LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Hà Nội, ngày 12 tháng 12 năm 2012

Tác giả luận văn

Lê Ngọc Vĩnh


MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU

1

Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội

7

1.1. Nguồn nhân lực, các yếu tố ảnh hưởng đến nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội

7

1.2. Vai trò của nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi

24

1.3. Kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực của một số nước

25

Chương 2: Thực trạng nguồn nhân lực các huyện miền núi tỉnh Thanh Hoá hiện nay

31

2.1. Những đặc điểm ảnh hưởng đến nguồn nhân lực các huyện miền núi tỉnh Thanh Hoá

31

2.2. Thực trạng nguồn nhân lực các huyện miền núi Thanh Hoá cho phát triển kinh tế - xã hội trong những năm qua

46

Chương 3: Quan điểm và giải pháp phát triển nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội các huyện miền núi tỉnh Thanh Hoá

85

3.1. Quan điểm phát triển nguồn nhân lực

85

3.2. Một số giải pháp cơ bản về phát triển nguồn nhân lực các huyện miền núi Thanh Hoá thông qua đào tạo nghề

93

KẾT LUẬN

111

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

113

DANH MỤC CÁC BẢNG

TT

Tên bảng

Trang

1

Bình quân thu nhập đầu người và tuổi thọ của các nước (Bảng 1.1)

20

2

 Tăng trưởng kinh tế các huyện miền núi Thanh Hoá thời kỳ 2006-2010 (Bảng 2.1)

39

3

Phân bố dân cư tỉnh Thanh Hóa (Bảng 2.2)

43

4

Nhu cầu vốn đầu tư 2011 - 2020

58

5

Dân số và tỷ lệ phát triển dân số các huyện miền núi Thanh Hóa thời kỳ 2006-2010 (Bảng 2.4)

60

6

Dân số miền núi Thanh Hoá chia theo giới tính (Bảng 2.5)

61

7

Dân số đô thị của miền núi và toàn tỉnh Thanh Hoá (Bảng 2.6)

62

8

Lực lượng lao động các huyện miền núi Thanh Hoá phân theo nhóm tuổi (Bảng 2.7)

63

9

Dân số, lao động và chất lượng lao động các huyện miền núi Thanh Hoá giai đoạn 2006-20010 (Bảng 2.8)

64

10

Lao động làm việc theo khu vực kinh tế (Bảng 2.9)

65

11

Hệ thống các cơ sở dạy nghề khu vực miền núi và toàn tỉnh Thanh Hoá (Bảng 2.10)

69

12

Đầu tư cho các cơ sở dạy nghề công lập qua các năm (Bảng 2.11)

70

13

Kết quả đào tạo nghề cho lao động các huyện miền núi Thanh Hoá (Bảng 2.12)

72

14

Dân số và tỷ lệ phát triển dân số đến 2013 (Bảng 3.1)

94

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Một quốc gia muốn phát triển thì cần phải có các nguồn lực của sự phát triển kinh tế như: tài nguyên thiên nhiên, vốn, khoa học - công nghệ, con người vv… Trong đó nguồn lực con người là quan trọng nhất, có tính chất quyết định trong sự tăng trưởng và phát triển bền vững. Một nước cho dù có tài nguyên thiên nhiên phong phú, máy móc kỹ thuật hiện đại nhưng không có những con người có trình độ, có đủ khả năng khai thác các nguồn lực đó thì khó có khả năng có thể đạt được sự phát triển như mong muốn. Bởi lẽ, máy móc, phương tiện kỹ thuật, công nghệ dù có hiện đại đến máy cũng đều được làm nên từ bàn tay và trí óc của con người.

Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và ngày nay trong công cuộc hội  nhập và phát triển nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, Đảng ta luôn xác định: Nguồn lao động dồi dào, con người Việt Nam có truyền thống yêu nước, cần cù, sáng tạo, có nền tảng văn hoá, giáo dục, có khả năng nắm bắt nhanh khoa học và công nghệ là nguồn lực quan trọng nhất - nguồn năng lực nội sinh.

Rõ ràng Việt Nam đang có thế mạnh lớn về nguồn lực lao động nhưng tại sao chúng ta vẫn đang gặp nhiều khó khăn trong việc thúc đẩy kinh tế đi lên ? Có nhiều nguyên nhân lí giải cho vấn đề này, trong đó chất lượng nguồn nhân lực hiện nay của nước ta được xem là nguyên nhân mấu chốt. Lợi thế, khó khăn và nguyên nhân mấu chốt này, tỉnh Thanh Hóa nói chung, khu vực miền núi phía Tây của tỉnh Thanh Hóa cũng không phải là ngoại lệ.

Khu vực miền núi phía Tây tỉnh Thanh Hóa có 11 huyện có diện tích gần 8 nghìn Km2 [20]; dân số gần 90 nghìn người, gồm 7 dân tộc: Kinh, Mường, Thái, Thổ, Dao, Mông, Khơ mú [21]. Trong gần 90 nghìn người, nông dân chiếm tuyệt đại đa số (trên 80% dân số cả khu vực). Điều này cho thấy nông dân vẫn là lực lượng lao động xã hội chiếm tỉ lệ cao nhất; bao đời nay vẫn lấy nghề khai thác lâm sản, trồng rừng; trồng sắn, trồng lúa; chăn nuôi là nghề chính. Họ vẫn đang sản xuất một cách tự phát, manh mún và cứ nghĩ rằng khai thác lâm sản, trồng rừng, trồng sắn, trồng lúa, chăn nuôi là nghề dễ dàng, thuận lợi mãi mãi.

Thực tế sản xuất của nông dân khu vực miền núi phía Tây tỉnh Thanh Hóa mấy nghìn năm nhưng tập quán canh tác cũng chưa mấy tiến bộ. Mặc dù những năm qua, Đảng và chính quyền các cấp mà trực tiếp là cấp tỉnh, cấp huyện đã quan tâm hỗ trợ, đầu tư; đã có nhiều chương trình, đề án, dự án và cơ chế, chính sách đặc thù đã được triển khai thực hiện. Nhưng, nhìn chung năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khu vực miền núi phía Tây tỉnh Thanh Hóa còn hạn chế (rất thấp). Rõ ràng, số lượng nhân lực khu vực miền núi phía Tây tỉnh Thanh Hóa dồi dào nhưng chất lượng chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội trong khu vực. Nếu không giải quyết được bài toán nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, khu vực miền núi phía Tây tỉnh Thanh Hóa sẽ đứng trước ba vấn đề sau đây:

Một là: Việc xóa đói giảm nghèo thiếu bền vững và sự phát triển của khu vực này tiếp tục chậm so các khu vực tiếp giáp, đặc biệt là khi cơ chế kinh tế đã đổi mới, sản xuất hàng hóa ngày càng phát triển nhanh, sự cạnh tranh trên thị trường ngày càng gay gắt.

Hai là: Khó đạt được mức thu nhập trung bình toàn tỉnh do không có nguồn nhân lực đủ trình độ sáng tạo, làm chủ công nghệ và quản lý để khai thác có hiệu quả lợi thế trong khu vực, trong khi đó tài nguyên thiên nhiên trong khu ngày càng cạn kiệt và hệ quả là thu nhập trung bình mãi dậm chân ở mức dưới mức thu nhập trung bình toàn tỉnh.

Ba là: Đánh mất cơ hội tham gia thị trường lao động có chất lượng cao ngoài khu vực; chỉ dừng lại ở  việc tham gia thị trường lao động có chất lượng thấp với tiền công rẻ mạt.

Ngoài ra, trong thời đại ngày nay, khoa học, công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và phát triển nhanh chóng đã kéo theo sự thay đổi căn bản về lợi thế phát triển; lợi thể sẵn có về tài nguyên thiên nhiên, lao động rẻ và sự dồi dào về vốn (tiền) đã và đang từng bước trở thành thứ yếu, sức mạnh về  trí tuệ, thể chất và kỹ năng thành thạo cao chiếm lợi thế.

Vì vậy, nghiên cứu và phát triển nguồn nhân lực các huyện miền núi Thanh hóa vẫn luôn là vấn đề cần quan tâm, cần thiết trong quá trình tổ chức thực hiện các mục tiêu phát triển Kinh tế - Xã hội của tỉnh.

Nhận thức rõ tính cấp thiết trên, huy vọng có được sự đóng góp nhỏ bé của mình vào sự phát triển kinh tế, xã hội của các huyện miền núi phía Tây tỉnh Thanh Hóa, trước tiên là phát triển nguồn nhân lực, tôi chọn vấn đề:

“Phân tích và đề xuất một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho chiến lược phát triển kinh tế - xã hội các huyện miền núi phía Tây tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2011-2020” làm luận văn Thạc sỹ kinh tế của mình.

Tác giả huy vọng nội dung nghiên cứu sẽ là tài liệu có giá trị không chỉ đối với các cấp chính quyền (tỉnh, huyện, xã) ở tỉnh Thanh Hóa trong việc xây dựng chiến lược, kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế - xã hội nói chung và chiến lược, kế hoạch, chương trình phát triển nguồn nhân lực nói riêng miền núi phía Tây của tỉnh Thanh Hóa mà còn có giá để các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác, quan tâm tham khảo.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Vấn đề nguồn nhân lực cho chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở các huyện miền núi phía tây tỉnh Thanh Hóa chưa có một công trình nào nghiên cứu độc lập. Tuy nhiên, đã có một số công trình nghiên cứu có liên quan như:

- Phát triển nguồn nhân lực của Thanh Hóa đến năm 2010 theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa: Tác giả Bùi Sỹ Lợi (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2002);

- Nâng cao chất lượng lao động trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Thanh Hóa: Tác giả Phạm Văn Tuyền; Luận án Thạc sỹ quản lý kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, năm 2000).

Các công trình trên đề cập một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nguồn nhân lực mà trọng tâm là nguồn nhân lực trong phạm vi toàn tỉnh tỉnh Thanh Hóa; không đi sâu nghiên cứu nguồn nhân lực ở các huyện miền núi của tỉnh.

3. Mục đích của luận văn 

Làm rõ thêm một số vấn đề về lý luận, thực tiễn nguồn nhân lực và đề xuất một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực ở các huyện miền núi phía tây tỉnh Thanh Hóa nhằm phục vụ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội mà Đại hội đại biểu tỉnh đảng bộ Thanh Hóa lần thứ XVII (2010) đã đề ra.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu luận văn

- Làm rõ một số vấn đề lý luận về nguồn nhân lực và sự cần thiết của chất lượng nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Thanh Hóa nói chung và của các huyện miền núi của tỉnh nói riêng.

- Phân tích đánh giá thực trạng nguồn nhân lực của các huyện miền núi Thanh Hóa hiện nay.

- Đề xuất một số giải pháp về phát triển, sử dụng nguồn nhân lực thông qua đào tạo nghề cho người lao động để phát triển kinh tế - xã hội các huyện miền núi tỉnh Thanh Hóa.

5. Đối tượng nghiên cứu 

Đề tài tập trung nghiên cứu các hoạt động phát triển nguồn nhân lực, các hoạt động liên quan của các cơ quan, đơn vị chức năng ở 11 huyện trong khu vực miền núi phía Tây tỉnh Thanh Hóa. Ngoài ra, còn nghiên cứu một số  hoạt động liên quan đến phát triển nguồn nhân lực khu vực miền núi phía Tây tỉnh Thanh Hóa của các cơ quan, đơn vị chức năng ngoài khu vực miền núi phía Tây tỉnh Thanh Hóa.

6. Phạm vi nghiên cứu

- Về nội dung: Nguồn nhân lực bao hàm rất nhiều nội dung, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu lĩnh vực đào tạo nghề cho người lao động trên địa bàn 11 huyện miền núi phía Tây tỉnh Thanh Hóa để nhằm phát triển nguồn nhân lực nói chung và đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ tay nghề, kỹ năng nghề nghiệp đáp ứng cho phát triển Kinh tế - Xã hội ở các huyện miền núi của tỉnh. Trong quá trình nghiên cứu có đề cập một số nội dung có liên quan nhằm làm rõ thêm nội dung nghiên cứu chính.

 - Về thời gian: Từ năm 2010 đến 2020.

7. Phương pháp nghiên cứu

- Vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam về đào tạo nghề cho người lao động;

- Sử dụng phương pháp luận chủ đạo là phương pháp duy vật biện chứng mác xít, kết hợp lôgíc và lịch sử, kết hợp lý luận với thực tiễn; kết hợp phương pháp thống kê, phân tích tổng hợp, so sánh với quan sát thực tế và sử dụng chuyên gia, vv…

8. Đóng góp của luận văn

Tác giả hy vọng luận văn là tài liệu tham khảo hữu ích cho những người làm công tác nghiên cứu, các nhà quản lý quan tâm đến việc hoạch định chính sách và chỉ đạo hoạt động thực tiễn về đào tạo phát triển nguồn nhân lực thông qua đào tạo nghề trong giai đoạn hiện nay ở các huyện miền núi. Đồng thời, góp phần tìm kiếm những giải pháp phù hợp phục vụ sự nghiệp phát triển Kinh tế - Xã hội của tỉnh Thanh Hóa nói chung và các huyện miền núi phía tây Thanh Hóa nói riêng.

9. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được chia làm 3 Chương.

Chương I: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nguồn nhân lực cho phát triển Kinh tế - Xã hội.

Chương II: Thực trạng nguồn nhân lực các huyện miền núi tỉnh Thanh Hóa.

Chương III: Quan điểm và giải pháp phát triển nguồn nhân lực phục vụ phát triển Kinh tế - Xã hội các huyện miền núi phía tây tỉnh Thanh Hóa.


Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CHUNG

VỀ NGUỒN NHÂN LỰC CHO PHÁT TRIỂN

KINH TẾ - XÃ HỘI 

1.1 NGUỒN NHÂN LỰC, CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN NGUỒN NHÂN LỰC CHO PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI

1.1.1. Nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế xã hội

Nguồn nhân lực là một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự thành công hay không thành công trong phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia do vậy tất cả các nước trên thế giới đều quan tâm đến phát triển nguồn nhân lực. Ðể phát triển nguồn nhân lực cần thực hiện nhiều biện pháp khác nhau trong đó có việc nghiên cứu đánh giá nguồn nhân lực với các nội dung nhý chất lượng, cơ cấu, kết quả lao động v.v. Tuỳ theo mục đích, yêu cầu mà việc đánh giá phải đáp ứng. Vậy nguồn nhân lực là gì ?

1.1.1.1. Khái niệm về nguồn nhân lực 

Thuật ngữ nguồn nhân lực xuất hiện vào thập niên 80 của Thế kỷ XX, khi có sự thay đổi căn bản về phương thức quản lý, sử dụng con người trong kinh tế lao động. Nếu như trước đây phương thức quản trị nhân viên với các đặc trưng coi nhân viên là lực lượng thừa hành, phụ thuộc, cần khai thác tối đa sức lao động của họ với chi phí tối thiểu thì từ những năm 80 đến nay với phương thức mới: Quản lý nguồn nhân lực với tính chất mềm dẻo hơn, linh hoạt hơn, tạo điều kiện tốt hơn để người lao động có thể phát huy ở mức cao nhất các khả nãng tiềm tàng, vốn có của họ thông qua tích lũy tự nhiên trong quá trình lao động phát triển. Có thể nói sự xuất hiện của thuật ngữ "nguồn nhân lực" là một trong những biểu hiện cụ thể có tính cách mạng của phương thức quản lý mới đối với phương thức quản lý cũ trong việc sử dụng nguồn lực con người.

Có thể nói, khái niệm nguồn nhân lực hiện nay không còn xa lạ với nền kinh tế nước ta. Tuy nhiên, cho đến nay quan niệm về vấn đề này hầu như chưa thống nhất. Tuỳ theo mục tiêu cụ thể mà người ta có những nhận thức khác nhau về nguồn nhân lực. Có thể nêu lên một số quan niệm như sau:

- Nguồn nhân lực là nguồn lực con người của những tổ chức (với quy mô, loại hình, chức năng khác nhau) có khả năng và tiềm năng tham gia vào quá trình phát triển của tổ chức cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia, khu vực và thế giới (1 Xem: Nicholas Henry - Public Administration and Public afairss, Tr. 256). Cách hiểu này, xuất phát từ quan niệm coi nguồn nhân lực là nguồn lực với các yếu tố vật chất, tinh thần tạo nên nãng lực, sức mạnh phục vụ cho sự phát triển nói chung của các tổ chức;

- Trong báo cáo của đánh giá về những tác động của toàn cầu hoá đối với nguồn nhân lực, Liên hợp quốc đưa ra định nghĩa nguồn nhân lực là trình độ lành nghề, kiến thức và năng lực thực có thực tế cùng với những năng lực tồn tại dưới dạng tiềm năng của con người. Quan niệm nguồn nhân lực theo hướng tiếp cận này có phần thiên về chất lượng của nguồn nhân lực. Trong quan niệm này, điểm được đánh giá cao là coi các tiềm năng của con người cũng là năng lực khả năng để từ đó có những cơ chế quản lý, sử dụng thích hợp và như vậy cho ta thấy phần nào sự tán đồng của Liên hợp quốc đối với phương thức quản lý mới nói trên.

- Theo giáo sư Phạm Minh Hạc, nguồn nhân lực cần phải hiểu là tổng thể các tiềm năng lao động của một nước hay một địa phương sẵn sàng tham gia một công việc nào đó (Phạm Minh Hạc, Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá - 2001).

- Ngân hàng Thế giới cho rằng: Nguồn nhân lực là toàn bộ vốn con người bao gồm thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp… của mỗi cá nhân. Như vậy, ở đây nguồn lực con người được coi như một nguồn vốn bên cạnh các loại vốn vật chất khác: vốn tiền tệ, công nghệ, tài nguyên thiên nhiên.

- Theo tổ chức Lao động quốc tế, nguồn nhân lực của một quốc gia là toàn bộ những người trong độ tuổi có khả năng tham gia lao động.
Nguồn nhân lực được hiểu theo hai nghĩa: Theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực là nguồn cung cấp sức lao động cho sản xuất xã hội, cung cấp nguồn lực con người cho sự phát triển. Do đó, nguồn nhân lực bao gồm toàn bộ dân cư có thể phát triển bình thường. Theo nghĩa hẹp, nguồn nhân lực là khả năng lao động của xã hội, là nguồn lực cho sự phát triển kinh tế xã hội, bao gồm các nhóm dân cư trong độ tuổi lao động, có khả năng tham gia vào lao động, sản xuất xã hội, tức là toàn bộ các cá nhân cụ thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về thể lực, trí lực của họ được huy động vào quá trình lao động.

- Khoa học kinh tế phát triển cho rằng: Nguồn nhân lực là một bộ phận dân số trong độ tuổi quy định có khả năng tham gia lao động. Nguồn nhân lực được biểu hiện trên hai mặt: Về số lượng đó là tổng số những người trong độ tuổi lao động làm việc theo quy định của Nhà nước và thời gian lao động có thể huy động được từ họ; về chất lượng, đó là sức khoẻ và trình độ chuyên môn, kiến thức và trình độ lành nghề của người lao động. Đến đây cần phải đề cập thêm quan niệm về nguồn lao động. Khoa học quản trị nhân lực cũng chỉ ra rằng, nguồn lao động là tổng số những người trong độ tuổi lao động quy định đang tham gia lao động hoặc đang tích cực tìm kiếm việc làm và nguồn lao động cũng được hiểu trên hai mặt: số lượng và chất lượng. Như vậy, theo khái niệm này, có một số người được tính là nguồn nhân lực nhưng lại không phải là nguồn lao động, đó là: Những người không có nhu cầu tìm việc làm; những người trong độ tuổi lao động quy định nhưng đang đi học; vv…

Tóm lại, tuy có những định nghĩa khác nhau tuỳ theo giác độ tiếp cận nghiên cứu nhưng điểm chung mà ta có thể dễ dàng nhận thấy: Nguồn nhân lực là toàn bộ những người trong độ tuổi có khả năng tham gia lao động và sẵn sàng tham gia một công việc nào đó của một nước hay một địa phương, khu vực. Nguồn nhân lực được biểu hiện trên các mặt: Số lượng; chất lượng và cơ cấu. Việc sử dụng nguồn nhân lực tham gia một công việc nào đó của một quốc gia, một địa phương, khu vực phải theo quy định pháp luật về độ tuổi lao động của mỗi nước. Ở nước ta, hiện nay, Luật Lao động quy định, nam từ đủ 15 đến đủ 60 tuổi; nữ nam từ đủ 15 đến đủ 55 tuổi.

- Về số lượng, đó là tổng số những người trong độ tuổi lao động làm việc theo quy định của Nhà nước và thời gian lao động có thể huy động được từ họ tham gia một công việc nào đó của một quốc gia, một địa phương, khu vực. Sự phát triển về số lượng nguồn nhân lực dựa trên những yếu tố bên trong (như: nhu cầu thực tế công việc đòi hỏi phải tăng số lượng lao động) và những yếu tố bên ngoài (như: sự gia tăng về dân số hay do biến động có học).

- Về chất lượng, đó là sức khoẻ (thể lực) và trình độ chuyên môn, kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp, vv.... (trí lực) của người lao động.

Trong các yếu tố trên thì trí lực và thể lực là hai yếu tố quan trọng trong việc xem xét đánh giá chất lượng nguồn nhân lực.

- Cơ cấu nhân lực là yếu tố không thể thiếu khi xem xét đánh giá về nguồn nhân lực. Cơ cấu nhân lực thể hiện trên các phương diện khác nhau như: cơ cấu trình độ đào tạo, giới tính, độ tuổi, vv... Cơ cấu nguồn nhân lực được quyết định bởi cơ cấu đào tạo và cơ cấu kinh tế theo đó sẽ có một tỉ lệ nhất định nhân lực. Chẳng hạn, cơ cấu nhân lực lao động trong khu vực kinh tế tư nhân của các nước trên thế giới phổ biến là 5 - 3 - 1 (5 công nhân kỹ thuật, 3 trung cấp nghề và 1 kỹ sư). Đối với nước ta, cơ cấu này có phần ngược, tức là số người có trình độ đại học, trên đại học nhiều hơn số công nhân kỹ thuật (3 Xem Tạp chí Phát triển nhân lực, số 3/2007, Tr.39).

1.1.1.2. Quan niệm về phát triển nguồn nhân lực

Trong thời đại ngày nay, con người được coi là một ''tài nguyên đặc biệt '', một nguồn lực của sự phát triển  kinh tế. Bởi vậy việc phát triển con người, phát triển nguồn nhân lực trở thành vấn đề chiếm vị trí trung tâm trong hệ thống phát triển các nguồn lực. Chăm lo đầy đủ đến con người là yếu tố bảo đảm chắc chắn nhất cho sự phồn vinh, thịnh vượng của mọi quốc gia. Đầu tư cho con người là đầu tư có tinh chiến lược, là cơ sở chắc chắn nhất cho sự phát triển bền vững.

Do xuất phát từ các cách tiếp cận khác nhau nói trên về nguồn nhân lực, nên có nhiều cách hiểu khác nhau khi bàn về phát triển nguồn nhân lực. Theo quan niệm của Liên hiệp  quốc, phát triển nguồn nhân lực bao gồm giáo dục, đào tạo và sử dụng tiềm năng con người nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống nguồn nhân lực.

Có quan điểm cho rằng: Phát triển nguồn nhân lực là gia tăng giá trị cho con người, cả giá trị vật chất và tinh thần, cả trí tuệ lẫn tâm hồn cũng như kỹ năng nghề nghiệp, làm cho con người trở thành người lao động có những năng lực và phẩm chất mới, cao hơn, đáp ứng được những yêu cầu to lớn và ngày càng tăng của sự phát triển kinh tế - xã hội.

Một số tác giả khác lại quan niệm: Phát triển là quá trình nâng cao năng lực của con người về mọi mặt: Thể lực, trí lực, tâm lực, đồng thời phân bổ, sử dụng, khai thác và phát huy hiệu quả nhất nguồn nhân lực thông qua hệ thống phân công lao động và giải quyết việc làm để phát triển kinh tế- xã hội.

Từ những luận điểm trình bày trên, theo tôi, phát triển nguồn nhân lực chính là quá trình gia tăng, biến đổi đáng kể về chất lượng của nguồn nhân lực và sự biến đổi này được biểu hiện ở việc nâng cao năng lực và động cơ của người lao động. Như vậy, thực chất của việc phát triển nguồn nhân lực là tìm cách nâng cao chất lượng của nguồn nhân lực đó. Nói cách khác:

Nếu tăng quy mô quan tâm đến việc tăng số lượng nguồn nhân lực, thì phát triển nguồn nhân lực quan tâm đến chất lượng của nguồn nhân lực đó.

Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là quá trình tạo lập và phát triển năng lực toàn diện của con người vì sự tiến bộ kinh tế, xã hội và sự hoàn thiện bản thân mỗi con người. Nó là kết quả tổng hợp của cả 03 bộ phận cấu thành gồm: Giáo dục, Đào tạo và Phát triển. Ở đây, giáo dục được hiểu là các hoạt động học tập, để chuẩn bị cho con người bước vào một nghề nghiệp, hoặc chuyển sang nghề mới, thích hợp hơn trong tương lai. Cần chú ý rằng, năng lực là sự tổng hòa của các yếu tố kiến thức, kỹ năng, hành vi thái độ góp phần tạo ra tính hiệu quả trong công việc của mỗi người, trong đó:

- Kiến thức là những điều hiểu biết có được hoặc do từng trải, hoặc nhờ học tập. Kiến thức, gồm 3 yếu tố: Kiến thức tổng hợp (những hiểu biết chung về thế giới); kiến thức chuyên ngành (về một vài lĩnh vực đặc trưng như kiến trúc, lâm nghiệp, xây dựng,...) và kiến thức đặc thù (những kiến thức đặc trưng mà người lao động trực tiếp tham gia hoặc được đào tạo).

- Kỹ năng của người lao động là sự thành thạo, tinh thông về các thao tác, động tác, nghiệp vụ trong quá trình hoàn thành một công việc cụ thể nào đó. Những kỹ năng sẽ giúp cho người lao động hoàn thành tốt công việc của mình, quy định tính hiệu quả của công việc.

- Thái độ của người lao động cho thấy cách nhìn nhận của người đó về vai trò, trách nhiệm, mức độ nhiệt tình đối với các công việc, điều này sẽ được thể hiện qua các hành vi của họ. Một người có kỹ năng tốt nhưng thái độ không đúng thì hiệu quả đóng góp sẽ không cao.

Như vậy, nói đến năng lực của người lao động là nói đến cả 3 yếu tố: Thái độ, kỹ năng và kiến thức. Ở đây, thái độ là yếu tố hàng đầu quyết định sự thành công của người lao động với công việc cũng như với tổ chức. Một người có thể có kiến thức sâu rộng, kỹ năng chuyên nghiệp nhưng thái độ bàng quan với cuộc sống, vô trách nhiệm với xã hội thì chưa chắc đã làm tốt công việc.

1.1.2. Vai trò nguồn nhân lực chất lượng cao đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ta hiện nay

Mối quan hệ giữa nguồn lao động với phát triển kinh tế thì nguồn lao động luôn luôn đóng vai trò quyết định đối với mọi hoạt động kinh tế trong các nguồn lực để phát triển kinh tế. Nguồn nhân lực chất lượng cao là khái niệm để chỉ một con người, một người lao động cụ thể có trình độ lành nghề về chuyên môn, kỹ thuật ứng với một ngành nghề cụ thể theo tiêu thức phân loại lao động về chuyên môn, kỹ thuật nhất định (Đại học, sau Đại học, Cao đẳng, lao động kỹ thuật lành nghề).

Giữa chất lượng nguồn nhân lực và nguồn nhân lực chất lượng cao có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Nói đến chất lượng nguồn nhân lực là muốn nói đến tổng thể nguồn nhân lực, trong đó nguồn nhân lực chất lượng cao là bộ phận cấu thành đặc biệt quan trọng, là nhóm tinh tuý nhất, có chất lượng nhất. Bởi vậy, khi bàn về nguồn nhân lực chất lượng cao không thể không đặt nó trong tổng thể vấn đề chất lượng nguồn nhân lực nói chung của một cơ quan, một địa phương, một khu vực, một đất nước.

Nguồn nhân lực chất lượng cao là chất lượng phải đáp ứng được yêu cầu của thị trường, đó là: có kiến thức chuyên môn, kinh tế, tin học; có kỹ năng kỹ thuật, tìm và tự tạo việc làm; làm việc an toàn, có sự hợp tác và có thái độ, tác phong làm việc tốt, trách nhiệm với công việc.

