm xuống, bao gồm: tăng Dự trữ bắt buộc (DTBB) 2 lần từ 5%-10%-11% đối với VND và từ 8%-10%-11% đối với ngoại tệ, đồng thời mở rộng kỳ hạn tiền gửi phải thực hiện DTBB từ <24 tháng thành tất cả các kỳ hạn; Tăng tất cả các mức lãi suất cơ bản từ 8,25%-8,75%, lãi suất tái cấp vốn từ 6,5%-7,5%, lãi suất tái chiết khấu từ 4,5%-6%; liên tục hút tiền về trên Thị trường mở; NHNN phát hành tín phiếu bắt buộc khoảng trên 20 nghìn tỷ đồng bắt đầu từ 19/3/2008 với kỳ hạn 12 tháng, lãi suất 7,58%; Tiếp tục thực hiện chuyển khoảng 50 nghìn tỷ đồng từ tiền gửi kho bạc về Ngân hàng Nhà nước; Trong quý IV/2007, NHNN thực hiện hạn chế tối đa mua ngoại tệ trên thị trường liên ngân hàng để hạn chế tổng phương tiện thanh toán tăng cao; Thắt chặt cho vay chứng khoán ở mức 3%/tổng dư nợ, sau đó tiếp tục kiểm soát mức cho vay đầu tư chứng khoán không vượt quá 20% vốn điều lệ, đồng thời tăng hệ số rủi ro đối với cho vay đầu tư chứng khoán từ 150% lên 250% theo Quyết định 03 ngày 1/2/2008 của NHNN.

Việc NHNN liên tục thực hiện các biện pháp thắt chặt tiền tệ trong thời gian qua, không ít ý kiến cho rằng NHNN đã điều hành chính sách tiền tệ chưa thật sự linh hoạt, gây nên những &ldquo;nổi sóng&rdquo; nhất định trên thị trường tiền tệ. Có thể đánh giá vấn đề này như sau:

Trước bối cảnh Việt Nam bắt đầu trở thành thành viên của WTO nên lần đầu tiên phải đối mặt với tình hình đầu tư gián tiếp nước ngoài gia tăng mạnh mẽ, trong khi kinh nghiệm thực tế chưa có nhiều nên việc điều hành chính sách tiền tệ của NHNN có phần chưa linh hoạt, thể hiện việc NHNN &ldquo;đã thực hiện đồng thời nhiều giải pháp mạnh vào cùng một thời điểm, nhưng lại thiếu đồng bộ với các biện pháp khác, tuy có góp phần ngăn chặn những biểu hiện tiêu cực trên thị trường tiền tệ, nhưng cũng gây khó khăn cho NHTM, tạo nên việc chạy đua nâng lãi suất huy động vốn, gây khó khăn cho sản xuất kinh doanh và xuất khẩu, ảnh hưởng đến tâm lý xã hội&rdquo; .

Do đó, các giải pháp của NHNN tiếp theo sẽ linh hoạt hơn trong điều hành chính sách tiền tệ theo chỉ đạo của Chính phủ, nhưng vẫn là ưu tiên kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo an sinh xã hội.

* Các giải pháp trong thời gian tới:

Thứ nhất: Tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ một cách chặt chẽ, thận trọng; sử dụng linh hoạt và hiệu quả các công cụ chính sách tiền tệ: xem xét việc tăng dự trữ bắt buộc; tiếp tục áp dụng biện pháp mua tín phiếu Ngân hàng Nhà nước bắt buộc đã công bố; kiểm soát tốc độ tăng tín dụng và tổng phương tiện thanh toán một cách hợp lý, trong đó mức tăng trưởng tín dụng tối đa 30%; kiểm soát cho vay bất động sản, kinh doanh chứng khoán và cho vay tiêu dùng.

Thứ hai: Thực hiện hỗ trợ vốn cho các ngân hàng thương mại để đảm bảo khả năng thanh toán.

Thứ ba: Tiếp tục mua ngoại tệ của các nhà đầu tư trên cơ sở nguồn cung ứng đã được Chính phủ phê duyệt một mặt để bổ sung dự trữ ngoại hối nhà nước, mặt khác nhằm đáp ứng đủ vốn cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu.

Thứ tư: Tiếp tục điều hành tỷ giá giữa đồng tiền Việt Nam với đồng Đô la Mỹ nói riêng và các loại ngoại tệ nói chung theo hướng cân đối các mục tiêu xuất nhập khẩu, sản xuất trong nước và nhập siêu; mở rộng biên độ giao động của tỷ giá lên ±2%.

Thứ năm: Nghiên cứu trình Chính phủ về cơ chế kiểm soát luồng vốn gián tiếp và vấn đề các nhà đầu tư chiến lược nước ngoài mua cổ phiếu bằng ngoại tệ; Tiếp tục triển khai Quyết định số 98/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Để án nâng cao tính chuyển đổi của đồng Việt Nam, khắc phục tình trạng đô la hoá trong nền kinh tế; Dự báo tình hình cung cầu ngoại tệ trên thị trường trong và ngoài nước và đề xuất các giải pháp phòng ngừa các rủi ro trong trường hợp luồng vốn đảo chiều.