Như vậy, nguồn nhân lực chất lượng cao phải là những con người phát triển cả về trí lực và thể lực, cả về khả năng lao động, về tính tích cực chính trị- xã hội, về đạo đức, tình cảm trong sáng. Nguồn nhân lực chất lượng cao có thể không cần đông về số lượng, nhưng phải đi vào thực chất.

Trong thế giới hiện đại, khi chuyển dần sang nền kinh tế chủ yếu dựa trên tri thức và trong xu thế toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế, nguồn nhân lực đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao ngày càng thể hiện vai trò quyết định của nó. Các lý thuyết tăng trưởng gần đây chỉ ra rằng, một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh và ở mức cao phải dựa trên ít nhất ba trụ cột cơ bản: áp dụng công nghệ mới, phát triển hạ tầng cơ sở hiện đại và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trong đó động lực quan trọng nhất của sự tăng trưởng kinh tế bền vững chính là những con người, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao, tức là những con người được đầu tư phát triển, có kỹ năng, kiến thức, tay nghề, kinh nghiệm, năng lực sáng tạo. Trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động và cạnh tranh quyết liệt, phần thắng sẽ thuộc về những quốc gia có nguồn nhân lực chất lượng cao; có môi trường pháp lý thuận lợi cho đầu tư, có môi trường chính trị - xã hội ổn định. Chúng ta có môi trường pháp lý thuận lợi cho đầu tư; có môi trường chính trị - xã hội ổn định, việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao càng trở nên quan trọng.

1.1.3. Những nhóm chỉ tiêu cơ bản đánh giá nguồn nhân lực

 Tùy theo quy mô, giác độ tiếp cận và điều kiện cụ thể của đối tượng nghiên cứu, lựa chọn cho phù hợp, đảm bảo mục tiêu nghiên cứu. Có thể nêu một số nhóm tiêu chí cơ bản sau:

Một, Nhóm phản ánh về số lượng nguồn nhân lực. Nhóm này, thường sử dụng các tiêu chỉ: Tổng số nhân lực của quốc gia, địa phương, khu vực, vv... ; số lượng nhân lực đòi hỏi số lượng lao động bởi nhu cầu công việc bên trong quốc gia, địa phương, khu vực, vv...; số lượng nhân lực tăng, giảm do biến động cơ học về dân số, nguồn lao động bởi những yếu tố bên ngoài quốc gia, địa phương, khu vực, vv...; số lượng nhân lực tăng, giảm do tăng tự nhiên dân số của quốc gia, địa phương, khu vực; số lượng nhân lực không có nhu cầu tìm việc làm, vv...

Hai, Nhóm phản ánh về thể lực. Nhóm này, thường sử dụng các tiêu chỉ về sức vóc, tình trạng sức khỏe, tuổi thọ bình quân, thu nhập trung bình,  thời gian làm việc, độ tuổi, vv.... (thể lực của con người là hữu hạn).  

Ba, Nhóm về phản ánh về trí lực hay nói cách khác là nhóm về phản ánh về năng lực tinh thần. Nhóm này, thường sử dụng các tiêu chỉ về trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật, thâm niên nghề nghiệp, cấp bậc chuyên môn kỹ thuật của người lao động, độ phức tạp công việc, vv.... (trí lực hay nói cách khác là nhóm về phản ánh về năng lực tinh thần của con người là vô hạn, nếu biết nuôi dưỡng và phát huy).  

 Bốn, Nhóm về phản ánh về cơ cấu. Nhóm này, thường sử dụng các tiêu chí: Cơ cấu trình độ, ngành nghề; cơ cấu phân bố lao động xã hội; cơ cấu giới tính, độ tuổi, thâm niên nghề nghiệp, vv...

Năm, Nhóm tiêu chí khác phản ánh phong tục tập quán sản xuất, canh tác, văn hóa; mức độ tiếp nhận, sử dụng công nghệ, kỹ thuật mới; vv...

Khi nghiên cứu, xem xét, đưa ra các giải pháp phát triển nguồn nhân lực, phải đặt các tiêu chí, nhóm tiêu chí đánh giá trong mối quan hệ biện chứng. Thực tế cho thấy, trong thời đại ngày nay, một quốc gia, một địa phương, một khu vực dân số đông, nhiều lao động chưa hẳn đã mạnh, phát triển mà vấn đề còn phụ thuộc vào chất lượng dân số, lao động là như thể nào (nếu dân số động, nhiều lao động nhưng chất lượng thấp) thì lại là sự kìm hãn sự phát triển kinh tế - xã hội.

Nói đến năng lực thể chất của từng cá thể trong tổng thể nguồn nhân lực là nói đến nhiều yếu tố cả về thể lực lẫn tinh thần và đảm bảo sự hài hòa giữa bên trong và bên ngoài. Năng lực bên trong là khả năng trí tuệ mạnh mẽ, sức sáng tạo tiềm ẩn trong từng cá nhân; năng lực bên ngoài là tình trạng sức khỏe từng cá thể.

Thể lực tốt thể hiện sự nhanh nhẹn, tháo vát, bền bỉ, dẻo dai của cơ bắp trong công việc và là điều kiện quan trọng để phát triển trí lực. Sức khỏe, dinh dưỡng, môi trường sống là những yếu tố quan trọng (không phải là duy nhất) tác động trực tiếp đến chất lượng dân số và nguồn nhân lực. Mối quan hệ giữa sức khỏe và phát triển kinh tế - xã hội là mối quan hệ hai chiều, bản thân sự phát triển kinh tế có tác động cải thiện điều kiện sức khỏe, dinh dưỡng, môi trường sống và ngược lại. Kinh tế - xã hội phát triển với trình độ ngày càng cao, đòi hỏi ngày càng lớn về thể lực, bởi nếu không có thể lực và tinh thần tốt sẽ khó có thể chịu đựng áp lực của công việc, của nhịp độ cuộc sống và cũng không thể tìm tòi, sáng tạo ra sản phẩm có ích cho toàn xã hội.

Để xem xét trình độ phát triển của các nước, Liên hợp quốc đã đưa ra chỉ số HDI. Chỉ số HDI là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh các mặt kinh tế, xã hội, chính trị, môi trường cũng như sự công bằng trong thụ hưởng các phúc lợi xã hội; được tính căn cứ vào ba chỉ tiêu: thu nhập bình quân trên đầu người (GDP/người); trình độ dân trí và tuổi thọ bình quân.

Chất lượng nguồn nhân lực còn được đánh giá thể hiện qua những giá trị văn hóa khó có thể định lượng trực tiếp bằng những con số cụ thể như: phẩm chất đạo đức, truyền thống văn hóa, thái độ lao động, môi trường sống, vv... nhưng các giá trị này lại là yếu tố rất quan trọng quy định bản tính của nguồn nhân lực và đóng vai trò quyết định sự phát triển bền vững của một quốc gia. Đây là yếu tố xã hội tác động trực tiếp đến sự hình thành tính cách,  phẩm chất riêng của người lao động. Đặc biệt, trong điều kiện nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế khu vực, quốc tế đã và đang diễn ra nhanh chóng thì bên cạnh những yếu tố tích cực như kích thích người lao động tham gia quá trình đào tạo và tự đào tạo để thích ứng được với yêu cầu của thị trường, đẩy mạnh và đa dạng hóa các hoạt động tìm kiếm việc làm, tăng nhanh thu nhập từ việc làm cũng xuất hiện không ít các yếu tố tiêu cực làm tha hóa lối sống, đạo đức, nhân cách vốn rất tốt đẹp của mỗi dân tộc. Do vậy, yếu tố đạo đức, văn hóa truyền thống dân tộc ngày càng có vai trò quan trọng tạo nên những con người vừa có trình độ tay nghề cao, kỹ năng giỏi, vừa có tâm hồn trong sáng lành mạnh. Gần đây, khi đề cập đến nguồn nhân lực người ta thường nhấn mạnh tới các phẩm chất văn hóa, đạo đức và truyền thống kinh doanh ... như một nhân tố cấu thành khả năng đặc thù của nguồn nhân lực của một quốc gia. Việc xây dựng văn hóa sản xuất kinh doanh, văn hóa công sở, văn hóa giao tiếp,... là những nội dung, tiêu chí không thể thiếu trong phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

1.1.4. Các nhóm nhân tố chủ yếu ảnh hướng đến phát triển nguồn nhân lực 

Một, Nhóm nhân tố về quy mô, cơ cấu dân số, tốc độ tăng dân số.

Nguồn nhân lực là bộ phận dân số, xét ở giác độ lao động xã hội, nguồn nhân lực là bộ phận có vai trò và chịu trách nhiệm sản xuất, tái tạo, sáng tạo ra mọi của cải vật chất, tinh thần, môi trường nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ không chỉ cho chính mình mà còn cho tất cả các thành viên trong xã hội; không chỉ cho hiện tại mà còn cho cả tương lai. Quy mô dân số được hiểu khái quát là tổng số dân của một vùng, một địa phương, một quốc gia vào những thời điểm nhất định. Nghiên cứu, phân tích đánh giá quy mô dân số là hoạt động không thể thiếu khi nghiên cứu, phân tích đánh giá để đưa ra giải pháp phát triển nguồn nhân lực phát triển kinh tế - xã hội phạm vi vùng lãnh thổ, địa phương, quốc gia. Thực tiễn cũng như lý luận đã chứng minh:

Một quốc gia, địa phương hay vùng lãnh thổ nếu muốn nền kinh tế phát triển cân đối với tốc độ cao, bền vững phải đảm bảo tỷ lệ hợp lý về cơ cấu dân số và người trong tuổi lao động. Quy mô đó phải phù hợp với điều kiện tự nhiên và trình độ phát triển kinh tế - xã hội cả đất nước. Các nhà dân số học cho rằng, một cơ cấu dân số thích hợp đảm bảo ổn định là: Tỷ lệ trẻ em dưới tuổi lao động từ 26% đến 28%; người trong tuổi lao động từ 60% đến 64%; người già trên tuổi lao động từ 10% đến 12%.

Tăng trưởng dân số tác động trực tiếp tới số lượng và chất lượng nguồn nhân lực; mức tăng dân số nhanh, thì nguồn lao động trong tương lai của xã hội cũng tăng nhanh. Sự gia tăng dân số sẽ tăng áp lực việc làm. Thông thường, các quốc gia khó có thể giải quyết tốt việc làm cho người lao động trong một thời gian ngắn, nhất là đối với các quốc gia đang phát triển. Ví dụ, ở Việt Nam, giai đoạn 1985 - 1990 mức tăng dân số bình quân là 2,25%/năm, mức tăng nguồn lao động là 3,06%/năm, nhưng mức gia tăng việc làm chỉ 2,54%/năm; những năm 1990 - 1995, mức gia tăng dân số bình quân mỗi năm khoảng 1.200.000 người và hàng năm trung bình giải quyết được khoảng 1,1 triệu chỗ làm việc mới, như vậy vẫn còn khoảng 100.000 người chưa có việc làm, chưa kể số dôi dư hàng năm từ trước. Nghĩa là vẫn còn khoảng cách tương đối lớn giữa việc làm và lực lượng lao động dôi dư hàng năm, cầu việc làm thấp hơn cung về nó, vì vậy nạn thất nghiệp vẫn tồn tại ở mức cao, nhất là đối với lao động không được đào tạo. Ngoài ra, còn phải kể đến số lao động bị mất việc làm trong các khu vực kinh tế khác do sức cạnh tranh kém, trong khi các nguồn lực đầu tư đào tạo mới, đào tạo chuyển đổi chuyên môn kỹ thuật nghề nghiệp có hạn.

Thực tế cho thấy, so với khu vực khác, tỷ suất sinh ở nông thôn nói chung còn cao, đặc biệt là nông thôn miền núi, theo đó, số người bước vào độ tuổi lao động hàng năm nhiều, việc mới làm được tạo ra hàng năm ít, hệ số sử dụng thời gian lao động thấy dẫn đến tình trạng số lượng lao động di chuyển ra thành thị để tìm kiếm việc làm ngày càng tăng và hậu quả là tình trạng lao động trẻ, khỏe, có kiến thức đã thiếu lại càng thiếu động trẻ (thường những người trẻ, khỏe, có kiến thức ra thành thị mới tìm được việc làm). Một vấn đề nữa cũng cần phải tính đến là, trong những năm gần đây cơ cấu dân số tăng tự nhiên bị cân đối nghiêm trọng, tỷ lệ sinh con trai khá cao sẽ dân tới thiếu lao động nữ.

Mặt khác, dân số tăng nhanh, chi cho tiêu dùng xã hội càng lớn, đặc biệt là phát triển nâng cao chất lượng con người. Do đó, tăng trưởng dân số ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng và chất lượng nguồn nhân lực.

Hai, Nhóm nhân tố về trình độ phát triển kinh tế - xã hội:

Trình độ phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia đóng vai trò quyết định đến trình độ phát triển nguồn nhân lực của nước đó. Chất lượng nguồn nhân lực là trạng thái nhất định thể hiện mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành nên bản chất bên trong của nguồn nhân lực. Chất lượng nguồn nhân lực không chỉ phản ảnh trình độ phát triển kinh tế mà còn phản ảnh trình độ về phát triển xã hội, bởi nếu chất lượng nguồn nhân lực cao sẽ tạo ra động lực mạnh mẽ hơn với tư cách không chỉ là một nguồn lực của sự phát triển, mà còn thể hiện mức độ văn minh của một xã hội nhất định. Tại một quốc gia có trình độ phát triển kinh tế cao, thì ở đó nguồn nhân lực cũng có chất lượng cao, kể cả trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật, sức khỏe, tuổi thọ. Thực tế cho thấy, khi nền kinh tế tăng trưởng và phát triển, đời sống chung của nhân dân ổn định ở mức cao sẽ có điều kiện thuận lợi và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Chất lượng nguồn nhân lực là động lực trực tiếp của phát triển kinh tế - xã hội, bởi sức khỏe, tuổi thọ, trình độ dân trí, trình độ chuyên môn, nghề nghiệp phụ thuộc vào quá trình hiện đại hóa của nền kinh tế và chính sách xã hội của mỗi quốc gia.

Xem xét chất lượng nguồn nhân lực trước hết phải xem xét chất lượng cuộc sống của dân cư nói chung. Chỉ số GDP bình quân đầu người là chỉ số liên quan và ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng cuộc sống của người lao động, đến mặt thể lực của nguồn nhân lực … Nó phụ thuộc vào quy mô và tốc độ phát triển GDP cũng như quy mô và tốc độ gia tăng dân số. Quan hệ giữa chỉ số này với nguồn nhân lực được cụ thể hóa trong các chỉ tiêu như: điều kiện sức khỏe, dinh dưỡng, chăm sóc y tế, chất lượng nhà ở, mức tiêu thụ các hàng hóa dịch vụ… Vì có phát triển kinh tế mới có điều kiện cải thiện cuộc sống con người, có điều kiện chăm sóc sức khỏe, có điều kiện để phát triển giáo dục và đào tạo. Ở các nước có nền kinh tế phát triển, thu nhập (GDP) bình quân đầu người hàng năm và tuổi thọ thường cao. Điều đó cho thấy, khi nền kinh tế phát triển bền vững, với một quy mô dân số hợp lý thì mức thu nhập (GDP) bình quân đầu người hàng năm cao, liên tục tăng. Theo đó điều kiện chăm sóc sức khỏe cho con người ngày càng tốt hơn (sức khỏe được hiểu là trạng thái thoải mái về thể chất, tinh thần và xã hội, không chỉ đơn thuần là không có bệnh tật; là tổng hòa nhiều yếu tố tạo nên giữa bên trong và bên ngoài, giữa thể chất và tinh thần) và kết quả là tuổi thọ bình quân tăng cao. Có thể xem qua bình quân thu nhập đầu người và tuổi thọ của dân số các nước trong dưới:

Bảng 1.1: Bình quân thu nhập đầu người và tuổi thọ của dân số các nước

STT

Tên nước

GDP/người

(USD)

Dân số

(triệu dân)

Năm

Giới tính

Nam

Nữ

1

Quatar

91.379

1.69

2011

75,2

76,4

2

Luxembourg

89.562

0.51

2011

75.7

81.6

3

UAE

57.774

8.26

2011

77.2

81.5

4

Na uy

56.920

4.97

2011

77.8

82.5

5

Singapore

56.797

5.07

2011

78.0

81.9

6

Mỹ

47.084

310

2011

75.6

80.8

7

Thụy sỹ

46.424

7.86

2011

79.0

84.2

Nguồn: [24]; [25]

Mối quan hệ giữa sức khỏe và phát triển là mối quan hệ hai chiều, bản thân sự phát triển kinh tế có tác động cải thiện điều kiện sức khỏe và ngược lại, sức khỏe và dinh dưỡng được cải thiện sẽ nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Mọi người có thể được lợi nhờ sức khỏe tốt trong hiện tại và việc cải thiện sức khỏe cho tầng lớp trẻ sẽ dẫn tới một thế hệ khỏe mạnh trong tương lai. Người lao động có sức khỏe tốt có thể mang lại những lợi nhuận trực tiếp bằng việc nâng cao sức mạnh, sức bền bỉ, dẻo dai và khả năng tập trung cao trong khi làm việc. Việc nuôi dưỡng và chăm sóc sức khỏe tốt cho trẻ em sẽ là yếu tố làm tăng năng suất lao động trong tương lai, giúp đỡ trẻ trở thành người lao động khỏe về thể chất, lành mạnh về tinh thần; nhanh chóng đạt được những kỹ năng, kỹ xảo cần thiết thông qua giáo dục và đào tạo.

        Sự phát triển kinh tế - xã hội bao giờ cũng kéo theo quá trình đô thị hóa, thường thì các nước công nghiệp, dân số sống ở thành thị chiếm tỷ lệ cao. Tỷ lệ dân số thành thị cao sẽ tạo điều kiện phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo, góp phần trực tiếp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nâng cao ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong công nghiệp cho lực lượng này. Dân số thành thị cao sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động, nâng cao tỷ trọng của ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng của ngành nông nghiệp trong GDP, tức là giảm kiện thuận lợi cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động, nâng cao tỷ lao động nông nghiệp trong tổng lực lượng lao động xã hội.

        Ba, Giáo dục, đào tạo giữ vai trò quyết định trực tiếp trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực

        Khi tính chỉ số trình độ dân trí, thông thường sử dụng chỉ tiêu: tỷ lệ người biết chữ và số năm đi học bình quân. Tuy nhiên, để phân tích được đầy đủ hơn về mối quan hệ của nguồn nhân lực với trình độ dân trí, cần xem xét thêm các chỉ tiêu cụ thể như tỷ lệ biết chữ hoặc trình độ học vấn theo nhóm tuổi, giới tính; tình hình giáo dục phổ thông, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học và dạy nghề. Trình độ học vấn của dân số là sự hiểu biết về những kiến thức trong hệ thống giáo dục, đào tạo quốc gia. Trình độ học vấn của dân số là nhân tố quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng nhân lực và hiệu quả phát triển nguồn nhân lực.

Trình độ dân trí của dân cư phản ánh trình độ học vấn của lực lượng lao động, là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng nguồn nhân lực. Trình độ học vấn cao tạo khả năng tiếp thu và vận dụng một cách nhanh chóng những kinh nghiệm cũng như các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thực tiễn. Trình độ học vấn là cơ sở quan trọng để nâng cao trình độ và kỹ năng làm việc của người lao động. Thực tế cho thấy, phần lớn các quốc gia dân cư có trình độ học vấn cao, kinh tế phát triển nhanh.

Ngày nay, khoa học, công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp thì vai trò của nguồn nhân lực chất lượng cao càng trở nên quan trọng. Trí tuệ và sự sáng tạo là kết quả tổng hòa các yếu tố liên quan trong quá trình phát triển nguồn nhân lực, trong đó giáo dục, đào tạo đóng vai trò quyết định trực tiếp. Nhận rõ tầm quan trọng của giáo dục, đào tạo, Chính phủ các nước đều quan tâm, đặc biệt là khi nhân loại đã, đang từng bước bước phát triển nền kinh tế tri thức.

Thực tế cho thấy, quốc gia nào quan tâm đến giáo dục và đào tạo thì quốc gia đó có nguồn nhân lực chất lượng cao, tạo điều kiện cơ bản cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Chúng ta biết rằng, nguồn nhân lực chất lượng cao không phải tự nhiên mà có được, muốn có phải thông qua quá trình giáo dục đào tạo lâu dài và luôn đổi mới phù hợp với yêu cầu của tiến bộ khoa học - công nghệ. Giáo dục và đào tạo giúp cho mỗi người lao động thực hiện và vận động, cải thiện sức khỏe và dinh dưỡng, làm giảm quy mô gia đình.

Xã hội hóa lĩnh vực giáo dục, đào tạo được coi là đầu tư từ nguồn lực của nhân dân mang lại lợi nhuận cao hơn rất niều so với đầu tư vật chất. Ngày nay, khi tri thức trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp thì chất lượng nguồn nhân lực trở thành tài nguyên chuyển hóa thành sức lao động, và do đó muốn phát triển và sử dụng nó một cách hiệu quả, không có con đường nào khác ngoài con đường học tập, đào tạo và tự đào tạo. Chính vì thế mỗi quốc gia cần phải có một hệ thống giáo dục - đào tạo phù hợp để tạo điều kiện cho mọi người dân có thể học ở bất cứ đâu và bất cứ lúc nào, coi trọng mọi cấp học, mọi loại hình đào tạo, đặc biệt chú trọng tới các bậc đào tạo cao như cao đẳng, đại học. Phát triển con người, trong đó có nguồn nhân lực chất lượng cao là nhiệm vụ trung tâm của xã hội, vì đó là yếu tố then chốt nhất tạo ra giá trị cho nền kinh tế, ở đây giáo dục và đào tạo đóng vai trò quyết định. Đối với nước ta, để thực hiện mục tiêu đến năm 2020 trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại thì việc cải cách giáo dục và đào tạo đã và đang là một yêu cầu cấp bách.

Bốn, Nhóm nhân tố thuộc về cơ chế, chính sách

Hệ thống cơ chế, chính sách phát triển, sử dụng nguồn nhân lực; gắn việc phát triển, sử dụng nguồn nhân lực với chiến lực, chương trình, kế hoạch   phát triển kinh tế - xã hội. Đây là vẫn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng, hệ thống cơ chế, chính sách phù hợp sẽ tạo động lực mạnh mẽ trong quá trình thực hiện chiến lược phát triển con người, ngược lại nếu không phù hợp không chỉ kìm hãm việc phát triển, sử dụng nguồn nhân lực mà kìm hãm phát triển kinh tế -xã hội. Hệ thống cơ chế, chính sách phát triển, sử dụng nguồn nhân lực là tổng hòa cơ chế, chính sách về dân số, giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ, tiền công, tiền lượng, đảm bảo môi trường xã hội, vv...., trong đó chú trọng phát triển, sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao.

        Nhà nước ta, hiện nay đã có nhiều cơ chế, chính sách phát triển dân số, nguồn nhân lực; nâng cao sức khỏe, trình độ học vấn, trí tuệ của các tầng lớp nhân dân, tạo điều kiện cho người lao động có thêm năng lực tham gia tích cực vào quá trình phát triển kinh tế-xã hội; hội nhập kinh tế quốc tế, khu vực. Tuy nhiên, chúng ta vẫn đối mặt với tình trạng thiếu hụt nhân lực có trình độ, hầu hết tất cả các ngành kinh tế, địa phương đều ở trong tình trạng khan hiếm nhân lực có trình độ, đặc biệt là nhân lực có trình độ cao. Trong thời gian tới không giải quyết được bài toán nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chúng ta sẽ đứng trước một cuộc khủng hoảng chất lượng nhân lực trầm trọng.

        Tóm lại, các yếu tố trên có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình phát triển  nguồn nhân lực; có tác động tạo nên những những thay đổi căn bản về nguồn nhân lực, nhất là chất lượng nguồn nhân lực của mỗi quốc gia, địa phương, vùng lãnh thổ, cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức. Nghiên cứu, phân tích các yếu tố này càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các mỗi quốc gia, địa phương, vùng lãnh thổ, cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức chậm phát triển, đang phát triển; đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, khu vực.

1.2. VAI TRÒ CỦA NGUỒN NHÂN LỰC TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở MIỀN NÚI

Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của con người và nhân tố con người trong sự nghiệp phát triển, Đảng và Nhà nước ta luôn đặt con người vào vị trí trung tâm, lấy mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con người.

        Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã ra Nghị quyết về tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, cần kiệm để công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nguồn nội lực mà Nghị quyết Trung ương nêu trên bao gồm: nguồn lực con người, đất đai, tài nguyên, trí tuệ, truyền thống lịch sử văn hóa. Trong đó, năng lực của con người Việt Nam với trí tuệ và truyền thống văn hóa dân tộc là trung tâm của nội lực, là nguồn lực chính quyết định sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

        Thực tiễn ở các nước phát triển cho thấy, các nguồn lực thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội (nguồn lực con người, vốn, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật, khoa học công nghệ ...) giữa chúng có mối quan hệ nhân quả với nhau trong quá trình phát triển, trong đó nguồn nhân lực được coi là năng lực nội sinh quan trọng chi phối quá trình phát triển của mỗi quốc gia. Nguồn nhân lực, với yếu tố hàng đầu là trí tuệ, chất xám, có ưu thế là không bị cạn kiệt và nếu biết bồi dưỡng, khai thác, sử dụng hợp lý sẽ được tăng thêm rất nhiều, còn các nguồn lực khác dù nhiều đến đâu cũng chỉ là yếu tố có hạn và chỉ phát huy được tác dụng khi kết hợp được với nguồn lực con người một cách có hiệu quả.

1.3. KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CỦA MỘT SỐ NƯỚC

Ở Việt Nam, phát triển nguồn nhân lực còn là một trong những vấn đề mới cả về khái niệm, nội dung, phương pháp và các chính sách cụ thể. Vì vậy kinh nghiệm của các nước đã trải qua trong thời kỳ đầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phát triển kinh tế - xã hội sẽ có nhiều điều bổ ích cho những nghiên cứu về phát triển nguồn nhân lực đối với quốc gia, các địa phương, vùng và trong đó có các huyện miền núi tỉnh Thanh Hóa.

1.3.1. Kinh nghiệm của một số nước ASEAN

Trong khu vực Đông Nam Á, Singapore được coi là hình mẫu về phát triển nguồn nhân lực. Thực tế đã minh chứng, quốc gia nhỏ bé này đã rất thành công trong việc xây dựng một đất nước có trình độ dân trí cao và hệ thống giáo dục phát triển hàng đầu châu Á.

Hệ thống giáo dục của nước này rất linh hoạt và luôn hướng đến khả năng, sở thích cũng như năng khiếu của từng học sinh nhằm giúp các em phát huy cao nhất tiềm năng của mình. Bên cạnh việc ứng dụng các tiến bộ của khoa học - công nghệ mới vào giảng dạy, chương trình đào tạo của Singapore luôn chú trọng vào giáo dục nhân cách, truyền thống văn hóa dân tộc.

Chủ trương thu hút sinh viên quốc tế đến học tập, Chính phủ Singapore miễn xét thị thực cho du học sinh quốc tế, không đòi hỏi phải chứng minh tài chính, chi phí học tập vừa phải, môi trường học tập hiện đại, các ngành nghề đào tạo đa dạng... Nhà nước Singapore chỉ đầu tư vào rất ít trường công lập để có chất lượng mẫu mực, có chính sách tín dụng thích hợp để thu hút đào tạo nhân tài. Đối với khối ngoài công lập, Chính phủ tạo điều kiện để phát triển, khuyến khích việc liên thông, liên kết với nước ngoài, mời gọi các đại học quốc tế đặt chi nhánh...

Ở Malaysia, tỷ lệ giữa sinh viên khối khoa học xã hội và nhân văn với sinh viên khối khoa học tự nhiên khá cân đối (53% và 47%). Ngược lại, số được đào tạo để cấp “Chứng chỉ” thì ưu thế nghiêng hẳn về các môn khoa học và kỹ thuật (15% và 85%) trước đây và (40% và 60%) của những năm đầu của thế kỷ XXI .

Nhờ sự can thiệp mạnh mẽ của nhà nước trong lĩnh vực đào tạo và phát triển công tác nghiên cứu khoa học, các chính sách ở tầm vĩ mô đã được chỉ đạo chặt chẽ trên hai mặt: Thứ nhất, nâng cao chất lượng hệ thống giáo dục và đào tạo nghề; thứ hai, là phát triển nghiên cứu khoa học để làm cơ sở vững chắc cho các công nghệ nổi trội, thu hút được lao động và mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Chính nhờ sự can thiệp mạnh mẽ đó của nhà nước mà trong hơn hai thập kỷ qua, Singapore và Malaysia có nhiều tiến bộ quan trọng trong phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên vẫn còn gặp những khó khăn nhất định, một trong những khó khăn đó là khu vực tư nhân ít tham gia vào các đầu tư này, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong điều kiện đó, cùng với vốn đầu tư trong nước còn thiếu, giải pháp chủ yếu cho các vấn đề này của công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học là dựa vào sự hợp tác quốc tế rộng rãi trong khuôn khổ viện trợ đa phương, song phương cũng như với các tập đoàn lớn.

1.3.2. Kinh nghiệm của Hàn Quốc, nước đặc biệt coi trọng công tác đào tạo nghề để phát triển nguồn nhân lực

Chính sách giáo dục được xây dựng phù hợp với đòi hỏi của nền kinh tế. Đây là nội dung quan trọng trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực của quốc gia này. Năm 1950, Chính phủ Hàn Quốc chủ trương xóa mù chữ cho toàn dân. Những năm sau đó, hệ thống giáo dục dần được đẩy mạnh như: phát triển giáo dục hướng nghiệp trong các trường trung học (năm 1960); các trường dạy nghề kỹ thuật (năm 1970); đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu và giáo dục trên lĩnh vực khoa học cơ bản và công nghệ, nâng cao chất  lượng giáo dục và học suốt đời. Năm 1992, Hàn Quốc thực hiện cải cách giáo dục với mục tiêu tái cấu trúc hệ thống giáo dục hiện có thành một hệ thống giáo dục mới, bảo đảm cho người dân được học suốt đời. Tháng 12-2001, Chính phủ Hàn Quốc công bố Chiến lược quốc gia lần thứ nhất về phát triển nguồn nhân lực giai đoạn 2001-2005. Tiếp đó, Chiến lược quốc gia lần thứ hai về phát triển nguồn nhân lực thời kỳ 2006-2010 được xây dựng và thực hiện một cách hiệu quả.

Nội dung chính của các chiến lược này đề cập tới sự tăng cường hợp tác giữa các doanh nghiệp, trường đại học và các cơ sở nghiên cứu; nâng cao trình độ sử dụng và quản lý nguồn nhân lực, nâng cao tính chuyên nghiệp của nguồn nhân lực trong khu vực công; xây dựng hệ thống đánh giá và quản lý kiến thức, kỹ năng và công việc; xây dựng kết cấu hạ tầng thông tin cho phát triển nguồn nhân lực; xây dựng và phát triển thị trường tri thức...

Qua những kinh nghiệm của các nước về phát triển nguồn nhân lực, có thể rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam nói chung, và khu vực miền núi tỉnh Thanh Hóa nói riêng:

Một là, Coi trọng giáo dục phổ thông theo hướng chuẩn bị các kiến thức cơ sở để học sinh có thể bước vào học một nghề nhất định khi không có đủ trình độ, điều kiện hoặc không muốn học lên đại học (có chính sách phân luồng học sinh ngay từ khi học sinh học hết trung học cơ sở; không nên chỉ hướng vào chuẩn bị kiến thức để thi đại học). Đồng thời, chú trọng giáo dục đồng bộ “đức, trí, thể, mỹ” để học sinh có thể trở thành những người lao động có kiến thức, kỹ năng, có sức khỏe, và đạo đức lao động tốt trong tương lai.

Hai là, Coi trọng đào tạo, dạy nghề; mở rộng quy mô, cơ cấu, loại hình đào tạo và nâng cao chất lượng của các cơ sở đào tạo, dạy nghề theo hướng đầu tư chiều sâu, liên kết giữa các cấp đào tạo từ Trung học chuyên nghiệp - Trung học nghề - Cao đẳng chuyên nghiệp - Cao đẳng nghề - Đại học - Sau Đại học.

Ba là, Nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo để có thể cung cấp cho đất nước những cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý kinh tế và quản trị kinh doanh; những công nhân, kỹ thuật viên thực sự có kiến thức, kỹ năng, đạo đức nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu ngày càng cao ở tất cả các vị trí việc làm trong nên kinh tế.

Từ kinh nghiệm nêu trên cho thấy, vấn đề mấu chốt để có thể tiếp thu được khoa học, công nghệ hiện đại và các phương pháp, kinh nghiệm quản lý tiên tiến và để có được những chuyên gia giỏi, đầu ngành đối với nước ta bây giờ là nâng cao chất lượng chứ không phải mở rộng quy mô đào tạo.

Bốn là, Đẩy nhanh quá trình xã hội hóa giáo dục, đào tạo để huy động được mọi nguồn lực của các tổ chức, cá nhân, các thành phần kinh tế (kể cả nước ngoài) tham gia vào công tác này. Tuy nhiên, khi cần, Nhà nước phải can thiệp, điều tiết kiên quyết, mạnh mẽ và kịp thời trên cơ sở tôn trọng quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân, các thành phần kinh tế đảm bảo nguyên tắc hợp tác quốc tế đa phương, song phương, phát huy nội lực nhưng phải theo đúng định hướng Xã hội Chủ nghĩa.

Năm là, Đối với miền núi và dân tộc tiếp tục duy trì các cơ chế, chính sách ưu đãi riêng trong giáo dục, đào tạo nói chung đối với người học và người dạy học, đặc biệt là việc đào tạo, bồi dưỡng nghề.

Tóm lại: Nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội phải bao gồm những người tán thành mục tiêu xã hội chủ nghĩa, quyết tâm phấn đấu xây dựng đất nước đi lên theo định hướng mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Là những người vừa có trí tuệ cao, được đào tạo thành thạo về chuyên môn nghề nghiệp, có sáng tạo, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có niềm tin, có truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc và tinh thần trách nhiệm trong mọi hoạt động lao động. Nguồn nhân lực không chỉ là chủ thể của nền kinh tế - xã hội mà còn là những công dân tốt bảo vệ thành quả cách mạng của Đảng ta, nhân dân ta.

Để chất lượng lao động đáp ứng được các yêu cầu, đòi hỏi của phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực miền núi thì cần phải có nguồn nhân lực có tay nghề, vì vậy công tác đào tạo nghề theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo và tạo điều kiện thuận lợi để lao động tham gia học nghề phù hợp với trình độ học vấn, điều kiện kinh tế, xã hội và nhu cầu học nghề của mình để giải quyết việc làm, tăng thu nhập, thực hiện mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, xây dựng nông thôn mới.

 

Chương 2

THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC CÁC HUYỆN MIỀN NÚI TỈNH THANH HÓA HIỆN NAY

2.1. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM ẢNH HƯỞNG ĐẾN NGUỒN NHÂN LỰC CÁC HUYỆN MIỀN NÚI TỈNH THANH HÓA

2.1.1. Đặc điểm tự nhiên

Thanh Hoá nằm ở cực Bắc Miền Trung, cách Thủ đô Hà Nội 150 km về phía Nam, cách Thành phố Hồ Chí Minh 1.560km. Phía Bắc giáp với ba tỉnh Sơn La, Hoà Bình và Ninh Bình, phía Nam giáp tỉnh Nghệ An, phía Tây giáp tỉnh Hủa Phăn (nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào), phía Đông là Vịnh Bắc Bộ. Nằm trong vùng ảnh hưởng của những tác động từ vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, các tỉnh Bắc Lào và vùng trọng điểm kinh tế Trung bộ, ở vị trí cửa ngõ nối liền Bắc Bộ với Trung Bộ, Thanh Hóa có hệ thống giao thông thuận lợi như: đường sắt xuyên Việt, đường Hồ Chí Minh, các quốc lộ 1A, 10, 45, 47, 217; cảng biển nước sâu Nghi Sơn và hệ thống sông ngòi thuận tiện cho lưu thông Bắc Nam, với các vùng trong tỉnh và đi quốc tế.

Thanh Hoá có diện tích tự nhiên hơn 11.112km2 [22]. Dân số hơn 3.400 nghìn người, nữ giới có hơn 1.717 nghìn người, dân số thành thị hơn 354 nghìn người. Mật độ dân số vào loại trung bình: giảm từ 310 người/km² (năm 1999) xuống 305 người/km² (năm 2009). Tỉ số giới tính (số nam trên 100 nữ) tăng từ 95,6% (năm 1999) lên 98,0% (năm 2009), tương đương với mức chung của cả nước.[21]

Thanh Hóa là tỉnh có nhiều dân tộc sinh sống, nhưng chủ yếu có 7 dân tộc là Kinh, Mường, Thái, Thổ, Dao, Mông, Khơ Mú. Người Kinh chiếm phần lớn dân số của tỉnh và có địa bàn phân bố rộng khắp, các dân tộc khác có dân số và địa bạn sống thu hẹp hơn.

Với địa hình đa dạng, thấp dần từ Tây sang Đông, chia làm 3  vùng rõ rệt:

  - Vùng núi và Trung du phía Tây có 11 huyện với diện tích đất tự nhiên hơn 8 nghìn km2, chiếm 75,44% diện tích toàn tỉnh,độ cao trung bình vùng núi từ 600 -700m, độ dốc trên 250; vùng trung du có độ cao trung bình 150 - 200m, độ dốc  từ 15 -200 [22]. Dân số gần 90 nghìn người, gồm 7 dân tộc: Kinh, Mường, Thái, Thổ, Dao, Mông, Khơ mú [21]. Trong gần 90 nghìn người, nông dân chiếm tuyệt đại đa số (trên 80% dân số cả khu vực). Có đường biên giới chung với nước Cộng hòa dân chủ Nhân dân Lào và đã hình thành 3 cửa khẩu Bát Mọt (huyện Thường Xuân), và 2 cửa khẩu quốc tế Na Mèo (huyện Quan Sơn), Tén Tằn (huyện Mường Lát). Đây là một lợi thế lớn để miền núi Thanh Hóa phát triển kinh tế cửa khẩu, mở rộng hợp tác và giao lưu thương mại quốc tế với các tỉnh Bắc Lào, Đông Bắc Thái Lan với các vùng, miền trong cả nước thông qua hệ thống các tuyến đường xuyên Á trong khu vực để phát triển kinh tế - xã hội.

 - Vùng đồng bằng có diện tích đất tự nhiên hơn 1.600km2, chiếm 14,61% diện tích toàn tỉnh, được bồi tụ bởi các hệ thống Sông Mã, Sông Bạng, Sông Yên và Sông Hoạt. Độ cao trung bình từ 5- 15m, xen kẽ có các đồi thấp và núi đá vôi độc lập. Đồng bằng Sông Mã có diện tích lớn thứ ba sau đồng bằng Sông Cửu Long và đồng bằng Sông Hồng. [22]

- Vùng ven biển có diện tích 1.100km2, chiếm 9,95% diện tích toàn tỉnh, với bờ biển dài 102 km, địa hình tương đối bằng phẳng. Chạy dọc theo bờ biển là các cửa sông. Vùng đất cát ven biển có độ cao trung bình 3-6 m, có bãi tắm Sầm Sơn nổi tiếng và các khu nghỉ mát khác như Hải Tiến (Hoằng Hoá) và Hải Hoà (Tĩnh Gia) ...; có những vùng đất đai rộng lớn thuận lợi cho việc nuôi trồng thuỷ sản và phát triển các khu công nghiệp, dịch vụ kinh tế biển. [22]

Về tổ chức hành chính tỉnh Thanh Hóa gồm 27 huyện, thị xã, thành phố trực thuộc (Thành Phố Thanh Hóa - TP cấp 2; 2 thị xã Bỉm Sơn và Sầm Sơn), với 636 xã, phường, thị trấn . [22]

Thanh Hoá nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa với 4 mùa rõ rệt. 
         - Lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 1600-2300
mm, mỗi năm có khoảng 90-130 ngày mưa. Độ ẩm tương đối từ 85% đến 87%, số giờ nắng bình quân khoảng 1600-1800 giờ. Nhiệt độ trung bình 230C - 240C, nhiệt độ giảm dần khi đi lên vùng núi cao. [22]

 - Hướng gió phổ biến mùa Đông là Tây bắc và Đông bắc, mùa hè là Đông và Đông nam.

 Đặc điểm khí hậu thời tiết với lượng mưa lớn, nhiệt độ cao, ánh sáng dồi dào là điều kiện thuận lợi cho phát triển sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp.

2.1.2. Các tài nguyên thiên nhiên chính

- Về tài nguyên đất:

Thanh Hoá có diện tích đất sản xuất nông nghiệp 245.367 ha; đất sản xuất lâm nghiệp 553.999 ha; đất nuôi trồng thuỷ sản 10.157 ha; đất chưa sử dụng 153.520 ha, với các nhóm đất thích hợp cho phát triển cây lương thực, cây lâm nghiệp, cây công nghiệp và cây ăn quả. [22] 

Theo kết quả điều tra thổ nhưỡng của FAO-UNESCO, đất ở miềm núi Thanh Hóa gồm có hai nhóm chính và được phân bố như sau:

+ Nhóm đất xám: Diện tích 717.245 ha, chiếm 64,6% diện tích tự nhiên toàn tỉnh, phân bố chủ yếu ở các huyện Quan Hóa, Bá Thước, Như Xuân, Thường Xuân, Cẩm thủy, Ngọc Lặc, Thạch Thành, Lang Chánh. Đặc điểm chung của nhóm đất này là có tầng dày, dễ thoát nước, thích hợp cho phát triển lâm nghiệp và cây công nghiệp dài ngày, cây ăn quả như: cao su, cà phê, chè, cam, chanh, dứa …

+Nhóm đất đỏ: Diện tích 37.829 ha, chiếm 3,4% diện tích tự nhiên toàn tỉnh, phân bố ở độ cao trên 700m tại các huyện Quan Hóa, Lang Chánh, Thường Xuân. Nhóm đất này có tầng dày, thành phần cơ giới từ nhẹ đến trung bình, ít chua nên thích hợp với nhiều loại cây trồng và khoanh nuôi tái sinh rừng. Tuy nhiên, do phân bố ở địa hình cao, chia cắt mạnh và dễ bị rửa trôi nên việc khai thác sử dụng gặp nhiều khó khăn.

- Về tài nguyên rừng:

 Thanh Hoá là một trong những tỉnh có tài nguyên rừng lớn với diện tích đất có rừng là 484.246 ha, trữ lượng khoảng 16,64 triệu m3 gỗ, hàng năm có thể khai thác 50.000 - 60.000 m3. Rừng Thanh Hoá chủ yếu là rừng cây lá rộng, có hệ thực vật phong phú đa dạng về họ, loài; có các loại gỗ quý hiếm như: lát, pơ mu, sa mu, lim xanh, táu, sến, vàng tâm, dổi, de, chò chỉ. Các loại thuộc họ tre nứa gồm có: luồng, nứa, vầu, giang, tre. Ngoài ra còn có: mây, song, dược liệu, quế, cánh kiến đỏ … Các loại rừng trồng có luồng, thông nhựa, mỡ, bạch đàn, phi lao, quế, cao su. Thanh Hoá là tỉnh có diện tích luồng lớn nhất trong cả nước với diện tích trên 50.000ha. [22]

Rừng Thanh Hoá cũng là nơi quần tụ và sinh sống của nhiều loài động vật như: hươu, nai, hoẵng, vượn, khỉ, lợn rừng, các loài bò sát và các loài chim … Đặc biệt ở vùng Tây nam của tỉnh có rừng quốc gia Bến En, vùng Tây Bắc có các khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hu, Pù Luông, Xuân Liên, là những khu rừng đặc dụng, nơi tồn trữ và bảo vệ các nguồn gien động, thực vật quí hiếm, đồng thời là các điểm du lịch hấp dẫn đối với du khách.
        Tuy nhiên, trong những năm cuối thế kỷ XX do bị khai thác quá mức nên chất lượng rừng của Thanh Hóa giảm sút nghiêm trọng, các loài thực vật quý hiếm như lim, lát chỉ còn rải rác ở một số địa bàn vùng cao, vùng sâu, vùng xa, địa hình hiểm trở và ở các khu bảo tồn, vườn Quốc gia. Về động vật, có thể nói hệ động vật ở Thanh Hóa trước đây rất phong phú, nhưng do nhiều năm bị săn bắn bừa bãi nên hiện nay bị giảm sút nhiều.

- Về tài nguyên biển:

Thanh Hoá có 102 km bờ biển và vùng lãnh hải rộng 17.000 km2,  với những bãi cá, bãi tôm có trữ lượng lớn. Dọc bờ biển có 5 cửa lạch lớn, thuận lợi cho tàu thuyền đánh cá ra vào. Đây cũng là những trung tâm nghề cá của tỉnh. Ở vùng cửa lạch là những bãi bồi bùn cát rộng hàng ngàn ha, thuận lợi cho nuôi trồng hải sản, trồng cói, trồng cây chắn sóng và sản xuất muối. Diện tích nước mặn ở vùng biển đảo Mê, Biện Sơn có thể nuôi cá song, trai ngọc, tôm hùm và hàng chục ngàn ha nước mặn ven bờ thuận lợi cho nuôi nhuyễn thể vỏ cứng như ngao, sò ..Vùng biển Thanh Hoá có trữ lượng khoảng 100.000-120.000 tấn hải sản, với nhiều loại hải sản có giá trị kinh tế cao. [22 ]

- Về tài nguyên khoáng sản:

Thanh Hoá là một trong số ít các tỉnh ở Việt Nam có nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú và đa dạng; có 296 mỏ và điểm khoáng sản với 42 loại khác nhau, nhiều loại có trữ lượng lớn so với cả nước như: đá granit và marble (trữ lượng 2 -3 tỉ m3), đá vôi làm xi măng (trên 370 triệu tấn), sét làm xi măng (85 triệu tấn), crôm (khoảng 21 triệu tấn), quặng sắt (2 triệu tấn), secpentin (15 triệu tấn), đôlômit (4,7 triệu tấn), ngoài ra còn có vàng sa khoáng và các loại khoáng sản khác. [22]

- Về tài nguyên nước:

Thanh Hóa có 4 hệ thống sông chính là sông Hoạt, sông Mã, sông Bạng, sông Yên với tổng chiều dài 881 km, tổng diện tích lưu vực là 39.756km2; tổng lượng nước trung bình hàng năm 19,52 tỉ m3. Sông suối Thanh Hoá chảy qua nhiều vùng địa hình phức tạp, là tiềm năng lớn cho phát triển thủy điện. Nước ngầm ở Thanh Hoá cũng rất phong phú về trữ lượng và chủng loại bởi vì có đầy đủ các loại đất đá trầm tích, biến chất, mắc ma và phun trào. [22]

- Về tài nguyên du lịch

Thanh Hoá là tỉnh có tiềm năng lớn về du lịch, là một trong những trọng điểm du lịch quốc gia. Với hàng nghìn di tích lịch sử gắn với quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam  và các danh lam thắng cảnh kỳ thú như bãi tắm biển Sầm Sơn, khu nghỉ mát Hải Tiến (Hoằng Hoá), Hải Hoà (Tĩnh Gia), vườn quốc gia Bến En (Như Thanh), động Từ Thức (Nga Sơn), suối cá “thần” Cẩm Lương (Cẩm Thuỷ), sân chim Tiến Nông (Triệu Sơn)… Lợi thế về địa lý, giao thông và với lòng hiếu khách của con người  xứ Thanh, Thanh Hoá sẽ là điểm đến rất hấp dẫn đối với du khách trong và ngoài nước. Phát triển du lịch là một trong những chương trình trọng tâm của tỉnh trong thời gian tới.

- Về kết cấu hạ tầng Giao thông vận tải - Bưu chính viễn thông

Thanh Hóa có hệ thống giao thông thuận lợi về cả đường sắt, đường bộ và đường thủy.         

- Tuyến đường sắt Bắc Nam chạy qua địa bàn Thanh Hoá dài 92km với 9 nhà ga, thuận lợi cho việc vận chuyển hàng hoá và hành khách.
        - Đường bộ có tổng chiều dài trên 8.000 km, bao gồm hệ thống quốc lộ quan trọng như: quốc lộ 1A, quốc lộ 10 chạy qua vùng đồng bằng và ven biển, đường chiến lược 15A, đường Hồ Chí Minh xuyên suốt vùng trung du và miền núi; Quốc lộ 45, 47 nối liền các huyện đồng bằng ven biển với vùng miền núi, trung du của tỉnh, quốc lộ 217 nối liền Thanh Hoá với tỉnh Hủa Phăn của nước bạn Lào.

- Thanh Hoá có hơn 1.600 km đường sông, trong đó có 487 km đã được khai thác cho các loại phương tiện có sức chở từ 20 đến 1.000 tấn. Cảng Lễ Môn cách trung tâm Thành phố Thanh Hoá 6km với năng lực thông qua 300.000 tấn/ năm, các tàu trọng tải 600 tấn cập cảng an toàn. Cảng biển nước sâu Nghi Sơn có khả năng tiếp nhận tàu trên 5 vạn tấn, hiện nay đang được tập trung xây dựng thành đầu mối về kho vận và vận chuyển quốc tế.

Hiện nay, có 598/636 xã phường, thị trấn có điện thoại, đạt tỉ lệ 94%; mạng di động đã phủ sóng được 26/27 huyện, thị, thành phố, đến năm 2010 toàn tỉnh sẽ được phủ sóng mạng điện thoại di động. Tốc độ phát triển máy điện thoại hàng năm tăng nhanh, năm 2005 đạt bình quân 5,9 máy điện thoại/100 người dân, tháng 6 năm 2006 đạt 8,69 máy/100 dân. [22]

- Về hệ thống điện

 Mạng lưới cung cấp điện của Thanh Hoá ngày càng được tăng cường cả về số lượng và chất lượng, đảm bảo cung cấp điện ổn định cho sản xuất và sinh hoạt. Hiện tại điện lưới quốc gia đã có 508 km đường dây điện cao thế; 3.908 km đường dây điện trung thế, 4.229 km đường dây điện hạ thế; 9 trạm biến áp 110/35/6-10 KV; 38 trạm trung gian; 2.410 trạm phân phối. Năm 2005, điện năng tiêu thụ trên 1,2 triệu Kwh. Đến nay, 27/27 huyện, thị, thành phố với 94% số xã phường và 91% số hộ được dùng điện lưới quốc gia.  
         Tiềm năng phát triển thuỷ điện tương đối phong phú và phân bố đều trên các sông với công suất gần 800 MW. Ngoài những nhà máy thuỷ điện lớn như Cửa Đặt, bản Uôn đang và sẽ đầu tư, Thanh Hóa có thể phát triển nhiều trạm thuỷ điện nhỏ có công suất từ 1-2MW. [22]

2.1.3. Đặc điểm kinh tế - xã hội miền núi Thanh Hóa        

2.1.3.1. Đặc điểm kinh tế

Các huyện thuộc miền núi phái Tây Thanh Hóa là một trong những vùng kém phát triển của cả nước, với diện tích rộng lớn, địa hình phức tạp và có nhiều khó khăn… do đó nền kinh tế của tỉnh nói chung và của khu vực các huyện miền núi nói riêng còn nhỏ bé và chậm phát triển.

Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa cùng với sự nỗ lực của nhân dân các dân tộc, kinh tế miền núi của tỉnh đã có nhiều chuyển biến tích cực, sự tăng trưởng kinh tế từng bước đã đáp ứng yêu cầu trước mắt và tạo đà phát triển cho những năm tiếp theo. Tuy nhiên các huyện miền núi vẫn còn mang nặng tính độc canh trong sản xuất nông lâm nghiệp và thủy sản, một bộ phận dân cư vẫn trong tình trạng du canh, du cư nên đời sống còn khó khăn. Các tập quán sản xuất cũ vẫn chưa được loại bỏ, đầu tư cho công nghiệp nhỏ và tiểu thủ công nghiệp còn ít. Số các hộ gia đình xây dựng mô hình trang trại để phát triển sản xuất còn rất hạn chế. Mặc dù vậy, với nhiều chính sách hỗ trợ cho đồng bào các dân tộc thiểu số, kinh tế miền núi đang phát triển đúng hướng để từng bước ổn định đời sống, xóa hộ đói, giảm hộ nghèo, xây dựng nông thôn mới, giữ vững an ninh quốc gia ở vùng biên giới.

Tiềm năng phát triển chủ yếu của khu vực này là tài nguyên khoáng sản, tài nguyên đất, tài nguyên rừng, và mở rộng quan hệ giao dịch thương mại thông qua các cửa khẩu quốc tế để trao đổi hàng hóa, dịch vụ ... trong đó, việc khai thác tại chỗ các nguồn tài nguyên sẵn có là cơ bản và chủ yếu.

Trong giai đoạn 2005-2010, tình hình Kinh tế - Xã hội các huyện miền núi phía Tây tỉnh Thanh Hóa có nhiều chuyển biến rõ nét. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm 13,5%. Cơ cấu kinh tế dịch chuyển theo hướng tích cực, kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội được cải thiện. Trong đó tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 63,38% năm 2005 xuống còn khoảng 25% năm 2010. Trong cơ cấu kinh tế nuôi trồng thủy sản chiếm tỷ trọng ngày càng cao, lâm nghiệp chuyển từ khai thác là chủ yếu sang trồng mới, khoanh nuôi, chăm sóc và bảo vệ rừng, tỷ lệ che phủ rừng năm 2010 ước đạt 48,8%. Từng bước đưa các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào phát triển sản xuất nông nghiệp đã tạo ra năng suất các loại cây trồng chủ yếu đều tăng. Chăn nuôi phát triển theo mô hình trang trại, gia trại được phát triển về tổng đàn và sản lượng. [4]

Những năm gần đây, bằng việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn, sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở các huyện miền núi đã có bước phát triển đáng kể, trong đó phải thấy sự phát triển nhanh các doanh nghiệp tư nhân, cổ phần v.v… Nhiều ngành mới đã được xây dựng và phát triển như xi măng, mía đường, rượu bia, bánh kẹo, chế biến tinh bột …Các ngành nghề thủ công truyền thống sau một thời bị mai một nay từng bước  được phục hồi và phát triển. Các sản phẩm thủ công không những đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của đồng bào các dân tộc sinh sống trong vùng, mà từng bước góp phần thúc đẩy xuất khẩu, tăng nguồn thu ngoại tệ.

Nhìn vào bảng số 2.1 cho ta thấy miền núi Thanh Hóa đã có sự phát triển rõ nét, cơ cấu kinh tế đang từng bước chuyển dịch theo hướng tích cực, giảm dần tỷ trọng ngành nông lâm nghiệp và thủy sản, tăng dần tỷ trọng ngành công nghiệp, xây dựng cơ bản và dịch vụ.

Bảng 2.1: Tăng trưởng kinh tế các huyện miền núi Thanh Hóa

thời kỳ 2006-2010

Đơn vị tính: tỷ đồng (giá 1994)

Ngành kinh tế

2006

2007

2008

2009

2010

Tổng GDP

2.625,4

2.987,3

3.564,1

4.000,8

4.712,6

Nông lâm nghiệp và thủy sản

59,53

55,21

46.02

43.06

41.61

Công nghiệp và xây dựng

19,87

22,54

29.03

29.83

30.52

Dịch vụ

20,06

22,25

24.95

27.11

27.87

Nguồn: [3] (có tính toán lại)

Trước năm 2005, tốc độ đầu tư cho phát triển kinh tế miền núi còn chậm, sau năm 2005 Chính phủ có quyết định số 253/2005/QĐ-TTg ngày 12/10/2005 về phê duyệt Đề án phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh miền Tây tỉnh Thanh Hóa đến năm 2010 đã đem lại những thay đổi lớn cho khu vực miền núi của tỉnh. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm đạt 13,5%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Kinh tế - Xã hội được cải thiện. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 63,38% năm 2005 xuống còn khoảng 25% năm 2010. [4]

Những mặt cụ thể đó được thể hiện trong cơ cấu các ngành như sau:

-  Trong lĩnh vực công nghiệp:

Ngành công nghiệp có xu hướng phát triển và tăng nhanh, bình quân mỗi năm là 9,2%, so với trước khi có quyết định 253/2005/QĐ-TTg số doanh nghiệp vừa và nhỏ tăng lên gấp đôi. Hiện nay các huyện miền núi đã có 6.327 cơ sở sản xuất công nghiệp tăng 321 cơ sở so với năm 2005, giá trị sản xuất công nghiệp đạt 786.418 tỷ đồng tăng 1,25 lần so với năm 2005. Tốc độ tăng trưởng giá trị sản lượng công nghiệp tăng do sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến nông, lâm sản và công nghiệp khai khoáng.

Cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp đã có sự chuyển dịch nhanh theo hướng tích cực. Sự chuyển biến mạnh về nhận thức đã tạo đà cho các nghề sản xuất mới ra đời. Ngành công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng tăng từ 17,5% năm 2006 lên 32,6% năm 2010 và đứng đầu trong nhóm ngành công nghiệp. Tỷ trọng ngành chế biến nông, lâm sản cũng tăng nhanh, từ 10,6% năm 2005 tăng lên 17,9% năm 2010, chủ yếu là chế biến từ cây luồng, cây sắn và cung cấp nguyên liệu giấy.

Các làng nghề tiểu thủ công nghiệp, nghề dệt thổ cẩm truyền thống với việc khai thác nguồn nguyên liệu tại chỗ đang được hình thành ở các thị trấn, thị tứ thu hút một lực lượng lớn lao động vào làm việc tạo nên một bức tranh lạc quan đối với kinh tế miền núi.

-  Trong lĩnh vực nông lâm nghiệp và thủy sản

Đây là ngành chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu kinh tế miền núi Thanh Hóa. Tỷ trọng giá trị qua các năm đều trên 55% so với GDP của khu vực. Năm 2010, giá trị sản lượng nông lâm nghiệp và thủy sản chiếm 2.987,3 tỷ đồng chiếm 55,21% (giá cố định 1994).

Trồng trọt chủ yếu là lúa, ngô, khoai, sắn, rau và các loại cây công nghiệp hàng năm. Tổng sản lượng lương thực quy thóc bình quân đầu người là 315kg/năm. Năng xuất lúa tăng bình quân từ 37,9 tạ/ha năm 2005 lên 42,5tạ/ha năm 2010.

Bên cạnh việc trồng trọt, chăn nuôi kiểu mô hình trang trại, chăn nuôi công nghiệp tập trung đang được mở rộng. Các chương trình sind hóa đàn lợn, đàn bò, cá, gia cầm đã đem lại những kết quả khả quan, nếu so với năm 2005 ngành chăn nuôi tăng lên 35%. Trong đó đàn trâu tăng 23,7%, đàn bò tăng 28,4%, đàn lợn tăng 18,6%, gia cầm tăng 4,8%, sản lượng cá đạt 3.991 tấn tăng 5,2%.

Lâm nghiệp là một thế mạnh của miền núi Thanh Hóa, những năm gần đây do làm tốt công tác khuyến lâm, diện tích rừng khai thác không đúng quy hoạch giảm dần, rừng trồng mới được tăng lên. Năm 2010 giá trị sản xuất lâm nghiệp đạt 818.702 triệu đồng tăng 29,8% so với năm 2005. Trong đó trồng mới và khoanh nuôi rừng đạt 253.461 triệu đồng, khai thác gỗ và lâm sản 550.164 triệu đồng, lâm nghiệp khác 15.077 triệu đồng.

Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản đã có bước phát triển tốt, khai thác có hiệu quả tiềm năng đất đai, rừng và mặt nước vào sản xuất góp phần vào tăng trưởng kinh tế chung của tỉnh. Đã có sự gắn kết giữa sản xuất nông, lâm nghiệp với công nghiệp chế biến quy mô nhỏ ở khu vực nông thôn, góp phần giải quyết lao động và nâng cao giá trị các sản phẩm nông, lâm nghiệp. Quan hệ sản xuất trong nông nghiệp, nông thôn được củng cố. Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ nông, lâm nghiệp được tăng cường một bước. Việc ứng dụng các kỹ thuật - công nghệ mới vào sản xuất, nhất là khâu giống, kỹ thuật canh tác góp phần nâng cao năng suất cây trồng, vật nuôi tăng nhanh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của thị trường.

-  Trong lĩnh vực dịch vụ

Khi chuyển đổi cơ chế, mạng lưới dịch vụ phát triển khá mạnh mẽ không chỉ ở các khu đô thị vùng đồng bằng mà tại các huyện miền núi cũng phát triển khá nhanh chóng. Năm 2010 số cơ sở đăng ký kinh doanh loại hình này là 12.824 so với năm 2005 tăng 12,21%; số người kinh doanh thương mại, du lịch và khách sạn, nhà hàng tăng 28,65%. Giá trị xuất khẩu của khu vực năm 2010 đạt tới 8,2 triệu USD tăng so với năm 2005 là 11,65%.

Như vậy, bằng hệ thống chính sách điều hành vĩ mô và sự chỉ đạo, lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, các huyện miền núi đã có những bước phát triển và tăng trưởng kinh tế khá.

Tuy nhiên, do sự đầu tư chưa đúng với tiềm năng nên trong lĩnh vực dịch vụ ở các huyện miền núi của tỉnh còn nhiều hạn chế như: sản phẩm du lịch còn nghèo nàn, chủ yếu mới khai thác tiềm năng tự nhiên và những di sản sẵn có, chưa có dự án lớn vào phát triển du lịch trên địa bàn. Các hoạt động dịch vụ về tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, thông tin, tư vấn, việc làm … đã được quan tâm và đầu tư, bám sát các chủ trương và định hướng phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và vùng để đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng phục vụ phát triển kinh tế.

 2.1.3.2. Đặc điểm xã hội

- Dân số

Vùng núi phía Tây Thanh Hóa có 11 huyện với 196 xã, thị trấn (184 xã, 12 thị trấn). Dân số gần 8.654 người, gồm 7 dân tộc: Kinh, Mường, Thái, Thổ, Dao, Mông, Khơ mú. Mật độ dân số 305 người/km2 [20]. Trong gần 8.654 người, nông dân chiếm tuyệt đại đa số (trên 80% dân số cả khu vực).

Bảng số 2.2: Phân bố dân cư tỉnh Thanh Hóa

Dân số các dân tộc chủ yếu
tỉnh Thanh Hóa

Kinh

Mường

Thổ

Khơ Mú

Thái

Mông

Dao

Dân số (người)

2.898.311

328.744

8.980

607

210.908

15.325

5.077

Địa bàn cư trú

Khắp tỉnh

Các huyện: Ngọc Lặc,

Cẩm Thủy,
Thạch Thành 

Bá Thước

Huyện Như Xuân

Bản Đoàn Kết, xã Tén Tằn và
bản Suối Lách, xã Mường Chanh,
Mường Lát

Các huyện:

Quan Hóa,

Quan Sơn,
Bá Thước,

LangChánh

Xã Pù Nhi, huyện Mường Lát

Các huyện: Ngọc Lặc, Cẩm Thủy

Nguồn:  [21]        

Trong những năm gần đây do công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình trong tỉnh được thực hiện thường xuyên và có hiệu quả, nhận thức của người dân về công tác này ngày càng cao nên có xu hướng giảm dần. Tuy nhiên đối với miền núi Thanh Hóa, do trình độ dân trí còn thấp nên việc sinh đẻ nhiều con vẫn còn phổ biến trong các hộ gia đình, nhất là các hộ ở vùng sâu, vùng xa, người dân tộc H’Mông dẻo cao. Được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, nhiều lễ hội và phong tục truyền thống tốt đẹp của đồng bào các dân tộc đang được phục hồi và phát triển theo hướng tiến bộ và trở thành một trong những nguồn lực phát triển quan trọng của du lịch.

- Về chất lượng dân số: Do thực hiện tốt từng bước chương trình phổ cập giáo dục và chăm sóc sức khỏe của nhân dân các dân tộc thiểu số nên chất lượng dân số khu vực miền núi Thanh Hóa không ngừng được cải thiện cả về thể lực và trí lực. Về cơ bản, miền núi Thanh Hóa có một cơ cấu dân số tương đối trẻ, sức khỏe tốt. Đây là nguồn nhân lực chủ yếu sẽ được huy động vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nói chung và của khu vực miền núi nói riêng.

Trình độ học vấn của người dân cũng ngày càng được nâng cao. Đến năm 2010, toàn miền núi Thanh Hóa đã đạt phổ cập trung học cơ sở đúng độ tuổi. Tuy nhiên, tại một số xã giáp biên giới do phần lớn dân cư là người dân tộc thiểu số với nhiều tập tục lạc hậu, lại sống rải rác ở các khu vùng cao, vùng xa, điều kiện đầu tư cho giáo dục khó khăn … nên trình độ dân trí thấp và học vấn của dân cư còn thấp, tình trạng tái mù chữ còn tương đối phổ biến.

- Về phân bố dân cư: Sự phân bố dân cư của rất không đồng đều, thưa thớt giữa các vùng, các khu vực. Điều này cho thấy mức độ đô thị hóa, phát triển công nghiệp và dịch vụ ở khu vực miền núi phía Tây trong những năm qua còn rất thấp.

Thực trạng phân bố dân cư nêu trên của các huyện miền núi phía Tây Thanh Hóa cùng với tình trạng di cư tự do của một số bộ phận dân cư ở các huyện vùng cao của tỉnh đang đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết. Ngoài tình trạng di cư tự do trong nội bộ các huyện vùng cao biên giới của tỉnh, đồng bào người H’Mông ở các tỉnh miền núi phía Bắc chuyển đến cũng khá đông, nảy sinh những vấn đề phức tạp trong quản lý dân cư, an ninh chính trị và trật tự xã hội. Vài năm gần đây, mặc dù tình trạng di cư tự do đã giảm nhưng hiện tượng vượt biên trái phép, vi phạm Hiệp định biên giới vẫn còn xảy ra, đòi hỏi phải quy hoạch phân bố sắp xếp lại dân cư trên địa bàn để vừa thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội vừa đảm bảo an ninh chính trị và trật tự xã hội cho các khu vực vùng biên.

Việc thực hiện chăm sóc sức khỏe của nhân dân được Đảng bộ và chính quyền tỉnh và địa phương rất coi trọng. Công tác vệ sinh, phòng bệnh, phòng dịch đã được triển khai rộng khắp các thôn xóm, làng bản, mạng lưới y tế được củng cố và tăng cường đội ngũ cán bộ khá tốt. Hiện tại có 1 bệnh viện đa khoa khu vực, 11 bệnh viện tuyến huyện, 188/194 xã có trạm xá. Số cán bộ ngành y thuộc khu vực nhà nước quản lý là 969 người, trong đó có 258 bác sỹ chiếm 26,63%, 466 y sỹ, kỹ thuật viên chiếm 48,01% và 245 y tá, hộ lý chiếm 25,36%. Số cán bộ ngành dược thuộc nhà nước quản lý là 58 người, trong đó dược sỹ cao cấp 6 người bằng 10,34%, dược sỹ trung cấp 43 người bằng 74,14%, dược tá 9 người bằng 15,52%. Nhìn chung các cơ sở y tế đã được quan tâm đầu tư về cơ sở vật chất và trang thiết bị nên đã đáp ứng ngày càng tốt hơn công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân. Bệnh viện đa khoa khu vực được nâng cấp, xây dựng mới bước đầu đã khắc phục được tình trạng một số bệnh trước đây phải chuyển lên tuyến trên để chữa trị. Các trạm y tế xã được đầu tư cải tạo và nâng cấp đảm bảo nhu cầu khám chữa bệnh thông thường cho nhân dân. Ngành y tế đã tổ chức tốt việc khám và chữa bệnh bảo hiểm y tế ở cả 3 tuyến, giúp người nghèo giảm chi phí trong khám và chữa bệnh.

Mạng lưới y tế dự phòng tương đối phát triển, nhiều chương trình y tế được triển khai tốt như: chăm sóc sức khỏe ban đầu, tiêm chủng mở rộng, chương trình phòng chống sốt rét, bướu cổ, thanh toán bệnh mắt hột, phòng chống lao…các bệnh xã hội được phát hiện kịp thời và quản lý điều trị có hiệu quả, góp phần tăng sức khỏe cho cộng đồng, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em.

Tuy nhiên, với số lượng cán bộ y tế ở các huyện miền núi như trên vẫn chưa thể đáp ứng yêu cầu của người dân, cơ sở vật chất và trang thiết bị vẫn còn nghèo nàn, chưa đồng bộ, số gường bệnh còn ít, tình trạng quá tải là phổ biến. Hệ thống giao thông còn khó khăn, dân cư ở không tập trung nên rất khó cho việc đầu tư cơ sở hạ tầng cũng như chăm sóc sức khỏe.

Những đặc điểm kinh tế - xã hội trên đã ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển nguồn nhân lực ở các huyện miền núi tỉnh Thanh Hóa về mặt thuận lợi và khó khăn trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của vùng.

2.2. THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC CÁC HUYỆN MIỀN NÚI  THANH HÓA CHO PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI  TRONG NHỮNG NĂM QUA

        2.2.1. Định hướng chiến lược phát triển Kinh tế - Xã hội các huyện miền núi phía Tây tỉnh Thanh Hóa đến năm 2020

Ngày 03/7/2006, UBND tỉnh Thanh Hóa đã ban hàn Quyết định số 1832/QĐ-UBND về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển Kinh tế - Xã hội miền núi tỉnh Thanh Hóa đến năm 2020. Đã xác định các quan điểm, mục tiêu phát triển, nhiệm vụ chủ yếu phát triển các ngành, các lĩnh vực để phục vụ cho chiến lược phát triển Kinh tế - Xã hội các huyện miền núi tỉnh Thanh Hóa được chia làm 2 thời kỳ (thời kỳ 2006 - 2010; thời kỳ 2011 - 2020). [19]

- Quan điểm phát triển.

+ Phát huy cao độ nội lực; thanh tủ tối đa sự hỗ trợ của Trung ương, mọi cơ hội và điều kiện cho phép để thu hút các nguồn lực bên ngoài thúc đẩy kinh tế miền núi phát triển, tạo bước đột phá và chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế trên địa bàn; phát triển đạt tốc độ cao, hiệu quả và bền vững.

+ Tăng cường đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để chủ động đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực phục vụ sự phát triển.

+  Tập trung nguồn lực cho xây dựng đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng đáp ứng yêu cầu phát triển.

+ Phát triển Kinh tế - Xã hội đi đôi với tăng cường quốc phòng, an ninh. Phát huy tinh thần đoàn kết giữa đồng bào các dân tộc, giữ vững ổn định chính trị, hợp tác xây dựng tuyến biên giới với nước bạn Lào ổn định và phát triển toàn diện.

+ Thực hiện phát triển bền vững, vừa đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, vừa giải quyết tốt các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái; tiến hành xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống nhân dân, từng bước thu hẹp khoảng cách về mức sống của nhân dân vùng cao, biên giới với vùng thấp, giữa miền núi và miền xuôi. Giữ vững và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc, đẩy lùi tệ nạn xã hội.

- Mục tiêu phát triển:

+ Mục tiêu tổng quát: Khắc phục tình trạng lạc hậu, tăng cường hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, xây dựng và hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách nhằm huy động tối đa các nguồn nhân lực cho đầu tư phát triển, phấn đấu đạt mức tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao, đồng thời giải quyết tốt nhất các vẫn đề xã hội, nâng cao mức sống về vật chất, tinh thần cho nhân dân, từng bước thu hẹp chênh lệch về mức sống giữa các vùng, các cộng đồng dân cư và với vùng đồng bằng. Đảm bảo quốc phòng, giữ vững chủ quyền và an ninh biên giới.

+ Mục tiêu cụ thể:

Về kinh tế: Phấn đấu đạt tăng trưởng GĐP toàn vùng cao hơn trung bình cả tình cùng thời kỳ:

- Thời kỳ 2011 - 2020: 13,0 - 15,0% năm (Công nghiệp - xây dựng: 20,0 - 25,0%; nông - lâm nghiệp: 8,0 - 9,0%; dịch vụ: 12 - 15%).

- GDP bình quân đầu người năm 2020 gấp hơn 3 lần so với năm 2010.

- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế:

                                        Năm 2010        Năm 2015        Năm 2020

+ Nông-lâm-thủy sản                < 45,0%        < 32,0%        < 25,0%

+ Công nghiệp-xây dựng                > 25,0%        > 33,0%        > 37,0%

+ Dịch vụ                                > 30,0%        > 35,0%        > 37,0%

Về xã hội:

- Phấn đấu giảm tỷ lệ sinh: 0,4 - 0,5%o/năm; sớm đạt tỷ lệ sinh thay thế.

- Phấn đấu đến năm 2020 cơ bản không còn hộ nghèo.

- Tăng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên trên 30% vào năm 2020; giảm thời gian nông nhàn khu vực nông thôn.

- 100% số huyện đạt phổ cập trung học cơ sở, 100% số xã đạt phổ cập trung học cơ sở; đến năm 2015, 100% số xã đạt phổ cập trung học phổ thông.

- Năm 2020 có 6 bác sĩ/1 vạn dân. Giảm tỉ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng từ 2,0-2,5%/năm.

- 100% số hộ được sử dụng điện vào năm 2020.

- Tỉ lệ số hộ được dùng nước hợp vệ sinh, nước qua xử lý lên 100% vào năm 2020.

Về môi trường, môi sinh: Tăng tỉ lệ phủ xanh đất trống đồi trọc lên trên 60%  vào năm 2020.

Về công tác cán bộ: Có đội ngũ cán bộ đủ năng lực đáng ứng yêu cầu phát triển.

- Nhiệm vụ chủ yếu phát triển các ngành, các lĩnh vực.

Phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản và kinh tế nông thôn phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng thời kỳ 2011 - 2020: 7,0 - 7,5% năm.

Về nông nghiệp: Đưa nhanh tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất để tăng năng suất cây trồng, chất lượng sản phẩm, tăng doanh thu trên mỗi ha đất nông nghiệp; phấn đấu đến năm 2015 trên mỗi đơn vị diện tích có thu nhập gấp 2 lần so với năm 2005.

Sản xuất lương thực ưu tiên diện tích có điều kiện canh tác cây lúa nước để sản xuất đủ lương thực đáp ứng nhu cầu tiêu dùng tại chỗ cho người và phát triển chăn nuôi, góp phần thực hiện an toàn lương thực trên địa bàn; chuyển diện tích ở vùng thiếu nước sang trồng cây màu và cây công nghiệp. Ổn định diện tích gieo trồng lúa hàng năm 60 - 65 ngàn ha; phấn đấu đạt năng suất bình quân cả năm từ 50 tạ/ha trở lên; sản lượng đạt 300 - 325 nghìn tấn. Diện tích gieo trồng ngô 26 - 30 nghìn ha; năng suất bình quân toàn vùng đạt 40 tạ/ha trở lên; hàng năm đạt sản lượng 100 - 120 nghìn tấn. Tổng sản lượng lương thực toàn vùng từ năm 2010 trở đi đạt 400 - 450 nghìn tấn.

Về chăn nuôi:

- Năm 2015, tổng đàn trâu, bò đạt 550 nghìn con ( trâu: 250.000 con; bò 300.000 con ); đàn lợn 900 nghìn con; đàn gia cầm 15 triệu con; sản lượng thịt hơi 60.000 tấn.

- Năm 2020: Đàn trâu, bò đạt 1 triệu con ( trâu: 300.000 con; bò 700.000 con ); đàn lợn 1 triệu con; đàn gia cầm: 20 triệu con; sản lượng thịt hơi 100 nghìn tấn.  

- Tỷ trọng chăn nuôi năm 2015 trên 45% và năm 2020 trên 50% trong tổng giá rị sản xuất nông nghiệp.

Về lâm nghiệp: Rà soát lại diện tích 3 loại rừng, trên cơ sở đó điều chỉnh cơ cấu rừng hợp lý và lựa chọn loại giống cây lâm nghiệp phù hợp để vừa đảm bảo mục tiêu về cân bằng sinh thái vừa tham gia tích cực vào tăng trưởng kinh tế; thực hiện giao khoán rừng cho các thành phần kinh tế để rừng có chủ thực hiện chăm sóc, bảo vệ và phát triển vốn rừng.

Đến năm 2015, phấn đấu rừng phủ kín 100% đất lâm nghiệp; có vốn rừng trên 550 nghìn ha, trong đó rừng phòng hộ: 180 nghìn ha; rừng đặc dụng: 72 nghìn ha; rừng sản xuất: 300 ngàn ha. Tổ chức chăm sóc, trồng và khai thác luân phiên 300 nghìn ha rừng sản xuất; hình thành các vùng nguyên liệu tập trung, vùng cây gỗ lớn, cây đặc sản phục vụ cho phát triển công nghiệp chế biến các sản phẩm cao cấp sau năm 2020.

Phát triển thêm trang trại rừng mới; đến năm 2015 có 1.500 - 2.000 trang trại, tạo việc làm ổn định và nâng cao đời sống người làm nghề rừng.

Về thủy sản: Tận dụng tối đa diện tích mặt nước, kể cả diện tích mặt nước các hồ thuỷ lợi, hồ thuỷ điện để phát triển nuôi thả trực tiếp và nuôi lồng, bè; đưa các giống mới, chất lượng vào nuôi để tạo sản phẩm có giá trị cao. Phấn đấu diện tích nuôi trồng đạt 3.500 ha; sản lượng 7.700 tấn thuỷ sản các loại.  

Về Công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp:

Khai thác mọi lợi thế và cơ hội cho phép để thu hút đầu tư phát triển công nghiệp; xây dựng công nghiệp trở thành ngành kinh tế động lực thúc đẩy phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế Miền núi với tỷ trọng công nghiệp chiếm ưu thế.

Phấn đấu thời kỳ 2011 - 2020 đạt tăng trưởng công nghiệp từ 20 -22%/năm. Tỷ trọng sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp năm 2020 đạt tỷ trọng trên 35 % trong tổng giá trị sản xuất toàn vùng

Phát triển công nghiệp gắn với vùng nguyên liệu:

- Chế biến nông-lâm sản: Phát huy hết công xuất các cơ sở chế biến hiện có. Xây dựng mới thêm các cơ sở sản xuất ván sàn từ luồng, gỗ ván ép, sơ chế bột giấy, chế biến nước hoa quả, chế biến măng, chế biến thức ăn gia súc; giết mổ và chế biến thịt gia súc gia cầm; thuộc da và sản xuất các sản phẩm từ da;

- Khai thác - chế biến khoáng sản, phân bón: Xây dựng các nhà máy tuyển, làm giầu quặng sắt - luyện cán thép; khai thác - tuyển cao lanh, crôm; sản xuất bột nhẹ và sản xuất phân vi sinh;

- Sản xuất vật liệu xây dựng:  Xây dựng các nhà máy sản xuất xi măng, khai thác-chế biến đá ốp lát xuất khẩu, sản xuất gạch nung và sản xuất tấm lợp.

- Công nghiệp may: Xây dựng các xí nghiệp may xuất khẩu tại các trung tâm đô thị để thu hút lao động;

- Chế tạo và lắp ráp cơ khí:  Xây dựng nhà máy cơ khí chế tạo và lắp ráp ô tô, máy kéo, máy công tác phục vụ sản xuất nông - lâm nghiệp, phát triển lực lượng vận tải nông thôn, vận tải liên vùng; sản xuất phụ tùng thay thế cung cấp cho khu vực Miền núi Thanh Hoá, Bắc Trung bộ, vùng Tây bắc và vùng Bắc Lào. Phát triển cơ khí sản xuất lắp ráp thiết bị điện, điện tử - điện lạnh tại các khu đô thị.

- Công nghiệp điện - thuỷ điện: Khảo sát quy hoạch phát triển thủy điện trên các sông, suối. Trước mắt tập trung vào các công trình: thuỷ điện cửa Đặt, Trung Sơn, Sông Lò; năm 2010, thuỷ điện cửa Đặt hoà mạng quốc gia; năm 2015, thuỷ điện Trung Sơn hoà mạng quốc gia; xây dựng thủy điện nhỏ trên các suối phục vụ cấp điện tại chỗ cho các xã, bản vùng xa chưa có điện lưới quốc gia.

Phát triển các khu công nghiệp:

- Khu công nghiệp Vân Du -Thạch Thành: Quy mô 150 ha; Khu công nghiệp Tân Thanh - Như Thanh: Quy mô 300 ha; Khu công nghiệp Bãi Trành- Như Xuân: Quy mô 300 ha; Khu công nghiệp Đồng Tâm - Bá Thước: Quy mô 100 ha; Khu công nghiệp Thạch Quảng: Quy mô 100 ha; Khu công nghiệp Ngọc Khê - Ngọc Lặc: Quy mô 100 ha; Khu công nghiệp Tén Tần - Mường Lát: Quy mô 200 ha.

Phát triển các cụm công nghiệp, làng nghề:

Trên địa bàn các huyện, xây dựng các cụm công nghiệp vừa và nhỏ, cụm làng nghề để thu hút lao động, thực hiện công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn; tập trung vào các lĩnh vực: chế biến nông - lâm sản quy mô nhỏ, sửa chữa cơ khí nhỏ, cải tiến  máy công tác phục vụ sản xuất nông - lâm nghiệp, dịch vụ vận tải nội vùng, làm hàng thủ công, dệt - may hàng thổ cẩm, sơ chế nông sản sau thu hoạch.

Về thương mại:

- Quy hoạch phát triển vùng sản xuất các mặt hàng phục vụ xuất khẩu: thực phẩm nông sản tươi sống, nông - lâm sản chế biến. Năm 2020, phấn đấu có giá trị hàng hóa xuất khẩu trên đạt giá trị gấp 2 lần năm 2010.

Về Du lịch:

- Thời kỳ 2011 - 2020, xây dựng và triển khai dự án phát triển Khu  bảo tồn Xuân Liên, khu lòng hồ cửa Đặt, xây dựng khu du lịch sinh thái, nghỉ mát, nghỉ dưỡng vùng lòng hồ. Tổ chức các lễ hội văn hoá vùng cao để thu hút du khách; xây dựng khu du lịch sinh thái Son - Bá - Mười ( Bá Thước ).

Các ngành dịch vụ khác:

Củng cố, phát triển mạnh các dịch vụ tài chính, ngân hàng tại các trung tâm đô thị, mở rộng các hoạt động tín dụng tại các trung tâm cụm xã đáp ứng nhu cầu giao dịch tài chính, tín dụng cho đầu tư phát triển. Phát triển dịch vụ vận tải đủ mạnh đáp ứng nhu cầu đi lại và giao lưu hàng hoá nội vùng, giữa vùng Miền núi với các vùng miền trong cả tỉnh, cả nước và nước bạn Lào; phát triển dịch vụ bưu chính - viễn thông, trước mắt là mạng lưới bưu điện văn hoá xã, thôn, bản; nhanh chóng hoàn thiện và phủ kín mạng điện thoại cho 100% xã trong vùng đáp ứng nhu cầu về thông tin liên lạc cho mọi người dân.

- Phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng:

Giao thông: Từ 2011 - 2020 tập trung phát triển mạng lưới giao thông, ưu tiên tuyến đường nối các huyện phía Tây, đường hành lang biên giới, các tuyến đường ngang nối đường hành lang với đường Hồ Chí Minh; nối đường Hồ Chí Minh với đường 1A và vùng đồng bằng. Phát triển giao thông thuỷ nội địa và giao thông đường sắt làm thay đổi cơ bản năng lực mạng lưới giao thông, tạo thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội.

+ Nâng cấp toàn tuyến quốc lộ 45; quốc lộ 47 đạt cấp III với các công trình xây dựng vĩnh cửu;

+ Nghiên cứu, lập quy hoạch phát triển tuyến đường sắt nối đô thị Trung tâm vùng Miền núi ( Ngọc Lặc ) với đường sắt Thống Nhất.

Thuỷ lợi - cấp nước sinh hoạt đô thị, nông thôn: Giai đoạn 2011 - 2020: Xây dựng mạng lưới kênh tưới và cấp nước sinh hoạt theo hệ thống kênh dẫn của Hồ chứa nước cửa Đặt, phục vụ tưới cho các vùng cây công nghiệp trên địa bàn có tuyến kênh đi qua. Nghiên cứu khai thác nguồn nước ngầm tưới cho các vùng cây trồng cạn; cấp nước sinh hoạt cho các đô thị, các khu dân cư nông thôn.

Điện và viễn thông:

Về lưới điện: Sau 2010, đề xuất Bộ Công nghiệp cho tăng thêm các trạm 110V: Lang Chánh ( 25.000 KVA ); Như  Xuân ( 25.000 KVA ) Thạch Thành ( 25.000 KVA ); nâng cấp các trạm 100KV Ngọc lặc, Bá Thước, Như Thanh…, nâng cao năng lực lưới phụ tải; năm 2020, 100% thôn bản có đủ điện đáp ứng yêu cầu sản xuất và phục vụ sinh hoạt.