Thứ sáu: Xây dựng phương án điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng trong 3 quý cuối năm 2008 để cả năm đạt được mục tiêu tăng tín dụng và tổng phương tiện thanh toán không quá 30%, tránh những cú sốc trên thị trường tiền tệ; Tiếp tục bổ sung hoàn thiện cơ chế điều hành dự trữ bắt buộc, lãi suất, tái cấp vốn, nghiệp vụ thị trường mở và các công cụ khác, kể cả các công cụ trực tiếp để sử dụng trong trường hợp cần thiết; NHNN phối hợp với các NHTM tổ chức thị trường repo giữa các NHTM để tổ chức hệ thống thanh toán các giao dịch này và nắm thông tin để can thiệp thị trường với tư cách là người cho vay cuối cùng.


KẾT LUẬN

Tuy rằng việc duy trì một chính sách TGHĐ ổn định không phải là yếu tố duy nhất quyết định đến nền kinh tế của chúng ta. Song có thể thấy được rằng việc giữ giá VND đã có tác động vô cùng mạnh mẽ. TGHĐ là một công cụ kinh tế vĩ mô chủ yếu để điều tiết cán cân thương mại quốc tế. TGHĐ có tác động rất lớn đến xuất nhập khẩu hàng hóa, xuất nhập khẩu tư bản, giá cả hàng hoá trong nước do đó nó cũng có những tác động không nhỏ đến nền kinh tế quốc dân. Tỷ giá VND so với USD tăng sẽ giúp cho giá cả của hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu tính bằng tiền nước ngoài giảm đi tương đối trên thị trường nước ngoài, từ đó góp phần giúp cho hàng hoá xuất khẩu của chúng ta có sức cạnh tranh tốt hơn trên thị trường thế giới, kim ngạch xuất khẩu luôn duy trì tốc độ tăng trưởng cao. Hơn nữa TGHĐ tăng khiến cho giá cả hàng nhập khẩu sẽ đắt lên tương đối trên thị trường nội địa với điều kiện giá nhập khẩu ổn định, vì thế duy trì TGHĐ cao sẽ hạn chế nhập khẩu, tạo điều kiện cho việc mở rộng thị phần của hàng hoá nội địa ở thị trường trong nước. Những năm qua, CP ta luôn xác định rõ ràng xuất khẩu là ưu tiên hàng đầu giúp tăng trưởng kinh tế và tạo công ăn việc làm. Vì vậy, lựa chọn một chính sách TGHĐ duy trì TGHĐ ổn định như vậy trong thời gian qua là hợp lý.

Mục tiêu nghiên cứu của đề án này là đánh giá, phân tích diễn biến, nguyên nhân và tác động của TGHĐ ở Việt Nam giai đoạn 2006 đến nay. Từ thực tế TGHĐ giai đoạn này cho thấy TGHĐ là một vấn đề hết sức phức tạp và nhạy cảm, tác động mạnh mẽ và sâu rộng tới nền kinh tế và phải chịu nhiều tác động yếu tố khách quan cũng như chủ quan từ trong nước và nước ngoài. Có thể nói việc nghiên cứu tác động của tỷ giá có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với mỗi sinh viên ngành kinh tế - nhất là sinh viên ngành tài chính ngân hàng, nó giúp chúng ta có cái nhìn tổng quát về nền kinh tế như thực trạng cán cân xuất nhập khẩu, cán cân vốn, thanh toán quốc tế, tình hình ngoại hối, dự trữ ngoại tệ…của quốc gia và tầm ảnh hưởng của tỷ giá mà trong giai đoạn 2006 đến nay là một minh chứng cụ thể. Từ đó có thể đưa ra các giải pháp, nhận định để khắc phục tình trạng này trong tương lai. Và theo đó, chính sách tỷ giá trong thời gian tới, NHNN nên tiến hành hoàn thiện cơ chế tỷ giá sao cho linh hoạt hơn, rút ngắn khoảng cách giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá thị trường tỷ do, từ đó làm biến mất tỷ giá TTTD, thu hút được lượng ngoại tệ đang tích trữ trong người dân. Đồng thời cũng không nên thực hiện một chính sách mạnh mẽ nhằm kích thích xuất khẩu để tránh những rủi ro các khoản vay ngoại tê của doanh nghiệp, CP, tình trạng lạm phát cao... tác động xấu tới nền kinh tế. Để từ đó TGHĐ thực sự là một công cụ, một chính sách hỗ trợ thiết yếu thúc đẩy nền kinh tế phát triển mạnh mẽ hơn nữa.

GVHD: LƯƠNG BẢO LINH