Về Viễn thông:  Từ 2011 - 2020: Hoàn thành xây dựng và đưa vào sử dụng tuyến cáp quang dọc tuyến đường hành lang biên giới; thực hiện phủ sóng điện thoại rộng khắp cho các khu vực kinh tế trọng điểm, các khu đô thị, các cụm công nghiệp; cung cấp dịch vụ chất lượng cao, đảm bảo đáp ứng nhu cầu về thông tin liên lạc cho nhân dân trong  mọi điều kiện thời tiết; tạo điều kiện cho phát triển kinh tế - xã hội, góp phần bảo đảm an ninh, quốc phòng; năm 2020, đạt mật độ điện thoại 10 máy/100 dân; giảm bán kính phục vụ xuống 2,5 km/ điểm phục vụ.

Phát triển hệ thống đô thị,  các điểm dân cư nông thôn.

- Xây dựng đô thị mới Ngọc Lặc trở thành Trung tâm của Miền Tây Thanh Hóa, có diện tích tự nhiên 11.833,14 ha; bao gồm thị trấn Ngọc Lặc và các xã Quang Trung, Ngọc Liên, Ngọc Sơn, một phần xã Thuý Sơn, xã Ngọc Khê; đến năm 2020, phấn đấu trở thành đô thị loại III, quy mô dân số 100 ngàn người.

- Xây dựng các cụm dân cư mới bám theo các tuyến đường dọc biên; xây dựng các làng mới theo mô hình “ làng thanh niên lập nghiệp ” để thực hiện phân bố lại dân cư. Đến 2020 có trên 300 cụm dân cư mới để thực hiện phân bố khoảng 150 - 300 ngàn dân, đạt mật độ dân số trên địa bàn các huyện vùng biên > 100 người/km2.

- Phát triển các lĩnh vực xã hội

Dân số, lao động, việc làm và xoá đói giảm nghèo:

Dân số và lao động: Thực hiện nghiêm ngặt mức giảm sinh 0,4 -0,5%o/năm để sớm đạt tỷ lệ sinh thay thế. Năm 2015, có quy mô dân số khoảng 1,14 triệu người; năm 2020: 1,17 triệu người. Phấn đấu nâng thể lực, trí lực, tuổi thọ cho mọi người dân; nâng cao chất lượng dân số, nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn phát triển mới.

Đào tạo và bồi dưỡng tay nghề, nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ thuật, trình độ quản lý cho lực lượng lao động đủ năng lực làm việc trong các ngành kinh tế, quản lý Nhà nước. Phấn đấu đạt tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 50,0% năm 2020. Thực hiện cân đối lao động nội vùng, thu hút lao động kỹ thuật từ bên ngoài đáp ứng nhu cầu phát triển các công nghiệp lớn trên địa bàn để thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế và quốc phòng an ninh.

Giải quyết việc làm: Phát triển mạnh sản xuất công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp, các ngành dịch vụ; mở mang nghề phụ trong nông nghiệp tạo việc làm thu hút lao động và chuyển đổi cơ cấu lao động theo hướng tăng tỷ trọng lao động công nghiệp. Khuyến khích phát triển mạnh kinh tế trang trại nhất là các trang trại đa ngành sử dụng nhiều lao động tạo việc, tăng thời gian sử dụng lao động ở nông thôn.

Nâng cao mức sống, thực hiện xoá đói, giảm nghèo:

- Thực hiện giải quyết dứt điểm các công trình hạ tầng thiết yếu như: giao thông, cấp nước, cấp điện; các cơ sở trường học, trạm xá tạo điều kiện cho mọi người dân có điều kiện phát triển sản xuất và tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, nâng cao dân trí; thông qua các chương trình quốc gia như Chương trình 135, xoá đói giảm nghèo, khuyến nông khuyến lâm để mọi người dân có kiến thức tiếp thu khoa học, áp dụng biện pháp canh tác tiên tiến để phát triển sản xuất tăng thu nhập; tiếp tục cho các hộ nghèo được vay vốn với lãi suất ưu đãi dài hạn để thực hiện đầu tư  phát triển sản xuất. Phát triển dịch vụ tiêu thụ sản phẩm cho những hộ nông dân nghèo, có chính sách hỗ trợ các hộ nghèo về học hành, khám chữa bệnh; hỗ trợ giống, thuốc phòng chống dịch bệnh... và giúp họ tiếp cận thị trường.

- Tiếp tục thực hiện có kết quả các chương trình xóa đói, giảm nghèo  của Trung ương và các chương trình phát triển kinh tế - xã hội của cả vùng, cả tỉnh. Phấn đấu mỗi năm giảm 4 - 5% hộ nghèo; đến năm 2020, cơ bản hoàn thành xoá nghèo.         

Giáo dục - đào tạo: Tăng cường đầu tư phát triển mạng lưới trường lớp, phấn đấu tỷ lệ số phòng học kiên cố đến năm 2015 đạt 100%, có 100% số trường có nhà ở đạt tiêu chuẩn cho giáo viên lưu trú. Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý đủ năng lực đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục thời kỳ mới.

Duy trì, vận động tăng tỷ trẻ em trong độ tuổi đến lớp; năm 2015 cơ bản hoàn thành phổ cập trung học phổ thông; năm 2020, đạt mặt bằng chung cả tỉnh về các tiêu chí về giáo dục.

Y tế và chăm sóc sức khoẻ nhân dân:

- Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị đồng bộ cho các trung tâm y tế huyện và y tế xã. Mở rộng quy mô Bệnh viện Đa khoa Ngọc Lặc lên 400 giường; nâng cấp bệnh viện các huyện vùng cao biên giới Mường Lát, Quan Sơn, các phòng khám đa khoa khu vực, trạm y tế xã để đạt 100% số xã có trạm y tế. Đào tạo bổ sung, bổ túc nghiệp vụ nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ y, bác sỹ; tăng tỷ lệ bác sỹ có chuyên khoa bậc cao bổ sung cho các bệnh viện tuyến huyện và trạm y tế xã; đến năm 2015, hoàn thành 100% các tiêu chí về y tế.

Văn hoá, thông tin, thể dục - thể thao:

- Thực hiện vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của các dân tộc; thực hiện nâng cao đời sống văn hoá, tinh thần cho mọi người dân tương xứng với trình độ phát triển kinh tế; hàng năm xây dựng mới 100 làng văn hoá, đến năm 2015 có trên 90% số làng đạt tiêu chuẩn làng văn hóa; 95% số gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa; năm 2020, cơ bản hoàn thành cuộc vận động xây dựng nếp sống văn hoá ở khu dân cư.

- Về bảo vệ môi trường

Xây dựng kế hoạch quản lý và khai thác hợp lý các nguồn tài nguyên đất, rừng, nguồn nước; có biện pháp kết hợp giữa khai thác và đầu tư tái tạo làm giầu tài nguyên phục vụ khai thác lâu dài, phát triển bền vững.

- Nâng cao năng lực, trách nhiệm các lực lượng quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường ở các địa phương để thực hiện tốt các nhiệm vụ về bảo vệ tài nguyên và môi trường.

- Các dự án ưu tiên Thời kỳ 2011 - 2020:

+ Bổ sung năng lực, hoàn thiện lưới điện Vùng Miền núi: Xây dựng thêm 3 trạm 110KV:  Thạch Thành; Lang Chánh; Như Xuân.

+ Hoàn thiện các trục giao thông liên vùng, nâng cấp các tuyến giao thông nông thôn nội vùng;

+ Xây dựng đô thị Ngọc Lặc giai đoạn II:  quy mô 100 ngàn dân;         + Xây dựng các đô thị: Thạch Quảng ( Thạch Thành ); Bãi Trành ( Như Xuân        ), đến 2020 đạt đô thị loại IV; Nghiên cứu xây dựng đô thị dịch vụ - du lịch Cẩm Phong - Cẩm Thuỷ quy mô 1.000 - 2.000 ha; 20 - 30 ngàn dân;        

Tổng nhu cầu vốn đầu tư cho thời kỳ quy hoạch ( 2006 - 2020 ) là: 196.294 tỷ ( gía hiện hành ); bình quân cả thời kỳ khoảng: 13.086 tỷ/năm:

Thời kỳ 2011 - 2020 nhu cầu: 173.814 tỷ; bình quân 17.381 tỷ/năm;

Bảng số 2.3: Nhu cầu vốn đầu tư 2011 - 2020

                                                                                   Đơn vị tính: tỷ đồng

Hạng mục đầu tư
Tổng nhu cầu
Tỷ trọng (%)
Tổng nhu cầu thời kỳ.
173.814
100,0
1- Các công trình hạ tầng kinh tế - xã hội. ( kể cả phát triển hạ tầng đô thị )
70.742
40,7
2- Các Dự án phát triển sản xuất.
103.072
59,3
- Công nghiệp.
  68.135
39,2
- Dịch vụ.
  17.555
10,1
- Nông - lâm nghiệp.
  17.385
10,0

Nguồn: [19]

        2.2.2. Dân số và sự hình thành nguồn nhân lực miền núi Thanh Hóa

Để đạt được những mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội các huyện miền núi phía Tây Thanh Hóa giai đoạn 2011 - 2020 đặt ra thì vấn đề nâng cao chất lượng nguồn lao động nông thôn đóng vai trò hết sức quan trọng. Bởi vì, không có lao động chuyên môn kỹ thuật, lao động đã qua đào tạo thì không thể ứng dụng hiệu quả thành tựu khoa học công nghệ và kỹ thuật mới; không thể thay đổi được tập quán và kỹ thuật sản xuất lạc hậu, không thể nâng cao năng suất lao động xã hội, do đó không thể giảm một cách đáng kể lực lượng lao động nông thôn ra khỏi khu vực nông nghiệp. Mặt khác, nếu chất lượng nguồn lao động thấp, đặc biệt là lực lượng lao động trẻ mặc dù khu vực nông nghiệp không có khả năng tạo thêm chỗ làm việc mới thì cũng không dễ dàng để chuyển đội ngũ này sang làm việc trong các ngành nghề phi nông nghiệp tại địa phương cũng như ở nơi khác. Sự mất cân đối giữa cung và cầu về chất lượng lao động ở nông thôn là trở ngại trực tiếp cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất nông nghiệp và cơ cấu lao động của vùng.

Do đó, việc phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực có ý nghĩa quyết định cho chiến lược phát triển kinh tế - xã hội miền núi phía Tây Thanh Hóa. Vì vậy, vấn đề dân số và nguồn nhân lực phải được quan tâm và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa tốc độ phát triển dân số và yêu cầu phát triển nguồn nhân lực cùng với cơ chế chính sách thu hút nhân lực có tay nghề, trình độ đến làm việc.        

2.2.2.1. Sự phát triển dân số qua các năm

-  Tốc độ gia tăng dân số:

Thanh Hóa nói chung và khu vực miền núi nói riêng có quy mô dân số lớn và ngày càng tăng đang là một trong những cản trở lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, trong đó ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của nguồn nhân lực. Trong giai đoạn 2005 - 2010 cùng với những chuyển biến sâu sắc về kinh tế - xã hội, công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình ở miền núi Thanh Hóa đã vượt qua nhiều khó khăn trở ngại về tâm lý xã hội, về tập tục lạc hậu tồn tại qua nhiều thế hệ, những khó khăn mang tính đặc thù của từng dân tộc, địa phương để đạt được quy mô dân số giảm nhanh. Tốc độ tăng dân số tự nhiên thời kỳ này là 1,34%.

Bảng 2.4: Dân số và tỷ lệ phát triển dân số các huyện

miền núi Thanh Hóa thời kỳ 2006 - 2010

Chỉ tiêu

2006

2008

2010

Dân số trung bình (người)

899.964

906.227

911.623

Tỷ suất sinh (‰)

24.57

21,03

20.36

Tỷ suất chết (‰)

11.29

8,93

9.38

Tỷ suất tăng tự nhiên (‰)

13.28

12,10

10.98

Tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên (%)

54.62

50.03

48.57

Số con trung bình

3.21                                                                                                                                                                              

3,04

2.58

Nguồn: [3], [21](có tính toán lại)

Từ số liệu ở bảng 2.4 cho ta thấy:

- Tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên, từ 54,62% năm 2006 giảm xuống còn 50,03% năm 2008 và 48,57% năm 2010. Bình quân mỗi năm giảm được 3,06%. Thời gian sau 2008 số phụ nữ sinh con thứ 3 trở lên giảm chậm do chính sách dân số và việc chuyển đổi cơ chế quản lý nên có phần chủ quan buông lỏng, đặc biệt là miền núi Thanh Hóa nhận thức cùng với các tập tục còn nặng nề về giới tính của bà con dân tộc thiểu số.

-  Cơ cấu dân số

+ Cơ cấu dân số theo giới tính:

        

Bảng 2.5:  Dân số miền núi Thanh Hóa chia theo giới tính

Năm

Tổng dân số miền núi (người)

Chia theo giới tính

Nam

Nữ

Số người

%

Số người

%

2006

899.964

440.082

48,9

459.882

51,1

2007

903.425

441.774

48,9

461.651

51,1

2008

906.227

438.708

48.4

467.519

51.6

2009

910.082

443.445

48.7

466.637

51.3

2010

913.623

444.528

48.7

469.095

51.3

Nguồn: [3](có tính toán lại)

Nghiên cứu số liệu ở bảng 2.5 chúng ta thấy được cơ cấu giới tính dân số các huyện miền núi Thanh Hóa 2005 - 2010. Miền núi Thanh Hóa có tỷ lệ nữ cao hơn nam từ 2,2 - 3%, điều này cho thấy ở miền núi tỷ suất chết của nam cao hơn nữ và tuổi thọ của nữ lại cao hơn nam. Đây là nét đặc thù riêng có ở các huyện miền núi nói chung và của Thanh Hóa nói riêng.

Mức sinh của miền núi Thanh Hóa khá cao của những năm trước, do đó nguồn lực lao động được bổ sung sẽ ngày càng tăng vào thời kỳ 2010-2015. Đây cũng là một trong những nguyên nhân cơ bản làm cho sức ép về lao động việc làm ngày càng cao ngay tại nông thôn miền núi.

+ Mức độ đô thị hóa: Chỉ số sử dụng để xác định mức độ đô thị hóa là số phần trăm (%) dân số sống ở khu vực thành thị so với tổng số dân số. Các chỉ số này được trình bày qua số liệu ở bảng 2.4 của miền núi Thanh Hóa và toàn tỉnh qua các năm 2006, 2008 và 2010.

Bảng 2.6:  Dân số đô thị của miền núi và toàn tỉnh Thanh Hóa

Năm

Tỉnh Thanh Hóa

Khu vực miền núi

Số lượng (người)

% so dân số toàn tỉnh

Số lượng (người)

% so dân số toàn tỉnh

2006

343.084

10.00

48.823

1,42

2008

350.723

10.29

54.168

1.59

2010

357.188

10.48

61.324

1,80

Nguồn: [3] (có tính toán lại)

Dân số ở các thị trấn miền núi năm 2010 bằng 1,25 lần so với năm 2006 và nếu so toàn tỉnh bằng 5,6 lần; bình quân hàng năm thời kỳ 2006 - 2010 dân số các thị trấn miền núi tăng 2,5 lần. Đây là yêu cầu tất yếu khách quan của quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.

2.2.2.2. Sự hình thành nguồn nhân lực qua các năm

Như đã phân tích thì lực lượng lao động đồng nghĩa với dân số tham gia các hoạt động kinh tế. Việc đánh giá lực lượng lao động dựa trên dữ liệu tống hợp từ kết quả điều tra lao động việc làm hàng năm thời kỳ 2005-2010 do Bộ Lao động thương binh và xã hội chủ trì phối hợp với Tổng cục Thống kê cùng Sở Lao động thương binh và xã hội tỉnh Thanh Hóa cho thấy một số vấn đề cơ bản đặc trưng thực trạng và xu hướng biến động cũng như tình hình sử dụng lao động của các huyện miền núi Thanh Hóa giai đoạn 2005-2010 như sau:

- Quy mô lực lượng lao động gia tăng với tốc độ cao, năm 2010 khu vực miền núi có 440.149 người bằng 1,05 lần so với năm 2003; bình quân hàng năm thời kỳ này tăng 2,71%, với quy mô tăng thêm 4.110 người/năm. Trong đó lực lượng lao động ở các thị trấn cũng có xu hướng gia tăng do phát triển công nghiệp chế biến, hình thành các nhóm nghề thủ công nghiệp, chế biến, sản xuất vật liệu xây dựng, làng nghề truyền thống.

Bảng 2.7:  Lực lượng lao động các huyện miền núi Thanh Hóa

phân theo nhóm tuổi

Nhóm tuổi của lực lượng lao động

Năm 2006

Năm 2010

Số lượng

(người)

Tỷ lệ

(%)

Số lượng

(người)

Tỷ lệ

( %)

Tổng lực lượng lao động

440.149

100,00

463.258

100,00

15 - 24

95.116

21,61

87.659

18,92

25 - 34

112.370

25,53

118.213

25,52

35 - 44

129.271

29,37

151.392

32,68

45 - 54

67.387

15,31

76.280

16,47

54 - 59

17.034

3,87

16.855

3,64

 60

18.971

4,31

12.859

2,78

Nguồn: [3] (có tính toán lại)

Số liệu ở bảng 2.7 cho thấy, năm 2010 tỷ lệ lao động trẻ gồm những người từ đủ 15 tuổi đến 34 tuổi trong tổng lực lượng lao động miền núi đã giảm từ 47,14% xuống còn 44,44%; nhóm tuổi lao động trung niên từ đủ 35 tuổi đến 54 tuổi lại tăng từ 44,68% lên 49,15%. Như vậy, xu hướng già hóa lực lượng lao động các huyện miền núi Thanh Hóa phát triển tốc độ nhanh.

- Về dân số, lao động và chất lượng nguồn lao động đã có bước chuyển biến tích cực. Số liệu ở bảng 2.6 thể hiện rất rõ:

Dân số trong độ tuổi có xu hướng tăng dần ở các thị trấn, năm 2005 có 5,21% thì đến năm 2010 đã tăng lên 7,18% so với lao động khu vực miền núi. Đây cũng là xu thế chuyển dịch cơ cấu lao động,  một bộ phận lao động từ sản xuất nông nghiệp sang làm việc ở các ngành sản xuất khác.

Bảng 2.8:  Dân số, lao động và chất lượng lao động các huyện

miền núi Thanh Hóa giai đoạn 2005-2010

Chỉ tiêu

ĐVT

2005

2007

2010

1- Dân số miền núi

Người

899.964

906.227

911.623

2- Dân số miền núi trong độ tuổi LĐ

Người

440.149

452.721

463.258

   Tỷ lệ % so dân số miền núi

%

48.91

49.96

50.82

   Chia theo:

    - Thành thị

Người

22.931

28.928

33.262

   Tỷ lệ % so với dân số trong độ tuổi

%

5,21

6.39

7.18

    - Nông thôn

Người

417.218

423.793

429.996

   Tỷ lệ % so với dân số trong độ tuổi

%

94.79

93.61

92.82

3- Tỷ lệ lao động qua đào tạo

%

23.61

28.05

31.14

     Trong đó qua đào tạo nghề

%

14,92

19,87

21,26

Chỉ tiêu tuyển mới lao động học nghề

Người

6.120

7.526

9.015

   Trong đó:

   - Trung cấp nghề

Người

650

1000

1.250

   - Sơ cấp nghề

Người

5.470

6.526

7.765

Nguồn: [3], [11] (có tính toán lại)        

Tỷ lệ lao động qua đào tạo tuy có tăng qua hàng năm nhưng vẫn còn thấp hơn mức trung bình của tỉnh. Năm 2005 là 23,61% và đến năm 2010 là 31,14% (bình quân toàn tỉnh là 27% năm 2005 và 40% năm 2010).

- Về sử dụng lao động khu vực miền núi Thanh Hóa: Từ năm 2005 đến nay, cơ cấu lao động làm việc ở các ngành kinh tế khu vực miền núi đã có sự biến đổi theo hướng tiến bộ. Tỷ trọng lao động nông nghiệp giảm dần, tỷ trọng lao động ngành công nghiệp và dịch vụ tăng lên. Tuy nhiên những biến đổi đó còn rất chậm.

Số liệu ở bảng 2.9 sẽ cho thấy điều đó.        

Bảng 2.9:   Lao động làm việc theo khu vực kinh tế

Chỉ tiêu

ĐVT

2005

2007

2010

Tổng số

người

440.149

452.721

463.258

1- Nông, lâm, thủy sản

người

308.016

296.713

298.014

Tỷ trọng

%

69.98

65.54

64.33

2- Công nghiệp, xây dựng cơ bản

người

40.843

53.468

58.143

Tỷ trọng

%

13.26

18.02

19.51

3- Dịch vụ

người

6.874

9.432

11.652

Tỷ trọng

%

16.83

17.64

20.04

Nguồn: [3] (có tính toán lại)

Năm 2010, số người lao động ở cả ba khu vực kinh tế miền núi Thanh Hóa là 463,258 người. Cơ cấu lao động chưa hợp lý, tỷ lệ lao động trong ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản còn lớn. Lao động ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2005 là 308,016 người và giảm còn 298,014 người vào năm 2010. Lao động các ngành công nghiệp, xây dựng cơ bản và dịch vụ có xu hướng tăng lên tích cực, năm sau cao hơn năm trước. Số lao động ngành công nghiệp, xây dựng cơ bản năm 2005 là 40.843 người, chiếm 13,26%  đã tăng lên vào năm 2010 là 58,143 người chiếm 19,51% so với lao động miền núi. Ngành dịch vụ năm 2005 từ 6,874 người chiếm 16,83% lên 11,652 người chiếm 20,04% năm 2010 so với lao động miền núi.

Như vậy, cơ cấu lao động miền núi Thanh Hóa đã có sự chuyển dịch nhưng với tốc độ còn chậm so với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội.

Đồng thời, qua số liệu trên có thể thấy cơ cấu lao động các huyện miền núi Thanh Hóa có sự biến đổi theo chiều hướng tốt: Lao động nông, lâm và thủy sản chiếm tỷ trọng từ 69,98% năm 2005 xuống còn 64,33% năm 2010. Tỷ trọng lao động công nghiệp, xây dựng cơ bản tăng dần từ 13,26% năm 2005 lên 19,51% năm 2010. Tỷ trọng lao động dịch vụ tăng từ 16,83% năm 2005 lên 20,04% năm 2010. Những số liệu này cho thấy lao động ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản và dịch vụ quá ít. Số liệu này cho thấy nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi Thanh Hóa còn nhiều hạn chế. Mặc dù trong nhiều năm qua Đảng bộ tỉnh đã có các chính sách đầu tư cho miền núi, các huyện tích cực chủ động kêu gọi đầu tư thu hút được các doanh nghiệp trong nước và ngoài nước làm cho bộ mặt kinh tế miền núi có sự thay đổi mạnh mẽ, đã giải quyết và tạo ra nhiều chỗ làm việc mới cho lao động, một bộ phận lao động xã hội có việc làm và thu nhập ổn định.

Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là trình độ chuyên môn, tay nghề của lao động các huyện miền núi còn thấp, chủ yếu là lao động phổ thông, thậm chí còn chưa qua đào tạo nên chưa thể đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, nhiệm vụ trước mắt và lâu dài là phải quan tâm hơn nữa sự nghiệp giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, tay nghề cho người lao động để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, xây dựng nông thôn mới khu vực miền núi Thanh Hóa.

2.2.3. Đào tạo nguồn nhân lực các huyện miền núi Thanh Hóa

Nhận thức đúng đắn quan điểm muốn thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu phải phát triển mạnh giáo dục và đào tạo cả về quy mô và nâng cao chất lượng giáo dục, mở rộng mạng lưới trường lớp, các ngành học, người học theo hướng đa dạng hóa và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực sẵn có sẽ là yếu tố cơ bản trong quá trình phát triển bền vững. Để có được nguồn nhân lực chất lượng cao, phải biết bắt đầu chăm lo từ giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, cho đến đào tạo nghề, chuyên nghiệp, đại học và sau đại học. Trong đó giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông có vị trí quan trọng, là tiền đề cơ bản trong sự nghiệp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Đào tạo nghề, trình độ chuyên môn nghiệp vụ thông qua hệ thống các cơ sở dạy nghề, các trường trung học chuyên nghiệp, đại học, sau đại học sẽ trang bị cho nguồn nhân lực kỹ năng thành thạo về tay nghề, về chuyên môn, khả năng tư duy phát minh, sáng kiến trong lao động sản xuất. Như vậy để có một nguồn nhân lực có chất lượng cao đòi hỏi cả hệ thống giáo dục phải được quan tâm đầu tư đồng bộ đồng thời đẩy mạnh và làm tốt công tác xã họi hóa giáo dục.

Trong khuôn khổ của đề tài, tác giả đi sâu nghiên cứu vấn đề đào tạo nghề cho người lao động miền núi Thanh Hóa từ năm 2005-2010, từ đó đề xuất các giải pháp phát triển nguồn nhân lực các huyện miền núi Thanh Hóa phục vụ cho chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nói chung và các huyện miền núi nói riêng.

2.2.3.1.  Về hệ thống các cơ sở đào tạo nghề

Thanh Hóa là một trong những tỉnh sớm hình thành hệ thống trường đào tạo khá hoàn chỉnh từ trường dạy nghề đến đại học. Trải qua các thời kỳ phát triển khác nhau, cùng với các trường đào tạo của Trung ương, hệ thống trường ở Thanh Hóa đã góp phần quan trọng vào việc đào tạo đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ ngày càng đông đảo. Bước phát triển về đào tạo nguồn nhân lực gắn liền với những thành tựu về kinh tế - xã hội mà Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong tỉnh đạt được trong những năm qua. Đối với khu vực miền núi những năm gần đây mới thực sự được  quan tâm đầu tư nhiều hơn về thành lập mới các cơ sở dạy nghề, về đầu tư xây dựng trường lớp, xưởng thực hành, tăng cường đội ngũ giáo viên.

Các trường dạy nghề, các trung tâm dạy nghề, trung tâm giáo dục thường xuyên và dạy nghề được tỉnh quan tâm đầu tư cả về cơ sở vật chất và đội ngũ giáo viên. Do đó đã tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền, các ngành và nhân dân các dân tộc thiểu số về đào tạo nghề góp phần xóa đói giảm nghèo bền vững. Việc chuyển đổi nhận thức ở đây phải nói đến là người lao động đã thực sự quan tâm đến học nghề, họ đã hiểu học nghề sẽ đem lại thu nhập cao hơn sơ với khi chưa học nghề. Bởi lâu nay, người dân miền núi họ chưa hiểu thế nào là học nghề, họ chưa biết trong hệ thống giáo dục quốc dân có một mảng đào tạo nghề.

Theo số liệu ở bảng 2.8, số lượng các cơ sở đào tạo nghề có xu hướng tăng lên, năm 2006 toàn tỉnh có 61 cơ sở dạy nghề và các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp có tham gia dạy nghề lên 76 cơ sở vào năm 2010, tăng 1,24 lần; riêng khu vực miền núi từ 11 cơ sở năm 2006 đã tăng lên 21 cơ sở năm 2010, trung tâm dạy nghề công lập cấp huyện năm 2006 có 7 đến năm 2010 đã có 22 trung tâm được thành lập trên cơ sở tách từ trung tâm giáo dục thường xuyên và dạy nghề.

Bảng 2.10: Hệ thống các cơ sở dạy nghề khu vực miền núi

và toàn tỉnh Thanh Hóa

Loại cơ sở dạy nghề

Toàn tỉnh

Khu vực miền núi

2006

2008

2010

2006

2008

2010

1- Đại học, Cao đẳng và THCN

4

4

4

0

0

0

2- Trường Cao đẳng nghề

0

1

1

0

0

0

3- Trường Trung cấp nghề công lập

8

8

8

1

1

1

4- Trung tâm dạy nghề

7

18

22

2

4

4

5- Trung tâm GDTX-DN

19

7

7

8

6

8

6- Trung tâm DV việc làm-DN

7

7

7

1

2

4

7- Cơ sở dạy nghề tư nhân

16

24

27

0

2

4

Cộng

61

69

76

11

13

21

Nguồn: [11]

Ngoài các cơ sở dạy nghề công lập như Trường trung cấp nghề miền núi Thanh Hóa và các trung tâm dạy nghề cấp huyện đã có 4 cơ sở dạy nghề tư nhân được thành lập góp phần tích cực đào tạo nguồn nhân lực miền núi.  Đây là bước chuyển biến mới trong công tác xã hội hóa đào tạo nghề cho người lao động ở các huyện miền núi của tỉnh.

Tuy nhiên việc đầu tư cho các cơ sở dạy nghề còn có những hạn chế, số lượng các phòng học lý thuyết, xưởng thực hành nhiều cơ sở còn tạm bợ hoặc đã xuống cấp nghiêm trọng, thiết bị nghề quá cũ hoặc chưa đồng bộ. Đặc biệt là các trung tâm dạy nghề, trung tâm giáo dục thường xuyên - dạy nghề thiết bị chỉ mới đáp ứng được cho học nghề thường xuyên.

2.2.3.2.  Về đội ngũ giáo viên dạy nghề

Trong những năm qua, đội ngũ giáo viên dạy nghề, cán bộ quản lý công tác đào tạo nghề của miền núi thường xuyên được bổ sung, bồi dưỡng, từng bước chuẩn hóa về số lượng và chất lượng. Nhìn chung, số lượng giáo viên dạy nghề còn ít so với nhu cầu, chủng loại và chất lượng chưa thực sự đạt chuẩn. Một số đã tốt nghiệp đại học hoặc cao đẳng sư phạm nghề nhưng khả năng thực hành và hướng dẫn thực hành nghề chưa đạt theo yêu cầu. Bên cạnh đó chính sách ưu đãi để thu hút giáo viên có trình độ cao, có tay nghề khá, giỏi về giảng dạy tại các cơ sở dạy nghề ở miền núi chưa có. Sự bất cập trong chính sách ưu đãi giữa hai mảng đào tạo thuộc hệ thống giáo dục quốc dân trên cùng một địa bàn đã tạo nên tâm lý và so sánh trong đội ngũ giáo viên dạy nghề với giáo viên dạy các cấp học phổ thông.

2.2.3.3. Về đầu tư cho xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm thiết bị

Từ nguồn vốn chương trình mục tiêu quốc gia về nâng cao năng lực đào tạo nghề, những năm gần đây Nhà nước đã quan tâm đầu tư cho việc xây dựng mới, mua sắm thiết bị máy móc dạy nghề với mục tiêu là học đi đôi với hành, học lý thuyết phải gắn với xưởng trường để rèn luyện tay nghề.

Qua số liệu ở bảng 2.11 chúng ta thấy đã có sự quan tâm của các cấp chính quyền cho các cơ sở dạy nghề miền núi.

Bảng 2.11:  Đầu tư cho các cơ sở dạy nghề công lập qua các năm

Đơn vị tính: triệu đồng

Cơ sở dạy nghề

2006

2008

2010

XDCB

T.Bị

XDCB

T.Bị

XDCB

T.Bị

Tổng số

9.500

3.600

3.000

2.400

3.000

2.500

1- Trường trung cấp nghề

9.500

2.500

3.000

1.000

3.000

1.000

2- Các Trung tâm dạy nghề

0

600

0

800

1.000

3- Các Trung tâm GDTX-DN

0

500

0

600

500

Nguồn: [11] (có tính toán lại)

        Các Trung tâm dạy nghề, trung tâm GDTX-DN đầu tư ít và không tập trung, chủ yếu xây dựng các phòng học lý thuyết để dạy chương trình bổ túc văn hóa, còn đầu tư cho xưởng trường, thiết bị ít và dàn trải. Bình quân mỗi trung tâm hàng năm được đầu tư từ 50 triệu đến 100 triệu đồng cho mua sắm. Do đó việc học nghề tại các trung tâm chủ yếu là định hướng nghề hoặc những nghề không đòi hỏi nhiều thiết bị để thực hành.

Nhìn chung, trong cơ cấu ngân sách phân bổ hàng năm cho đào tạo nguồn nhân lực tuy có tăng nhưng vẫn còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt tỷ trọng ngân sách cho đào tạo nghề còn quá thấp. Nhất là nguồn vốn ngân sách hỗ trợ cho các trường, các trung tâm dạy nghề để  nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, đưa công nghệ vào thực tiễn sản xuất ở các huyện miền núi của tỉnh.

2.2.3.4.  Về cơ cấu trình độ và quy mô nghề đào tạo

Trình độ đào tạo nghề cho người lao động miền núi mới dừng lại ở mức cao nhất là trung cấp nghề, hiện nay chưa có trường cao đẳng nghề nên số học sinh dân tộc thiểu số nếu có nhu cầu học ở trình độ cao hơn phải về thành phố hoặc các cơ sở ngoài tỉnh, đây là một trở ngại rất lớn đối lao động miền núi. Từ năm 2001, tỉnh Thanh Hóa thành lập Trường trung cấp nghề miền núi đã đánh dấu một bước phát triển mới về đào tạo phát triển nguồn nhân lực các huyện phía Tây Thanh Hóa. Đây là cơ hội để người lao động nói chung và lực lượng lao động trẻ nói riêng có cơ hội tiếp cận với khoa học kỹ thuật và công nghệ mới. Với hệ thống các cơ sở dạy nghề như trên, phần nào đã đáp ứng được nhu cầu học nghề của lao động miền núi và thanh niên dân tộc thiểu số. Ngoài trình độ trung cấp nghề, sơ cấp nghề, hàng năm thông qua các lớp đào tạo ngắn hạn hoặc bồi dưỡng, bổ túc nâng cao tay nghề cho người lao động với nhiều loại hình đa dạng, phong phú đã từng bước chuyển dần tư duy, nhận thức người lao động miền núi về học nghề sẽ là điều kiện và cơ hội kiếm tiền, ổn định đời sống và thực sự xóa đói giảm nghèo bền vững.

Trong 5 năm từ 2006-2010, lao động khu vực miền núi qua đào tạo được tăng lên rõ rệt.

Bảng 2.12:  Kết quả đào tạo nghề cho lao động các huyện
miền núi Thanh Hóa

Đơn vị tính: người

Trình độ đào tạo

2006

2007

2008

2009

2010

Tổng số

4.307

4.481

4.826

5.288

5.712

1- Cao đẳng nghề

251

169

159

153

134

2- Trung cấp nghề

652

698

691

759

379

3- Sơ cấp nghề

1.719

1.735

2.012

2.365

2.601

4- Dạy nghề cho nông dân

1.305

1.690

1.834

1.896

2.488

5- Bồi dưỡng tay nghề

380

189

130

115

110

Nguồn: [11] (có tính toán lại)

Qua số liệu bảng 2.12 cho thấy tính từ năm 2006 số lượng người học nghề khu vực miền núi được tăng lên, năm 2005 tổng số lao động miền núi tăng từ 4,307 người lên 5,712 người năm 2010. Đặc biệt thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về dạy nghề cho nông dân và người nghèo, số lượng lao động được đào tạo nghề, chuyển giao công nghệ tăng nhanh, số lượng nông dân được đào tạo nghề năm 2006 là 1,305 người tăng lên 2,488 người năm 2010 đạt tốc độ tăng bình quân 1,84% năm .

Qua khảo sát tại trường trung cấp nghề miền núi và các trung tâm dạy nghề cấp huyện đã có 52% học sinh sau tốt nghiệp đã tìm được việc làm và có thu nhập ổn định, .16% ra trường chưa làm đúng ngành nghề được đào tạo, 32% chưa tìm được việc làm.

Nguyên nhân của thực trạng này là:

- Do nguồn kinh phí hỗ trợ học nghề ở miền núi hạn hẹp nên vật tư cho thực hành nghề còn ít, thời gian học tại các xưởng thực hành chưa nhiều nên tay nghề sau khi học xong của một số nghề chưa thể thành thạo để bắt tay vào làm ngay.

- Đầu vào trình độ của học sinh học nghề rất thấp, nhiều môn học giáo viên dạy nghề phải bổ túc lại kiến thức phổ thông như toán, lý ... Do đó khả năng tiếp thu nội dung các môn học rất chậm.

- Sự say mê nghề nghiệp, nhận thức nghề còn rất mơ hồ. Học sinh dân tộc thiểu số chưa hiểu được học nghề và rèn tay nghề giỏi sẽ là cẩm nang quan trọng để các em có khả năng hành nghề và kiếm tiền bằng chính nghề mình học, bằng chính đôi tay lành nghề của mình để nuôi sống bản thân, phụ giúp gia đình vào thu nhập hàng tháng, đây còn là cơ sở để thoát nghèo bền vững.

Qua phân tích thực trạng đào tạo nghề cho nguồn nhân lực ở các huyện miền núi Thanh Hóa cho thấy:

- Trong tình trạng chung của cả nước, sự nghiệp đào tạo nghề cho người lao động của Thanh Hóa nói chung và của các huyện miền núi Thanh Hóa trong những năm qua đã có nhiều chuyển biến tích cực. Số lượng người học nghề được tăng lên qua các năm, cơ sở vật chất được đầu tư cả về xây lắp nhà xưởng và trang thiết bị cho thực hành nghề, đội ngũ giáo viên dạy nghề ngày càng được bổ sung cả về số lượng và chất lượng. Đây là một sự cố gắng rất lớn của Tỉnh ủy, UBND tỉnh và Đảng bộ, chính quyền các cấp của các huyện miền núi trong thực hiện chiến lược phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội khu vực Tây Thanh Hóa.

- Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả bước đầu đã đạt được vẫn còn có những bất cập trong thực tiễn cần phải nghiêm túc nhìn nhận là: Hệ thống các cơ sở dạy nghề tại các huyện miền núi của tỉnh còn ít và yếu, quy mô, cơ cấu ngành nghề đào tạo, chất lượng đào tạo, hiệu quả đào tạo chưa đáp ứng kịp những đòi hỏi ngày càng cao nhân lực qua đào tạo phục vụ cho chiến lược phát triển khu vực miền núi của tỉnh.

+ Hiện tại, khu vực miền núi của tỉnh có hơn 80% lao động chưa qua đào tạo, tỷ trọng lao động trong nông nghiệp còn lớn (trên 90%), đáng chú ý là tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn mới đạt 61,5%. Lao động trong ngành công nghiệp, xây dựng mới chiếm 16,48% (so với lao động miền núi), điều này thể hiện mức độ công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn ở miền núi chưa cao, cơ cấu lao động chuyển đổi chậm. Lực lượng lao động và cán bộ có tay nghề, trình độ kỹ thuật, nghiệp vụ cao ở những ngành nghề mũi nhọn, cần thiết cho khai thác, phát triển tiềm năng của địa phương còn quá thiếu.

+ Một số lĩnh vực có nhu cầu lao động có tay nghề, có nhu cầu đào tạo nhưng rất khó tuyển sinh như: nông, lâm nghiệp, thủy sản, tiểu thủ công nghiệp. Một số nghề được đào tạo theo nhu cầu cho các địa phương phải chuyển đổi nghề do quy hoạch nhưng không thể phát huy được do cơ sở vật chất tại các địa phương này đầu tư phát triển nghề mới chưa có. Số lượng học sinh ở nông thôn miền núi, nhất là vùng sâu, vùng xa biên giới tham gia học nghề còn quá ít.

+ Hệ thống trường, lớp, các cơ sở dạy nghề còn nhiều bất cập, chưa nhiều về số lượng nhưng năng lực và hiệu quả đào tạo chưa cao. Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ đào tạo quá nghèo nàn và lạc hậu so với yêu cầu. Mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo chậm được đổi mới và chưa thực sự gắn với phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Chất lượng đào tạo còn nhiều hạn chế, kỹ năng thực hành và ứng dụng của học sinh còn yếu, trình độ ngoại ngữ, tin học thấp.

2.2.4.  Đánh giá tổng quát thực trạng nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội các huyện miền núi Thanh Hóa

- Phát huy vai trò và năng lực các Trung tâm bồi dưỡng chính trị và trung tâm giáo dục thường xuyên và dạy nghề các huyện để đẩy mạnh hình thức đào tạo tại chỗ, thông qua các lớp học bổ túc văn hóa, các chương trình bồi dưỡng quản lý nhà nước, bồi dưỡng lý luận chính trị để đẩy nhanh việc đào tạo cho cán bộ cơ sở miền núi; thực hiện đào tạo tại chỗ, bồi dưỡng năng lực quản lý nhà nước, lý luận chính trị, trình độ chuyên môn kỹ thuật, nâng cao tay nghề cho người lao động, tăng tỷ lệ lao động được qua đào tạo; tuyển chọn, đào tạo bổ sung đội ngũ cán bộ kỹ thuật, công nhân có tay nghề cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội vùng.

2.2.4.1. Những kết quả đạt được trong công tác đào tạo nghề, phát triển nguồn nhân lực

Đào tạo nghề, góp phần phát triển nguồn nhân lực các huyện miền núi Thanh Hóa thời kỳ 2006-2010 đã đạt được những kết quả nhất định:

Một là, Đảng bộ và nhân dân Thanh Hóa nói chung, nhân dân các dân tộc miền núi Thanh Hóa nói riêng đã sớm nhận thức được vấn đề dân số trong phát triển kinh tế - xã hội của vùng, nhất là khi dân số tăng nhanh sẽ tạo áp lực lớn về ổn định đời sống bà con các dân tộc, khó cho việc cải thiện đời sống cũng như phát triển nguồn nhân lực nói riêng và cho phát triển kinh tế - xã hội.

Các chính sách về dân số, kế hoạch hóa gia đình đã được cán bộ đảng viên, nhân dân các dân tộc triển khai và thực hiện khá nghiêm túc. Bằng việc hạ thấp tỷ lệ sinh tự nhiên từ 13,28‰ năm 2006 xuống còn 10,98‰ năm 2010 và việc sinh con thứ 3 đã giảm từ 54,62 % năm 2006 xuống còn 48,57% năm 2010 thể hiện ý chí và quyết tâm của nhân dân miền núi cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Bằng việc giảm tỷ lệ sinh, đã đóng góp mức tăng thu nhập bình quân đầu người, giảm sức ép về gia tăng dân số đối với những yêu cầu bức xúc về chi phí cho các nhu cầu xã hội cơ bản, góp phần ổn định đời sống nhân dân, xóa đói giảm nghèo.

Hai là, chất lượng nguồn nhân lực của các huyện miền núi được nâng lên một bước thông qua hệ thống đào tạo nghề cho người lao động. Mặt bằng dân trí, trình độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật của dân số và nguồn nhân lực cũng như vấn đề việc làm, thu nhập, đời sống của người dân từng bước được cải thiện. Xét theo trình độ chuyên môn kỹ thuật của nguồn nhân lực các huyện miền núi Thanh Hóa đã được nâng lên đáng kể. Tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng lên rõ rệt, năm 2006 là 23,61% trong đó qua đào tạo nghề là 14,92% tăng lên 31,14% lao động qua đào tạo, và qua đào tạo nghề là 21,26% năm 2010. Lao động có nhu cầu đào tạo ở trình độ trung cấp nghề có xu hướng tăng nhưng chậm so với nhu cầu và chiếm tỷ trọng rất nhỏ đối với số lao động qua đào tạo nghề. Điều này thể hiện được trình độ tay nghề, trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động các huyện miền núi còn nhiều bất cập, cần phải có sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng để phát triển nguồn nhân lực đúng đắn.

Ba là, đời sống của nhân dân  nói chung và của lực lượng lao động nói riêng đã được cải thiện cả về vật chất và tinh thần do có sự tăng trưởng kinh kế và sự hỗ trợ của nhà nước thông qua hệ thống chính sách ưu đãi thực hiện các chương trình quốc gia đối với miền núi dân tộc như: chương trình 134, 135, 30A chương trình xóa đói giảm nghèo, chương trình xóa nhà dột nát cho hộ nghèo, chương trình riêng cho người H’Mông…Mạng lưới y tế cơ sở được củng cố để chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Hệ thống thông tin liên lạc, phát thanh và truyền hình đã phủ sóng hầu hết các bản làng, hệ thống đường giao thông, điện lưới quốc gia đã có ở các xã miền núi.

Bốn là, có sự chuyển dịch mạnh cơ cấu cây trồng vật nuôi, phát triển thêm một số ngành nghề để thu hút lao động. Quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý cũng như cơ cấu kinh tế - xã hội đã tháo gỡ những ràng buộc con người theo cơ chế cũ, khơi dậy tính chủ động, sáng tạo của một bộ phận lao động làm cơ sở cho người lao động miền núi lâu nay quen với kiểu trợ cấp, đã thực sự vươn lên làm chủ bản thân, khai thác tiềm năng đất, rừng thành lập các mô hình sản xuất mới theo kiểu trang trại, xây dựng các vùng chuyên canh cây công nghiệp phục vụ cho công nghiệp chế biến nông, lâm sản.

Năm là, khu vực miền núi Thanh Hóa đã hình thành bước đầu hệ thống các cơ sở dạy nghề được đầu tư cả về cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên và với nhiều hình thức đào tạo nghề như tập trung tại các cơ sở dạy nghề, hoặc dạy nghề lưu động tại các xã, làng, bản … đã góp phần đào tạo nguồn nhân lực cho tỉnh, hình thành đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật, có tay nghề, có tri thức để khai thác tiềm năng sẵn có của khu vực miền núi.

2.2.4.2. Một số tồn tại, hạn chế trong công tác đào tạo nghề cho phát triển nguồn nhân lực

Bên cạnh những kết quả đã đạt được trong phát triển nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội, các huyện miền núi Thanh Hóa vẫn còn những mặt tồn tại, hạn chế và những thách thức:

Thứ nhất, do nhận thức và trình độ dân trí còn thấp nên tốc độ phát triển dân số đối với người dân miền núi còn lớn khi mà kinh tế chưa phát triển, giáo dục, y tế và đào tạo cũng như hệ thống cơ sở hạ tầng cơ bản chưa đáp ứng, đang gây sức ép rất lớn cho đào tạo nghề và tìm kiếm việc làm của đại đa số người lao động miền núi. Tình trạng đói nghèo vẫn còn chiếm một tỷ lệ cao trong dân số đã ảnh hưởng đến sự phát triển thể lực, sức khỏe và hạn chế đến phát triển trí tuệ. Đây là những khó khăn, thách thức đòi hỏi công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc sức khỏe ban đầu đối với người dân miền núi cần phải tập trung giải quyết trong những năm tới.

Thứ hai, lực lượng lao động tăng nhanh trong một vài năm gần đây nhưng chủ yếu tập trung ở khu vực nông thôn, các ngành nông, lâm, thủy sản sử dụng trên 80% lực lượng lao động của vùng. Lao động ở các ngành công nghiệp, dịch vụ đang chuyển dần theo hướng tích cực phù hợp dần với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, với chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tuy nhiên sự chuyển dịch này diễn ra còn chậm. Dân số trong độ tuổi lao động tăng nhanh sẽ làm cho những thách thức đối với gia đình và xã hội trong việc nuôi dạy, chăm sóc sức khỏe ngày càng lớn. Tuy nhiên với mức tăng số người trong độ tuổi lao động từ 440,149 người năm 2006 lên 463,258 người năm 2010 sẽ là tiềm năng to lớn đối với việc phát triển kinh tế - xã hội của các huyện miền núi; đồng thời đó cũng là áp lực rất lớn trong việc đào tạo nghề, tìm kiếm việc làm cho người lao động nếu chúng ta không biết tận dụng và khai thác tiềm năng của cơ cấu dân số này. Trình độ chuyên môn kỹ thuật của nguồn nhân lực miền núi Thanh Hóa còn rất thấp, năm 2006 mới có 23,61% lao động đã qua đào tạo, trong đó qua đào tạo nghề là 14,92%, và đến năm 2010 là 31,14% qua đào tạo và 21,26% qua đào tạo nghề. Nhìn chung mặt bằng trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động khu vực miền núi Thanh Hóa còn thấp, không những thiếu người biết tổ chức quản lý, tổ chức sản xuất kinh doanh mà còn rất thiếu lao động có tay nghề, biết vận dụng thành thạo các quy trình sản xuất tiên tiến, ứng dụng những tiến bộ kỹ thuật và tiếp nhận việc chuyển giao công nghệ. Khu vực nông thôn có tỷ trọng lao động lớn nhưng lao động kỹ thuật chiếm tỷ trọng nhỏ và ngày càng bất hợp lý hơn khi có một bộ phận sau khi được đào tạo không ở lại quê hương mà đi tìm kiếm việc làm ở các đô thị. Như vậy nguồn nhân lực dồi dào nhưng chất lượng thấp, thừa lao động phổ thông nhưng lại thiếu lao động kỹ thuật. Tình trạng thiếu việc làm và việc làm không ổn định, nhất là ở khu vực nông thôn vẫn còn nhiều bức xúc. Đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý và các doanh nghiệp có trình độ ... còn nhiều bất cập cả về số lượng và chất lượng so với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội nhất là trong giai đoạn hội nhập nền kinh tế thị trường quốc tế. Đây là một sức ép lớn, đòi hỏi phải có kế hoạch cụ thể để đào tạo, phát triển nguồn nhân lực theo nhiều hướng, nhiều loại hình trong đó có đào tạo nghề cho nguồn nhân lực miền núi Thanh Hóa.

Thứ ba, các huyện miền núi Thanh Hóa có điều kiện tự nhiên và khó khăn như các huyện miền núi của các tỉnh vùng Tây Bắc, dân cư có mức sống nghèo, bình quân lương thực đầu người còn thấp. Đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, sản xuất hàng hóa chưa phát triển mạnh, quy mô kinh tế còn nhỏ bé ... là hạn chế rất lớn đối với việc huy động vốn đầu tư từ nội bộ nền kinh tế để phát triển nhanh trong giai đoạn tới. Mức tăng trưởng và sức cạnh tranh về kinh tế ở các huyện miền núi còn thấp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động chậm, chưa hình thành được các ngành mũi nhọn, các sản phẩm chủ lực một cách rõ nét, ngành nông, lâm nghiệp còn chiếm tỷ trọng lớn, khu vực dịch vụ phát triển chậm, công nghiệp nhỏ lẻ ... làm ảnh hưởng tới việc phát triển kinh tế - xã hội của những năm tiếp theo. Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội tuy đã được cải tạo, nâng cấp đáng kể sau nhiều chương trình quốc gia đối với khu vực miền núi nói chung và các huyện miền núi Thanh Hóa nói riêng, nhưng vẫn còn nhiều bất cập nên chưa đủ sức hấp dẫn thu hút đầu tư bên ngoài, chưa tạo tiền đề cần thiết cho sự phát triển kinh tế - xã hội.

Thứ tư, sự hình thành các nguồn lao động còn chưa phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và chưa đáp ứng kịp với công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Vấn đề sử dụng nguồn nhân lực cũng đang đặt ra nhiều vấn đề tồn tại cần phải được giải quyết. Tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn là phổ biến, thời gian lao động ở miền núi còn thấp dưới 60%, lao động thủ công, phân tán, năng suất lao động thấp, đời sống khó khăn đòi hỏi phải có giải pháp cấp bách về tạo việc làm, chuyển đổi cơ cấu phân công lao động theo hướng chuyển đổi cơ cấu kinh tế, trước hết là cơ cấu ngay từ trong nội bộ ngành nông nghiệp để chuyển dần một bộ phận nguồn nhân lực nông thôn sang làm dịch vụ, thủ công nghiệp và công nghiệp nhỏ ở ngay tại quê hương theo hướng “ly nông, bất ly hương”.

Thứ năm, công tác đào tạo nguồn nhân lực ở Thanh Hóa nói chung và các huyện miền núi nói riêng còn có nhiều bất cập cả về hệ thống trường lớp, quy mô, cơ cấu ngành nghề và chất lượng, hiệu quả đào tạo … chưa đáp ứng được đòi hỏi ngày càng cao cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Bên cạnh đó việc gắn kết giữa đào tạo với quản lý sử dụng nguồn lao động qua đào tạo và giải quyết việc làm còn nhiều hạn chế. Một bộ phận không nhỏ lao động đã được đào tạo nhưng lại gặp không ít khó khăn khi tìm việc làm và có việc làm ổn định ngay trên quê hương. Do đó, cần phải có kế hoạch, quy hoạch cụ thể dựa trên một chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, trong đó phát triển nguồn nhân lực nói chung và đào tạo nghề cho lao động miền núi Thanh Hóa nói riêng phải được tính toán, cân đối chặt chẽ và đi trước một bước. Phải coi phát triển nguồn nhân lực và phát triển kinh tế - xã hôi là hai quá trình có mối quan hệ biện chứng với nhau, tác động qua lại với nhau, vừa là động lực và cũng là kết quả của nhau để cùng phát triển.

Thứ sáu, hiện nay khung chính sách đối với việc dạy và học nghề cho học sinh, thanh niên dân tộc thiểu số đã được quan tâm nhưng chưa đầy đủ. Quyết định số 267/2005/QĐ-TTg ngày 31/10/2005 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách dạy nghề đối với học sinh dân tộc nội trú quy định học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở, trung học phổ thông dân tộc nội trú kể cả nội trú dân nuôi được cử tuyển học nghề nội trú, trong đó ưu tiên con em các dân tộc thiểu số ở khu vực đặc biệt khó khăn. Thời gian đào tạo nghề từ 3 tháng trở lên. Trong thời gian học nghề đối tượng học sinh trên được hưởng học bổng, trợ cấp xã hội và các chính sách khác như học sinh trường phổ thông dân tộc nội trú. Đến nay, đây là chính sách lớn nhất quy định cụ thể về dạy nghề cho học sinh dân tộc thiểu số. Theo ước tính có khoảng 20% học sinh tốt nghiệp các trường phổ thông dân tộc nội trú được vào học các trường dạy nghề nội trú. Tuy nhiên Quyết định trên chỉ dành cho đối tượng là học sinh các trường phổ thông dân tộc nội trú. Thực tế cho thấy trong các trường phổ thông dân tộc nội trú chỉ có khoảng 10% là người dân tộc thiểu số. Như vậy chính sách dạy nghề cho học sinh dân tộc nội trú chỉ đáp ứng được một phần nhỏ so với nhu cầu học nghề của học sinh dân tộc thiểu số và thanh niên miền núi. Thực tế cho thấy, dù chính sách đã được ban hành nhưng cũng chỉ mới đáp ứng được khoảng 15 - 20% nhu cầu học nghề ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Có chính sách cho học sinh các trường nội trú, nhưng chưa có chính sách cho học sinh học ở các trường khác (chiếm khoảng 90% trong tổng số học sinh dân tộc thiểu số). Ngoài ra, chưa có chính sách ưu đãi, khuyến khích, hỗ trợ cụ thể cho thanh niên dân tộc và miền núi.

2.2.4.3.Nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại trong công tác đào tạo nghề phát triển nguồn nhân lực các huyện miền núi Thanh Hóa

Có thể nói, những kết quả đạt được trong công tác đào tạo nghề, phát triển nguồn nhân lực các huyện miền núi Thanh Hóa trong thời gian qua đã góp phần to lớn nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là đội ngũ những người lao động trực tiếp sản xuất ra sản phẩm, tác động mạnh đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, việc đào tạo nguồn nhân lực thông qua đào tạo nghề còn chậm, trình độ tay nghề, kỹ năng, kỹ xảo trong lao động vẫn còn những hạn chế. Cơ cấu lao động trong các ngành sản xuất còn rất thiếu đội ngũ có trình độ tay nghề, những người trực tiếp chuyển giao và nhận chuyển giao công nghệ mới. Thể lực người lao động chưa đáp ứng yêu cầu xã hội và cường độ lao động theo kiểu công nghiệp. Nguyên nhân của những tồn tại đó có nhiều, chúng tôi chỉ đề cập đến một số nguyên nhân chủ yếu sau đây:

- Là vùng có cơ cấu kinh tế là nông - lâm - công nghiệp nhưng trong nội bộ ngành nông nghiệp chưa có sự thay đổi rõ nét giữa trồng trọt, chăn nuôi và chế biến; sản xuất hàng hóa thấp, tỷ lệ nông dân sống với kiểu tự cấp, tự túc cao (70 - 80%). Trong nông thôn còn mang đậm quan hệ “nông dân - cổ truyền”, ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, nghề truyền thống bị suy giảm. Cơ sở hạ tầng còn yếu, lạc hậu về công nghệ kỹ thuật, vốn đầu tư ít (bao gồm cả vốn tích lũy từ nội bộ và vốn kêu gọi từ bên ngoài) đã dẫn đến cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động chuyển dịch chậm, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung và phát triển nguồn nhân lực nói riêng của khu vực miền núi Thanh Hóa trong những năm qua.

- Trình độ kinh tế còn lạc hậu, sức ỳ của cơ chế cũ cùng với sự đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của phát triển kinh tế - xã hội đang tạo thành một hợp lực có sức cản lớn đối với khu vực miền núi Thanh Hóa. Các chương trình phát triển kinh tế - xã hội chưa có sự lồng ghép chặt chẽ nên hiệu quả chưa cao, nhất là các chương trình về văn hóa, giáo dục, đào tạo, dân số có liên quan đến phát triển nguồn nhân lực. Các cơ chế, chính sách về đào tạo nói chung và đào tạo nghề nói riêng cho người lao động miền núi và dân tộc thiểu số tuy đã có sự quan tâm nhưng chưa đủ sức mạnh để thu hút người giỏi, tâm huyết với đào tạo nguồn nhân lực miền núi. Trong đó có cả chính sách đối với người học và người dạy. Một bộ phận đáng kể lao động được đào tạo nhưng chưa có địa chỉ để sử dụng, tức là không tìm được việc làm. Các doanh nghiệp ở miền núi có quy mô nhỏ, nhu cầu chưa cao về sử dụng lao động qua đào tạo có trình độ tay nghề cao, có trình độ chuyên môn kỹ thuật vững. Trong nông thôn miền núi, số lao động qua đào tạo nghề chiếm tỷ trọng lớn nhưng chủ yếu ở trình độ sơ cấp nghề, tập huấn, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật là chủ yếu.

- Công tác quản lý về đào tạo nghề cho phát triển nguồn nhân lực miền núi chưa được quan tâm đúng mức nhất là việc xây dựng chính sách, cơ chế, quy hoạch phát triển mạng lưới đào tạo nghề. Hệ thống các cơ sở dạy nghề còn có nhiều bất cập. Một mặt do chưa được quy hoạch mạng lưới hợp lý và đầu tư phát triển dài hạn. Nguồn lực đầu tư cho đào tạo nghề từ ngân sách Nhà nước đối với đặc thù của vùng miền núi chưa thỏa đáng, tình trạng này dẫn đến các cơ sở dạy nghề chưa có hệ thống lớp học lý thuyết, xưởng thực hành nghề, nhà ở nội trú cho học sinh miền núi một cách đồng bộ. Thiết bị dạy nghề còn thiếu và chưa phù hợp với cơ sở vật chất hiện có; đội ngũ cán bộ quản lý dạy nghề chưa có kinh nghiệm thực tiễn, giáo viên thiếu về số lượng, hạn chế về chất lượng, khả năng thực hành nghề, hướng dẫn nghề cho học sinh còn quá yếu; chương trình và nội dung đào tạo nghề chậm đổi mới để bắt kịp với yêu cầu của thị trường lao động. Mặt khác, các cơ sở đào tạo nghề còn nhiều lúng túng, chưa năng động và chủ động gắn kết giữa đào tạo với giải quyết việc làm, chưa bắt tay được với các doanh nghiệp để tìm “đầu ra” cho học sinh học nghề.

- Công tác giáo dục hướng nghiệp dạy nghề cho học sinh và các bậc phụ huynh còn nhiều hạn chế, công tác phân luồng học sinh sau trung học cơ sở và trung học phổ thông còn gặp nhiều khó khăn. Tâm lý phổ biến của học sinh và cha mẹ học sinh vẫn mong muốn học đại học, cao đẳng, chứ không muốn học nghề hoặc trung học chuyên nghiệp… Luật dạy nghề đã có hiệu lực từ tháng 7/2007, nhưng đến nay một bộ phân lớn dân cư miền núi chưa biết hoặc chưa hiểu gì về học nghề. Họ chưa hiểu rằng học nghề, có tay nghề giỏi sẽ là chìa khóa cho việc nâng cao đời sống, là xóa đói giảm nghèo một cách bền vững và cũng là cơ sở để vươn lên làm giàu từ đôi bàn tay của họ ngay trên quê hương của chính mình.

Tóm lại: Qua phân tích những đặc điểm kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến nguồn nhân lực, trạng thái sức khỏe, trình độ học vấn, trình độ chuyên môn và thực trạng đào tạo, dạy nghề có thể nhận thấy lực lượng lao động ở miền núi Thanh Hóa có những bước phát triển tương đối toàn diện về cả số lượng và chất lượng. Lực lượng lao động lớn (lao động trẻ chiếm tỷ lệ cao), có trình độ văn hóa tương đối cao, tỷ lệ lao động biết chữ, tốt nghiệp các cấp học phổ thông và lớp học cao nhất đã qua bình quân cho một lao động đều cao so với bình quân chung cả nước. Lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật trong khu vực miền núi còn chiếm tỷ trọng thấp so với khu vực thành thị. Đội ngũ lao động có trình độ cao (thạc sỹ, tiến sỹ) gần đây có tăng nhưng công nhân bậc cao, các nhà kinh doanh, các chuyên gia quản lý giỏi trong một số lĩnh vực còn rất ít.

Trong công cuộc đổi mới lực lượng lao động ở các huyện miền núi phía Tây Thanh Hóa tiếp tục phát huy truyền thống vươn lên trong khó khăn, sớm thích nghi với cơ chế kinh tế mới và đã đạt được một số thành tựu phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian qua. Nhưng với thực trạng như hiện nay, để có sự phát triển mới, nhanh hơn, mạnh hơn cần có sự quan tâm đào tạo bồi dưỡng nhiều hơn nữa, cần có quy hoạch cụ thể dựa trên cơ sở chiến lược phát triển kinh tế - xã hội toàn vùng. Trong đó, đào tạo nhân lực (trọng tâm là phát triển đào tạo nghề) phải được tính toán, cân đối chặt chẽ và đi trước một bước.    

        

Chương 3

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC PHỤC VỤ CHO CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI CÁC HUYỆN MIỀN NÚI TỈNH THANH HÓA

        3.1. QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã nhấn mạnh:

…. Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Đặc biệt coi trọng phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, đội ngũ chuyên gia, quản trị doanh nghiệp giỏi, lao động lành nghề và cán bộ khoa học, công nghệ đầu đàn. Đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu đa dạng, đa tầng của công nghệ và trình độ phát triển của các lĩnh vực, ngành nghề. Thực hiện liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp, cơ sở sử dụng lao động, cơ sở đào tạo và Nhà nước để phát triển nguồn nhân lực theo nhu cầu xã hội. Thực hiện các chương trình, đề án đào tạo nhân lực chất lượng cao đối với các ngành, lĩnh vực chủ yếu, mũi nhọn. Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, phát huy nhân tài; đào tạo nhân lực cho phát triển kinh tế tri thức... [26]

Thanh Hóa là một tỉnh nghèo của khu vực Bắc Trung bộ, các huyện miền núi của tỉnh có điều kiện tự nhiên, phong tục tập quán của các tỉnh thuộc vùng Tây Bắc, đất rộng, tiềm năng rừng và đất rừng ngày càng bị cạn kiệt do khai thác không có quy hoạch và kế hoạch, do đó nguồn nhân lực càng có tầm quan trọng đặc biệt trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của vùng. Nghị quyết Đại hội Đại biểu tỉnh Đảng bộ Thanh Hóa lần thứ XV khẳng định:

... Phát triển quy mô giáo dục - đào tạo phù hợp với nhu cầu phát triển nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Quy hoạch, sắp xếp và nâng cấp các trường chuyên nghiệp, hệ thống trường dạy nghề, đa dạng hóa các loại hình đào tạo nghề, tăng cường công tác phổ cập, bồi dưỡng tập huấn nghề nhằm không ngừng nâng cao tỷ lệ lao động được đào tạo. Nâng cấp trường dạy nghề cấp tỉnh đủ khả năng đáp ứng yêu cầu đào tạo nghề, gắn kế hoạch xuất khẩu lao động, giải quyết việc làm với chương trình và kế hoạch dạy nghề ... [4, tr.36].

Như vậy, vấn đề đặt ra đối với các huyện miền núi Thanh Hóa là phải phát triển mạnh nguồn nhân lực để đảm bảo yêu cầu thực hiện các mục tiêu chiến lược về phát triển kinh tế - xã hội của vùng trong những năm tới.

Các huyện miền núi Thanh Hóa có vị trí địa chính trị, địa kinh tế rất quan trọng với nhiều tiềm năng. Trong những năm qua bằng nhiều chương trình đầu tư cho miền núi nhiều cơ sở hạ tầng đã và đang được đầu tư xây dựng, nhiều công trình đã phát huy tạo nên sự ổn định cho đời sống bà con các dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, những yêu cầu cần giải quyết của một vùng đất đai rộng lớn, điểm xuất phát về kinh tế còn thấp, tích lũy hầu như chưa có gì, trong khi kinh nghiệm quản lý, điều hành tổ chức sản xuất, trình độ tay nghề của nguồn lao động chưa cao, bên cạnh đó mặt trái của nền kinh tế thị trường đang tạo nên những bức xúc như sự phân hóa giàu - nghèo, tệ quan liêu, tham nhũng và các vấn đề xã hội khác … đòi hỏi các huyện miền núi Thanh Hóa phải nỗ lực về mọi mặt để vượt qua và trước hết phải phát triển nguồn nhân lực một cách đồng bộ cả về số lượng và chất lượng, trong đó đào tạo nghề là một trong những nhiệm vụ quan trọng để tạo ra một lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật, có tay nghề cao, làm chủ được khoa học kỹ thuật mới đảm bảo thực hiện được nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của vùng. Để đáp ứng yêu cầu đó cần phải quán triệt những quan điểm cơ bản sau về đào tạo nghề, góp phần phát triển nguồn nhân lực miền núi.

3.1.1. Đào tạo nghề là một trong những nội dung quan trọng trong phát triển nguồn nhân lực để phát triển kinh tế - xã hội

Nguồn nhân lực được xem là yếu tố cơ bản, có vai trò quyết định nhất cho sự phát triển, bền vững các mục tiêu kinh tế - xã hội nói chung và của các huyện miền núi Thanh Hóa nói riêng. Chúng ta đặt con người vào vị trí trung tâm để vừa khơi dậy tiềm năng của mọi cá nhân và của cộng đồng, vừa hướng tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện nâng cao đời sống nhân dân, nhất là nhân dân các dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa, gắn phát triển với từng bước thực hiện công bằng xã hội.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện công tác quản lý, tổ chức các hoạt động sản xuất kinh doanh từ sử dụng lao động thủ công sang lao động có trình độ tay nghề cao, có chuyên môn giỏi để tạo ra năng suất lao động cao. Do đó, đào tạo nghề cho người lao động ở miền núi Thanh Hóa là một trong những yếu tố cơ bản cho sự phát triển kinh tế - xã hội của vùng trong những năm trước mắt và cho chiến lược phát triển lâu dài.

Do đó, phải coi trọng đào tạo và coi đó là động lực trọng tâm của sự nghiệp phát triển nguồn nhân lực. Trước hết, với vùng núi dân tộc, một mặt ngoài việc đào tạo một bộ phận nguồn lao động thực sự có năng lực, có trí tuệ ở các bậc đại học, cao đẳng để tạo nguồn cho việc xây dựng đội ngũ cán bộ biết tổ chức, quản lý, điều hành sản xuất cần phải tập trung đào tạo nghề cho số đông người lao động, đây là lực lượng lao động đông đảo sản xuất ra của cải vật chất. Phải coi đào tạo nghề là nhiệm vụ quan trọng để các huyện miền núi có một lực lượng lao động sẵn sàng tiếp thu khoa học kỹ thuật, tiếp nhận chuyển giao công nghệ mới và ứng dụng vào thực tiễn sản xuất.

Chú trọng phát triển nhân cách con người, rèn luyện và phát triển thể lực, chăm sóc sức khỏe, mở rộng hệ thống y tế tới các làng bản, để vừa bảo vệ sức khỏe, vừa giáo dục truyền thống yêu nước, tính siêng năng cần cù của người Việt Nam nói chung và của bà con các dân tộc thiểu số nói riêng trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước.

3.1.2. Đào tạo nghề phải gắn liền với tạo việc làm, sử dụng có hiệu quả nguồn lao động và chuyển dịch lại cơ cấu nguồn lao động

Quá trình tạo việc làm và điều chỉnh cơ cấu trạng thái việc làm phải đảm bảo thỏa mãn được cả hai mục tiêu kinh tế và giải quyết được các vấn đề xã hội, giải quyết những vấn đề trước mắt và chuẩn bị các điều kiện cho các bước phát triển về sau. Việc tăng số lượng người được đào tạo trong độ tuổi lao động sẽ là một giải pháp vừa giảm áp lực việc làm trong những năm trước mắt, vừa có tác dụng nâng cao chất lượng nguồn lao động, đáp ứng yêu cầu về chất lượng nguồn nhân lực trong những năm tiếp theo.

Đào tạo và tự đào tạo nghề để có nhiều cơ hội tìm kiếm việc làm là trách nhiệm của mọi người dân, người lao động phải chủ động tự tạo và tìm kiếm việc làm trong khuôn khổ luật pháp quy định. Nhà nước, các doanh nghiệp có trách nhiệm đào tạo nghề, bồi dưỡng nâng cao tay nghề cho người lao động, đồng thời tạo ra những chỗ làm việc mới, và phải tích cực hỗ trợ hoặc trực tiếp giải quyết việc làm cho những đối tượng có hoàn cảnh khó khăn, những đối tượng mà xã hội phải đặc biệt quan tâm để đảm bảo cho mọi người đều được hưởng sự công bằng, lợi ích của sự phát triển.

Phải chủ động và tích cực nâng cao tính năng động, khả năng thích nghi của nguồn nhân lực với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đào tạo nghề để từng bước chuyển dần một bộ phận lao động nông nghiệp sang các ngành, nghề công nghiệp và dịch vụ, mở rộng các ngành sản xuất tiểu thủ công nghiệp truyền thống, sản xuất vật liệu xây dựng, sửa chữa cơ khí nhỏ, dịch vụ một số khâu canh tác, dịch vụ sản phẩm đầu vào và đầu ra cho sản xuất kinh doanh của các hộ gia đình cho lao động ở nông thôn, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa khi mà hệ thống dịch vụ sản xuất của các doanh nghiệp lớn chưa vươn tới được. Tiếp tục đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn, khuyến khích phát triển kinh tế hộ gia đình, hợp tác xã, làng nghề; quy hoạch phát triển một số cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp có quy mô thích hợp để thu hút các doanh nghiệp đầu tư theo hướng khai thác thế mạnh tại chỗ, từng bước hình thành các vùng nguyên liệu tập trung để giải quyết việc làm cho nhiều lao động và tập dần cho lao động miền núi có tác phong công nghiệp.

Trong quá trình chuyển dịch theo hướng từ lao động thủ công không qua đào tạo sang lao động đã được đào tạo có tay nghề, có trình độ kỹ thuật … cần kết hợp nhiều loại trình độ, nhiều loại quy mô, trong đó ưu tiên những công nghệ tiên tiến phù hợp nhất là các nghề về chế biến nông, lâm sản sẽ tạo ra một vùng nguyên liệu rộng lớn nhằm thu hút được một lực lượng lao động đáng kể ở nông thôn. Khuyến khích các doanh nghiệp, các nhà đầu tư và nhân dân từng bước xã hội hóa công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn miền núi. Việc phân công lại lao động khu vực nông thôn miền núi cần hướng vào việc phân công lại lao động tại chỗ là chủ yếu. Ngoài một số loại cây trồng, vật nuôi truyền thống theo yêu cầu của cuộc sống và thị trường, đòi hỏi phải có những sản phẩm mới có giá trị cao không chỉ cho tiêu dùng trong nước mà còn cho nhu cầu xuất khẩu. Do đó, một mặt cần sử dụng và phát huy những kinh nghiệm truyền thống về trồng trọt, chăn nuôi …mặt khác, cần phải nâng cao trình độ cho người lao động thông qua đào tạo các bậc học và đào tạo nghề, chuyển giao công nghệ cho người nông dân miền núi. Đảm bảo cho họ có đủ khả năng và trình độ để từng bước chuyển dịch được cơ cấu, phát triển sản xuất hàng hóa và chú trọng khuyến khích thành lập các doanh nghiệp nhỏ ở nông thôn.

Kết hợp chuyển dịch phân công lại lao động tại chỗ với việc di dân hợp lý và có hiệu quả giữa các huyện trong khu vực miền núi bằng nhiều hình thức và quy mô thích hợp. Thực hiện tốt quan điểm này không chỉ giải quyết được những bất cập trước mắt về đất đai, việc làm cho một bộ phận lao động nông thôn, mà còn tạo ra sự đổi mới về cơ cấu lao động trong ngay bản thân đội ngũ lao động này, mà trước đây họ chỉ biết dựa vào nông, lâm nghiệp hoặc khai thác các tiềm năng sẵn có của rừng, tài nguyên rừng.

3.1.3. Phát huy tối đa nguồn nội lực và tranh thủ các nguồn ngoại lực để đạt mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực đến năm 2020

Miền núi Thanh Hóa cũng như các vùng miền khác trong cả nước đang thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, do đó muốn thực hiện thành công sự nghiệp đó phải phát huy tối đa các lợi thế và nguồn lực bên trong, kết hợp với thu hút mạnh mẽ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài gồm cả các nguồn vốn hỗ trợ của Trung ương, vốn của tỉnh, vốn thu hút từ các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Trên cơ sở đa dạng hóa các nguồn vốn hình thành quỹ đào tạo nguồn nhân lực từ nguồn vốn hỗ trợ của nhà nước, các doanh nghiệp có sử dụng nhân lực và các cá nhân người lao động. Xây dựng và phát triển mạng lưới đào tạo nghề để phát triển nguồn nhân lực, phải dựa trên những tính toán về khả năng khai thác có hiệu quả các nguồn lực nội sinh và thu hút nguồn lực bên ngoài để đầu tư cho phát triển. Chủ động xây dựng nâng cao chất lượng đội ngũ kỹ thuật viên bậc cao và thợ lành nghề, tranh thủ các điều kiện thuận lợi để bổ sung, nâng cấp cơ sở vật chất, thiết bị nghề, nhà xưởng, vườn thực nghiệm để đáp ứng tốt nhất yêu cầu của nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực. Cần có cơ chế để khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư vào công tác đào tạo trong đó có đào tạo nghề cho người lao động.

Mở rộng hệ thống các cơ sở dạy nghề, đa dạng hóa các hình thức đào tạo nghề cho người lao động. Tranh thủ tối đa sự viện trợ của các nước về đào tạo nghề, kết hợp đào tạo mới với đào tạo lại, đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và công nhân kỹ thuật để từng bước nắm bắt và làm chủ công nghệ. Cần có chính sách hỗ trợ cho người học nghề dưới nhiều hình thức để tạo ra sự bình đẳng về cơ hội học nghề cho người học nghề, nhất là đối với người lao động dân tộc thiểu số, người dân tộc kinh nhưng đã gắn bó lâu đời với dân tộc và miền núi.

3.1.4. Đào tạo nghề để phát triển nguồn nhân lực phải gắn với thị trường sức lao động

Trong xu thế giao lưu và hội nhập quốc tế diễn ra trên mọi mặt của đời sống xã hội, trong đó có đào tạo phát triển nguồn nhân lực. Do đó chúng ta phải mở rộng quan hệ để học tập kinh nghiệm quốc tế về lĩnh vực đào tạo nghề cho người lao động phục vụ sản xuất, từng bước tạo cơ hội cho họ làm chủ thiết bị, làm chủ công nghệ; đổi mới chương trình, nội dung đào tạo theo hướng áp dụng có chọn lọc kinh nghiệm của các nước tiên tiến, nhằm tạo ra một nguồn nhân lực thích ứng với thị trường sức lao động quốc tế.

Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI đã khẳng định: .... Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp, hình thành đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô vừa chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững. Thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế, trọng tâm là cơ cấu lại các ngành sản xuất, dịch vụ phù hợp với các vùng; thúc đẩy cơ cấu lại doanh nghiệp và điều chỉnh chiến lược thị trường; tăng nhanh giá trị nội địa, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và của cả nền kinh tế; phát triển kinh tế tri thức. Gắn phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế xanh... [26]

Như vậy, sự phát triển của thị trường sức lao động không thể vượt qua nhưng cũng không thể lạc hậu hơn so với các thị trường khác. Với tư cách là một thị trường yếu tố sản xuất (thị trường đầu vào), việc phát triển thị trường sức lao động không những phải đảm bảo tính đồng bộ với phát triển các thị trường hàng tiêu dùng và dịch vụ (thị trường đầu ra), mà còn phải gắn bó chặt chẽ với phát triển các thị trường yếu tố sản xuất khác. Tức là phải chú trọng tính đồng bộ, cân đối ngay trong sự phát triển của nội bộ thị trường các yếu tố sản xuất của xã hội. Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, việc phát triển thị trường sức lao động cũng không thể tách rời xu thế đó. Do đó, việc giải quyết mối quan hệ cung - cầu lao động không chỉ nhằm thúc đẩy trực tiếp quá trình chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế quốc dân mà còn phải tính đến việc xuất khẩu lao động ra nước ngoài. Phải coi xuất khẩu lao động là một hướng quan trọng đối với việc phát triển thị trường sức lao động. Đây là hướng rất quan trọng để gắn đào tạo nghề với giải quyết việc làm. Xuất khẩu lao động góp phần giải quyết thu nhập cho người lao động và tạo vốn tích lũy cho nền kinh tế. Đồng thời thông qua hoạt động xuất khẩu lao động sẽ nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chuẩn bị lượng cung lao động cho đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Tranh thủ các dự án quốc tế về đào tạo, mở nhiều hình thức liên kết  với nước ngoài đào tạo nghề, tích cực đưa người lao động đi thực tập nghề tại các cơ sở sản xuất của nước ngoài và có chính sách khuyến khích để sử dụng người học từ nước ngoài trở về phục vụ Tổ quốc. Chú trọng phát triển thị trường sức lao động chất lượng cao. Coi trọng đội ngũ giáo viên dạy nghề, nâng cao chất lượng đội ngũ này đảm bảo có tỷ lệ thỏa đáng trình độ thạc sỹ, tiến sỹ chuyên ngành, thợ lành nghề giỏi để truyền nghề. Các cơ sở dạy nghề phải chủ động tìm kiếm thông tin thị trường sức lao động để nắm chắc nhu cầu thị trường, đào tạo nghề mà thị trường cần. Gắn chặt quan hệ nhà nước - nhà trường - nhà doanh nghiệp trong công tác phát triển nguồn nhân lực. Việc gắn đào tạo với sử dụng, nhà trường với doanh nghiệp theo hướng tích cực và mở rộng thị trường sức lao động trong và ngoài nước để giúp người dân tự tin hơn khi lựa chọn giải pháp học nghề. Đảm bảo để họ tin tưởng rằng, sau khi được đào tạo, họ hoàn toàn có nhiều cơ hội lựa chọn việc làm phù hợp, thu nhập ổn định và có thể tiếp tục học lên ở trình độ cao hơn.

Nâng cao tính hiệu quả của hệ thống các tổ chức môi giới và dịch vụ việc làm sẽ góp phần phát triển thị trường sức lao động, nhất là trong điều kiện hiện nay, thị trường sức lao động nước ta đang phát triển ở mức độ sơ khai. Tạo lập hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu liên thông về mạng lưới cung ứng việc làm cũng như môi giới lao động, đặc biệt là công khai hóa các thông tin đối với việc cung ứng lao động ra nước ngoài nhằm tránh những tổn thất không đáng có cho người lao động

3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CÁC HUYỆN MIỀN NÚI THANH HÓA THÔNG QUA ĐÀO TẠO NGHỀ

Các chính sách sử dụng lao động và đầu tư cho đào tạo phát triển nguồn nhân lực cũng như đầu tư cho đào tạo nghề cần phải được sự hậu thuẫn về nhiều mặt để làm thay đổi về nhận thức và quan điểm của xã hội, của các bậc phụ huynh và bản thân người lao động. Một xã hội học tập phải được bắt nguồn từ một xã hội lao động. Mọi chính sách bao giờ cũng phải khuyến khích để tạo nên một xã hội hăng say lao động, tiến tới một xã hội học tập. Trong đó mọi người dân đều chăm chỉ làm việc và từ đó nảy sinh nhu cầu học tập để đáp ứng nhu cầu làm việc và đi đến một xã hội mà mọi người dân đều mong muốn học tập để nâng cao trình độ suốt đời, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội.

Để phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội nói chung và của các huyện miền núi Thanh Hóa nói riêng cần phải tiến hành đồng thời nhiều giải pháp, trong khuôn khổ của phạm vi nghiên cứu, tác giả chỉ đề xuất một số các giải pháp cơ bản sau:

3.2.1. Phát triển dân số có kế hoạch, nâng cao đời sống vật chất và chăm sóc sức khỏe cho nhân dân

- Thực hiện tốt chiến lược dân số - kế hoạch hóa gia đình, khu vực miền núi Thanh Hóa cần giải quyết một số vấn đề bức xúc và cơ bản: Coi việc giảm sinh đối với bà con các dân tộc thiểu số, người dân cư trú ở vùng sâu, vùng xa, vùng giáp biên giới là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong chương trình dân số, tiếp tục duy trì mức giảm sinh, đặc biệt là số người sinh con thứ ba trở lên để tiến tới ổn định quy mô gia đình, quy mô dân số hợp lý; giải quyết từng bước về chất lượng dân số, nâng cao thể lực, trí lực của con người.

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền Dân số - Kế hoạch hóa gia đình. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho việc thực hiện các biện pháp kế hoạch hóa gia đình, bảo vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ em. Phấn đấu giảm tỷ lệ sinh hàng năm 0,5 ‰ để giảm tỷ lệ tăng dân số tự nhiên xuống dưới 1% và giữ ổn định đến năm 2020, đồng thời nâng cao chất lượng dân số và xây dựng cơ cấu dân số hợp lý.

Duy trì xu thế giảm sinh một cách vững chắc phấn đấu đạt mức sinh thay thế bình quân của các huyện miền núi vào năm 2015. Để có quy mô dân số hợp lý đến năm 2013, phù hợp với sự phát triển ở các huyện miền núi Thanh Hóa cần thực hiện tốt các chỉ tiêu ở bảng số liệu sau:

Bảng 3.1:  Dân số và tỷ lệ phát triển dân số đến 2013

Chỉ tiêu

ĐVT

2010-2011

2011-2012

Giảm tỷ suất sinh bình quân hàng năm

0,5

0,5

Giảm tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên

%

1,3

1,1

Số con trung bình

(con)

3,0

2,5

        Nguồn: [21]

- Thực hiện công bằng trong chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho nhân dân, đảm bảo mọi người dân đều được khám, chữa bệnh ban đầu và cung cấp các dịch vụ y tế cơ bản. Quan tâm chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho những người có công với đất nước, những người nghèo, đồng bào các dân tộc thiểu số, bảo vệ và chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em.

Tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, trang thiết bị và đội ngũ cán bộ y tế cho các huyện. Từng bước hiện đại hóa bệnh viện đa khoa khu vực miền núi Thanh Hóa, tăng số giường bệnh ở bệnh viện đa khoa và các bệnh viện tuyến huyện để tránh tình trạng vượt tuyến. Củng cố và phát triển mạng lưới y tế cơ sở. Tăng cường cả về cơ sở vật chất, trang thiết bị khám chữa bệnh và đội ngũ cán bộ y tế đủ về số lượng và chất lượng cho các trạm y tế xã, đặc biệt là các xã vùng cao, biên giới. Phấn đấu đến năm 2015, tỷ lệ xã đạt chuẩn quốc gia về y tế đạt 90%. Làm tốt công tác vệ sinh phòng dịch, chương trình chống bướu cổ, phòng chống bệnh lao, bệnh sốt rét, thực hiện tiêm chủng mở rộng đủ 6 loại vác xin cho hơn 90% trẻ em trong độ tuổi tiêm chủng.

Do có sự khác nhau về nhận thức giữa bà con các dân tộc thiểu số cùng sinh sống ở miền núi, phải chủ động thúc đẩy quá trình di dân hợp lý phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội nhằm tạo ra cơ cấu nguồn nhân lực hợp lý theo hướng giảm dần tỷ trọng lao động khu vực nông thôn, tăng dần nguồn nhân lực ở các thị trấn, thị tứ, các cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp.

- Các Đảng bộ và chính quyền các cấp phải coi chỉ tiêu về dân số là một trong những chỉ tiêu quan trọng của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương mình. Củng cố hệ thống tổ chức làm công tác quản lý dân số và nguồn nhân lực, thực hiện nghiêm chế độ báo cáo thống kê. Tuyên truyền, giáo dục để thực hiện có hiệu quả và bền vững về dân số - sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia đình trên cơ sở cung cấp đầy đủ thông tin để tư vấn đối với các cặp vợ chồng trẻ. Chú ý tới vùng có nhiều khó khăn, vùng biên giới và vùng đồng bào dân tộc H’Mông … Mở rộng các hình thức giáo dục và nâng cao chất lượng giáo dục dân số ngay từ trong nhà trường. Cần thực hiện tốt hơn, tích cực hơn việc bảo vệ chăm sóc sức khỏe cho nhân dân nông thôn, nhất là bà con ở vùng sâu, vùng xa. Cải thiện môi trường sống, từng bước tăng tỷ lệ dân cư được dùng nước sạch sinh hoạt.

Chú ý việc quản lý nhà nước về dân cư để từng bước quản lý có hiệu quả các biến động về dân số, nguồn lao động, kể cả di dân tự do thông qua một đầu mối đăng ký nhân khẩu tạm vắng, tạm trú.

Tăng cường vai trò của gia đình, thực hiện bình đẳng giới trong việc nâng cao chất lượng dân số về thể chất, trí tuệ. Xây dựng và gắn trách nhiệm của nam giới trong việc sinh đẻ và chăm sóc nuôi dạy con cái, tạo ra sự bình đẳng trong chăm sóc y tế, tạo điều kiện cho chị em phụ nữ và các cháu gái được học hành, đào tạo nghề và phân công sử dụng lao động. Củng cố thiết chế gia đình truyền thống bền vững, giáo dục truyền thống yêu nước, yêu lao động cho các thế hệ.

Huy động sức mạnh toàn dân, sự đóng góp tài chính từ nhiều nguồn đảm bảo đủ kinh phí cho công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình. Trong đó nguồn ngân sách nhà nước phải đảm bảo tối thiểu 80%, các nguồn khác thông qua tuyên truyền, vận động từ các cơ quan, doanh nghiệp, cá nhân và cộng đồng cho công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình.

3.2.2. Quy hoạch mạng lưới các trường nghề, trung tâm dạy nghề

Tiến hành sắp xếp quy hoạch lại mạng lưới các cơ sở đào tạo nghề theo hướng đa dạng hóa ngành nghề và loại hình đào tạo nghề. Tập trung đầu tư xây dựng Trường Trung cấp nghề miền núi trở thành trường dạy nghề trọng điểm của khu vực, đảm bảo đến năm 2015 trở thành trường Cao đẳng nghề thực hiện đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao, tập trung vào các nghề mũi nhọn; đồng thời coi đó là hạt nhân đối với các trường dạy nghề, các trung tâm dạy nghề khác tại các huyện miền núi trên tất cả các phương diện như: hỗ trợ giáo viên dạy nghề; thực hiện đào tạo, bồi dưỡng chuẩn hóa, bồi dưỡng thường xuyên theo chu kỳ cho giáo viên và cán bộ quản lý dạy nghề; là cơ sở thực hành các nghề mà các trường và trung tâm dạy nghề khác chưa có điều kiện đầu tư trang thiết bị.

Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức kinh tế xã hội, các doanh nghiệp và cá nhân ở mọi thành phần kinh tế đầu tư thành lập và xây dựng hai trường trung cấp nghề tại Đồng Tâm huyện Bá Thước và Bãi Trành huyện Như xuân; thành lập mới các trung tâm dạy nghề ở 11 huyện miền núi của tỉnh trên cơ sở tách từ trung tâm giáo dục thường xuyên và dạy nghề để thực hiện việc đào tạo nghề tại chỗ, những nghề gắn liền với phong tục tập quán sản xuất truyền thống của người dân miền núi. Đồng thời từng bước đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm thiết bị để tổ chức đào tạo nghề ở trình độ sơ cấp, trung cấp cho lao động có nhu cầu làm việc tại các doanh nghiệp yêu cầu trình độ tay nghề cao hơn, có tác phong lao động công nghiệp đáp ứng nhu cấu lao động kỹ thuật tại chỗ và tăng nha quy mô, chất lượng lao động ngành nông, lâm, thủy sản.

Các trung tâm dạy nghề ở các huyện hình thành nên một mạng lưới dạy nghề mà hạt nhân là Trường Cao đẳng nghề miền núi để thực hiện việc liên kết đào tạo những nghề mà các trường, các trung tâm chưa có điều kiện thực hiện như: đội ngũ giáo viên, trang thiết bị thực hành nghề. Đồng thời thông qua mô hình liên kết đào tạo này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho người học nghề khi họ chưa thể đi học xa, hoặc với đối tượng học nghề là nông dân, hoặc các hộ nghèo v.v…

Coi trọng công tác dạy nghề cho lao động nông thôn, nhất là đối với đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa, các xã giáp biên giới. Chuyển giao kỹ thuật các nghề truyền thống để nâng cao năng suất cây trồng, vật nuôi, đặc biệt là nghề giải quyết việc làm cho nhiều lao động. Củng cố và mở rộng hệ thống khuyến nông, khuyến ngư đến các xã để tư vấn việc làm cho người lao động nông thôn. Tỷ lệ lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội năm 2015 còn 40%; phấn đấu tỷ lệ lao động được đào tạo đạt 55% trở lên năm 2015 và khoảng 65% vào năm 2020.

3.2.3. Xây dựng và hoàn thiện chính sách, chế độ đối với người học và người dạy nghề

Tập trung đào tạo nguồn nhân lực và nâng cao trình độ cho người lao động đáp ứng kịp thời yêu cầu chuyển đổi cơ cấu kinh tế và phân bố lại lao động ở các huyện miền núi Thanh Hóa trong điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn, cơ sở hạ tầng còn yếu kém, tỷ lệ hộ nghèo trong nhân dân còn cao, đòi hỏi cần phải có chính sách riêng, mang tính đặc thù mới giúp cho người lao động miền núi được học nghề và làm cơ sở cho xóa đói, giảm nghèo một cách bền vững. Các chính sách ở đây phải thể hiện được sự quan tâm và đáp ứng được yêu cầu của cả người học và người dạy.

3.2.3.1. Chính sách đối với người học nghề

Miền núi Thanh Hóa rộng, hệ thống giao thông nông thôn còn nhiều bất cập do địa hình bị chia cắt, hiểm trở nên việc đi lại giao lưu, học tập của người dân miền núi bị hạn chế rất nhiều. Trong điều kiện vừa eo hẹp về kinh tế, vừa đi lại khó khăn cần phải có chính sách ưu đãi tùy theo đối tượng học nghề. Về nguyên tắc không nên phân biệt ưu đãi đối với người dân tộc đa số với người dân tộc thiểu số trong học nghề khi họ cùng chung sống trên một mảnh đất. Bởi sau năm 1954, Đảng và Nhà nước ta vận động bà con vùng đồng bằng, trung du thực hiện chính sách định canh, định cư ở miền núi, sau hơn nửa thế kỷ cùng chung sống đã có sự hòa trộn huyết thống giữa dân tộc thiểu số và dân tộc kinh, có sự đan xen trong gia tộc, nếu phân biệt rạch ròi rất khó cho công tác vận động người dân tộc, miền núi học nghề.

- Thực hiện chính sách dạy nghề nội trú cho học sinh dân tộc, miền núi: Quyết định số 267/2005/QĐ-TTg ngày 31/10/2005 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách dạy nghề đối với học sinh dân tộc nội trú quy định chính sách ưu tiên học nghề đối với học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở, trung học phổ thông các trường dân tộc nội trú kể cả nội trú dân nuôi được hưởng học bổng, trợ cấp xã hội và các chính sách khác như học sinh trường phổ thông dân tộc nội trú. Đến nay, đây là chính sách lớn nhất quy định cụ thể về dạy nghề cho học sinh dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, Quyết định số 267/2005/QĐ-TTg ngày 31/10/2005 của Thủ tướng Chính phủ mới chỉ đáp ứng được một phần nhỏ so với nhu cầu học nghề của học sinh dân tộc thiểu số và thanh niên miền núi. Có chính sách cho học sinh các trường nội trú, nhưng chưa có chính sách cho học sinh học ở các trường khác (chiếm khoảng 90% trong tổng số học sinh dân tộc thiểu số). Do đó cần có một chính sách mới, và chính sách này áp dụng cho tất cả các đối tượng là người dân tộc thiểu số, người dân tộc khác nhưng có hộ khẩu thường trú lâu dài ở các huyện miền núi đăng ký học nghề ở cả ba cấp độ đào tạo: cao đẳng nghề, trung cấp nghề và sơ cấp nghề. Việc đào tạo này phải thực hiện tập trung tại các cơ sở đào tạo nghề để đảm bảo các điều kiện tốt nhất cho người học như nơi ăn, nơi ở, xưởng thực hành nghề. Do đó, với người lao động miền núi nói chung và thanh niên dân tộc thiểu số nói riêng, hàng năm Nhà nước cần có một khoản kinh phí để thực hiện việc đào tạo nghề cho họ, nghĩa là trong những năm trước mắt phải bao cấp toàn bộ chi phí cho người học nghề gồm tiền ăn, ở, các khoản chi phí khác cho học nghề. Ngoài các khoản chi phí chung giống nhau như: tiền ăn, tiền ở, tiền đi lại theo quy định, tiền hỗ trợ thêm sinh hoạt phí… tùy theo từng nghề đào tạo mà quy định mức kinh phí dạy nghề cụ thể như: tiền vật tư thực hành nghề, tiền trả công cho giáo viên, tiền tài liệu học tập…

- Cần có cơ chế đào tạo liên thông đối với học sinh dân tộc thiểu số học tại các trường phổ thông dân tộc nội trú. Đào tạo liên thông giữa cấp trung học cơ sở với cấp trung học phổ thông ở các trường phổ thông dân tộc nội trú. Đào tạo liên thông giữa hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú với các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề thuộc hệ thống giáo dục quốc dân. Cụ thể: Trường phổ thông dân tộc nội trú ở huyện gồm cấp trung học cơ sở và trung học phổ thông; tổ chức mô hình liên thông đào tạo học sinh sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông với các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề thuộc hệ thống giáo dục quốc dân. Hiện nay, nhiều em tốt nghiệp trung học phổ thông thi không đỗ đại học, cao đẳng lại trở về địa phương sản xuất, gây lãng phí kinh phí đào tạo của Nhà nước, đồng thời lãng phí nguồn nhân lực cho vùng miền núi.

- Chính sách hỗ trợ dạy nghề cho nông dân: Đối với những người không đủ điều kiện học nghề nội trú tại các cơ sở dạy nghề công lập và với những nghề không đào tạo tập trung tại các cơ sở dạy nghề mà tổ chức dạy nghề lưu động tại các xã, làng, bản để tạo điều kiện cho người học, cần có chính sách riêng phù hợp để hỗ trợ kinh phí cho người học như: kinh phí cho vật tư thực hành nghề, kinh phí tài liệu học tập, tiền trả công giáo viên, hỗ trợ một phần tiền ăn trong thời gian học nghề.

- Chính sách hỗ trợ dạy nghề cho người nghèo: Những người tham gia học nghề nếu là hộ nghèo thì có chính sách ưu tiên riêng. Mức hỗ trợ sẽ cao hơn mức kinh phí dạy nghề cho nông dân (nếu học không tập trung) và nếu học tập trung tại các cơ sở dạy nghề công lập thì thực hiện theo chế độ học nghề nội trú.

- Đối với học sinh dân tộc thiểu số thuộc diện học ở trường dân tộc nội trú mà theo học các trường công, bán công, các cơ sở dạy nghề khác thì được ưu tiên cấp học bổng như học sinh nội trú. Sau khi tốt nghiệp được ưu tiên bố trí việc làm tại các doanh nghiệp ở địa phương hoặc các cơ sở sản xuất kinh doanh khác tùy theo khả năng và trình độ tay nghề của các em.

3.2.3.2. Chính sách đối với giáo viên và cán bộ quản lý  dạy nghề

Để có được chất lượng đào tạo nghề, trước hết phải quan tâm thực sự tới đội ngũ giáo viên. Hiện nay, số giáo viên và cán bộ quản lý dạy nghề đảm bảo chuẩn theo quy định tại Điều 58 của Luật dạy nghề mới chỉ có ở Trường Trung cấp nghề miền núi, còn tại các cơ sở dạy nghề khác của các huyện miền núi Thanh Hóa chưa đáp ứng theo chuẩn. Giáo viên dạy nghề chủ yếu là kiêm nhiệm, hoặc kiêm nhiệm theo thời vụ, những giáo viên dạy nghề chính quy đúng như quy định ở các Trung tâm dạy nghề hoặc Trung tâm giáo dục thường xuyên và Dạy nghề rất ít và hầu hết, họ không có trình độ nghiệp vụ sư phạm. Sở dĩ có tình trạng này là do chính sách thu hút, ưu đãi đối với giáo viên dạy nghề chưa thỏa đáng, chưa thu hút được người tài, có tâm huyết. Nghị định số 61/2006/CP ngày 20/6/2006 của Chính phủ mới áp dụng chính sách ưu đãi đối với nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục ở các trường chuyên biệt ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt đặc biệt khó khăn, và cũng chỉ dừng lại ở mức ưu đãi về tiền lương, phụ cấp thu hút và các khoản phụ cấp theo theo lương còn các chính sách ưu đãi khác chưa có. Đồng thời chính sách này cũng chỉ mới dừng lại cho một bộ phận nhỏ giáo viên và người làm công tác quản lý giáo dục thuộc khối phổ thông, giáo viên dạy nghề chưa được áp dụng. Do đó để khuyến khích và thu hút giáo viên dạy nghề giỏi kể cả lý thuyết và thực hành, những cán bộ làm công tác quản lý dạy nghề có năng lực và kinh nghiệm cần có chính sách ưu đãi riêng biệt.

- Phải xây dựng và hoàn thiện chế độ, chính sách tuyển dụng, sử dụng, đào tạo bồi dưỡng, kiểm tra, đánh giá đội ngũ giáo viên dạy nghề; xây dựng tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch viên chức giáo viên dạy nghề. Có các chính sách đặc thù nhằm khuyến khích, thu hút nghệ nhân, những người có kinh nghiệm và tay nghề cao trong sản xuất … làm giáo viên dạy nghề. Thực hiện chính sách ưu đãi về tiền lương, các khoản phụ cấp ưu đãi theo lương đảm bảo họ có thể sinh sống ở mức khá với nguồn thu nhập từ công việc chính của họ là giảng dạy và truyền nghề cho người lao động. Bởi người giáo viên dạy nghề ngoài trí tuệ và sử dụng các công cụ chính của họ như những giáo viên phổ thông khác khi lên lớp là cây bút, viên phấn, cái bảng, họ còn phải sử dụng thành thạo những thiết bị đơn giản như cái kìm, bút thử điện cho đến những thiết bị hiện đại trị giá hàng tỷ đồng như máy cắt gọt kim loại, các thiết bị kiểm tra hàn v.v…Do đó phải có các chính sách, chế độ riêng biệt thể hiện sự ưu đãi thực sự đối với giáo viên dạy nghề.

- Căn cứ vào điều kiện thực tế ở từng địa phương, phải có chính sách hỗ trợ đất ở, hỗ trợ kinh phí để họ làm nhà, gắn bó lâu dài với miền núi, dân tộc. Nhà nước cần quy định cụ thể đối với giáo viên và cán bộ làm công tác quản lý  dạy nghề ở miền núi từ năm thứ 5 trở đi, mỗi năm được hỗ trợ một khoản kinh phí nhất định để họ tích lũy xây dựng nhà ở, đảm bảo sau khoảng 5 - 7 năm từ nguồn tích lũy cá nhân và khoản hỗ trợ của Nhà nước, giáo viên và cán bộ quản lý dạy nghề xác định gắn bó lâu dài với miền núi, dân tộc có thể làm nhà kiên cố để ở. Có như thế giáo viên mới yên tâm công tác, chất lượng đào tạo nghề mới được ổn định và nâng lên đảm bảo đáp ứng yêu cầu thị trường sức lao động phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội.

- Xây dựng và thực hiện chế độ phụ cấp lưu động cho giáo viên dạy nghề, người làm công tác quản lý dạy nghề, bởi trong quá trình tổ chức dạy nghề, chuyển giao công nghệ cho lao động miền núi, các thầy giáo, cô giáo không chỉ thực hiện ở các cơ sở dạy nghề tập trung mà còn tổ chức dạy nghề, chuyển giao kỹ thuật lưu động tại các làng, bản.

- Có chính sách hỗ trợ kinh phí để giáo viên dạy nghề và người làm công tác quản lý dạy nghề được tham quan, học tập, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ và học tiếng dân tộc thiểu số.

3.2.4. Nâng cao chất lượng cán bộ quản lý và giáo viên dạy nghề

Đội ngũ giáo viên dạy nghề được hình thành từ rất nhiều nguồn khác nhau: tốt nghiệp trong và ngoài nước, từ các trường sư phạm kỹ thuật, các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, trường dạy nghề, lao động có tay nghề cao, nghệ nhân … nên trình độ năng lực cũng rất khác nhau. Luật Dạy nghề đã quy định ba cấp trình độ: sơ cấp nghề, trung cấp nghề, cao đẳng nghề và đang tạo ra cơ hội để phát triển dạy nghề đáp ứng nhu cầu thị trường lao động trong nước, tăng sức cạnh tranh trên thị trường lao động quốc tế trong quá trình hội nhập. Để thực hiện và đáp ứng yêu cầu đó, chúng ta cần phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp và các yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng dạy nghề, trong đó cần đặc biệt chú trọng xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý dạy nghề.

- Thường xuyên nâng cao năng lực đội ngũ giáo viên dạy nghề: Một thực tiễn cho thấy, giáo viên dạy nghề không những chỉ giỏi về lý thuyết mà còn phải giỏi về khả năng thực hành nghề và hướng dẫn cho học sinh thực hành nghề. Do đó phải tăng cường bồi dưỡng cho giáo viên và cán bộ quản lý dạy nghề nhằm thống nhất và từng bước chuẩn hóa đội ngũ này ở cả hai mặt:

+ Về bồi dưỡng chuẩn hóa: Tiến hành rà soát, đánh giá thực trạng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý dạy nghề để xây dựng kế hoạch đào tạo lại, bồi dưỡng chuẩn hóa về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ theo hướng các cơ sở tự đánh giá và xây dựng kế hoạch đào tạo lại, bồi dưỡng chuẩn hóa theo các tiêu chí, chuẩn đánh giá, phương thức, quy trình đánh giá của cơ quan quản lý nhà nước về dạy nghề. Tổ chức việc đào tạo lại, bồi dưỡng chuẩn hóa theo kế hoạch đã được xây dựng theo quy định cho từng ngạch, từng chức danh, gắn quy hoạch với việc bố trí sử dụng sau đào tạo, bồi dưỡng.

Các nội dung bồi dưỡng chuẩn hóa gồm: đào tạo, bồi dưỡng đạt chuẩn trình độ chuyên môn kỹ thuật; đào tạo, bồi dưỡng đạt chuẩn trình độ tay nghề; đào tạo, bồi dưỡng đạt chuẩn nghiệp vụ sư phạm.  

+ Về bồi dưỡng thường xuyên: Thực hiện bồi dưỡng thường xuyên theo chu kỳ cho đội ngũ giáo viên dạy nghề về chính trị, đổi mới phương pháp dạy nghề, kỹ năng giảng dạy, bồi dưỡng công nghệ mới, ngoại ngữ, tin học để nâng cao năng lực và chất lượng giảng dạy. Đối với cán bộ quản lý dạy nghề thực hiện việc bồi dưỡng để nâng cao năng lực thực hiện nhiệm vụ. Tập trung đào tạo nghiệp vụ quản lý trên cơ sở tiêu chuẩn nghiệp vụ của từng chức danh nhằm nâng cao tính chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ này.

- Tiếp tục đổi mới nội dung, chương trình đào tạo giáo viên và cán bộ quản lý dạy nghề  theo hướng chuẩn hóa, phù hợp với thực tiễn ở Việt Nam nói chung và khu vực miền núi nói riêng để từng bước hội nhập với khu vực và quốc tế. Đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của người học; tăng cường thực hành, thực tập; kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo, nghiên cứu khoa học và hoạt động sản xuất. Gắn đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp đào tạo với việc đổi mới công tác kiểm tra, đánh giá, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng.

- Đổi mới công tác quản lý: Kiện toàn công tác quản lý dạy nghề theo hướng phân công, phân cấp, quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn, đảm bảo sự hợp lý trong toàn bộ hệ thống dạy nghề từ tỉnh đến các huyện. Các văn bản quy phạm pháp luật, các thể chế, chính sách về xây dựng, quản lý đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý dạy nghề nhằm đổi mới quản lý, tăng cường kỷ luật, kỷ cương và tinh thần trách nhiệm của các cá nhân cũng như của các cơ sở tham gia dạy nghề phát triển nguồn nhân lực. Cần có sự dự báo, quy hoạch và kế hoạch phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý dạy nghề. Có chính sách điều tiết số lượng, cơ cấu đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý dạy nghề cho phù hợp với nhu cầu phát triển của đào tạo nghề.

- Tăng cường hợp tác quốc tế trong việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý dạy nghề. Dành một nguồn kinh phí hợp lý cho đào tạo, bồi dưỡng giáo viên và cán bộ quản lý dạy nghề miềm núi trong các dự án hợp tác. Huy động mọi nguồn lực và tăng cường hợp tác quốc tế để tạo điều kiện gửi giáo viên dạy nghề ở các huyện miền núi đi đào tạo ở nước ngoài. Chú trọng đào tạo các nghề mũi nhọn, các ngành nghề mà Việt Nam chưa có điều kiện để đào tạo giáo viên; ưu tiên gửi giáo viên dạy nghề miền núi đi thực tập nâng cao về chuyên môn, nghiệp vụ ở các trường nghề trong khu vực và các nước có hệ thống dạy nghề tiên tiến.

3.2.5. Đầu tư cơ sở vật chất, nguồn lực tài chính

Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội tỉnh Thanh Hóa thời kỳ 2006-2020 đã chỉ rõ: Từ nay đến năm 2010 cần tập trung đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, phương tiện giảng dạy và nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên của trường Đại học Hồng Đức và một số trường chuyên nghiệp khác như: Trường Trung cấp nghề miền núi, Trường Cao đẳng y tế, Trường trung học nông - lâm nghiệp, Trường kỹ thuật công nghiệp … đủ điều kiện đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao, gắn đào tạo với nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong tỉnh. Nâng cấp một số trường trung học chuyên nghiệp và dạy nghề lên cao đẳng và đại học theo hướng đào tạo đa ngành và liên thông để đáp ứng nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh.

- Để đáp ứng yêu cầu đào tạo phát triển nguồn nhân lực và khuyến khích việc thành lập mới, nâng cấp các trường nghề, các trung tâm dạy nghề, UBND tỉnh phải có chính sách cụ thể ưu tiên dành quỹ đất cho việc mở rộng, xây dựng đảm bảo diện tích tương ứng với định mức tiêu chuẩn của từng loại cơ sở dạy nghề. Thực hiện miễn thuế sử dụng đất, giảm tiền thuê đất và hỗ trợ kinh phí cho các cơ sở dạy nghề khi giải phóng mặt bằng và xây dựng kết cấu hạ tầng như giao thông, trạm biến áp, hệ thống cấp, thoát nước sinh hoạt và nước thải. Đối với miền núi, dạy nghề cho lao động nông thôn, trong những năm tới sẽ là một trong những nhiệm vụ cấp bách đòi hỏi các cơ sở dạy nghề phải có đất để triển khai thực hiện các mô hình thực nghiệm, trình diễn nghề nông, lâm, thủy sản cho người học nghề. Do đó ngoài diện tích để xây dựng các hạng mục theo quy định cần có diện tích dành cho khu thực nghiệm các loại cây trồng, vật nuôi theo nhu cầu đào tạo, và đây là cách làm tốt nhất để tuyên truyền, vận động, hướng dẫn người lao động miền núi, dân tộc tham gia học nghề. Cơ sở dạy nghề, đặc biệt là trường trung cấp nghề trở lên phải có khuôn viên rộng rãi đáp ứng yêu cầu dạy, học và rèn luyện thể chất của người học nghề.

- Huy động mọi nguồn vốn, khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi cá nhân tham gia góp vốn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất một cách đồng bộ các hạng mục cơ bản tùy theo từng loại hình đào tạo. Hàng năm UBND tỉnh cần ưu tiên dành vốn ngân sách từ 10 - 12% đầu tư cho các cơ sở dạy nghề công lập để xây dựng, nâng cấp phòng học lý thuyết, xưởng thực hành, phòng thí nghiệm đảm bảo đạt tiêu chuẩn, đặc biệt đối với miền núi phải có nơi ở, nơi ăn cho học sinh học nghề. Cần tập trung vốn đầu tư cho cơ sở dạy nghề công lập trọng điểm, trong khoảng từ 3 - 5 năm phải xây dựng xong đồng bộ các hạng mục và đưa vào khai thác, sử dụng để đem lại hiệu quả cao. Xây dựng “Quỹ phát triển đào tạo nguồn nhân lực” của tỉnh trong đó ưu tiên dành một tỷ lệ thích hợp hỗ trợ học sinh học nghề nói chung và đối với miền núi Thanh Hóa nói riêng.

Tăng cường hợp tác quốc tế để đầu tư và hỗ trợ kỹ thuật cho dạy nghề, ưu tiên nguồn vốn ODA để đầu tư cho các cơ sở dạy nghề, nhất là các cơ sở dạy nghề ở vùng miền núi. Thực hiện tích cực các biện pháp nhằm thu hút các tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp đầu tư cho dạy nghề, đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Xây dựng và ban hành những quy định cụ thể về trách nhiệm và nghĩa vụ của các doanh nghiệp trong việc dạy nghề, bồi dưỡng nâng cao tay nghề cho người lao động. Tổ chức thí điểm và từng bước mở rộng mô hình đào tạo theo cơ chế chia sẻ kinh phí đào tạo nghề cho người lao động giữa Nhà nước và doanh nghiệp.

- Tập trung đầu tư chiều sâu từ nguồn vốn chương trình mục tiêu quốc gia về nâng cao năng lực dạy nghề để mua thiết bị, máy móc lắp đặt cho các xưởng thực hành nghề, bởi đây là nơi trực tiếp để người học nghề rèn luyện, nâng cao khả năng tác nghiệp trên các loại công cụ lao động, thiết bị sản xuất ra sản phẩm. Các xưởng thực hành cần được đầu tư một cách đồng bộ cho từng nghề đào tạo, mức đầu tư lắp đặt thiết bị nên ưu tiên cho những nghề có nhiều người học, có thể sử dụng được nhiều năm từ mức xưởng thực hành tay nghề cơ bản đến xưởng thực hành tay nghề nâng cao đáp ứng yêu cầu người học cũng như thực tiễn sản xuất tại các doanh nghiệp.

Chú ý chọn lọc, đầu tư mua sắm thiết bị đào tạo các nghề mũi nhọn, công nghệ tiên tiến để vừa đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đồng thời vừa sát với thực tiễn sản xuất của các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

3.2.6. Đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm

Phải đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, khôi phục và phát triển các nghề truyền thống, du nhập và phát triển các nghề mới, đẩy mạnh phong trào thanh niên lập nghiệp và xuất khẩu lao động. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế mở mang ngành nghề, các cơ sở sản xuất kinh doanh nhỏ và vừa, nhất là những có sở có khả năng sử dụng nhiều lao động. Tăng cường công tác đào tạo và đào tạo lại tay nghề để tăng khả năng tự tạo việc làm, chuyển đổi việc làm, chuyển đổi cơ cấu lao động nhằm giảm tỷ lệ thất nghiệp ở các thị trấn, thị tứ và tăng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn miền núi.

Giải quyết việc làm là một trong những chính sách xã hội cơ bản của một quốc gia, là yếu tố quyết định để phát huy trí tuệ và tay nghề nguồn lực con người, ổn định và phát triển kinh tế, lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân. Do đó phải đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, đi đôi với tạo việc làm tại chỗ là chính, đồng thời mở rộng thị trường lao động trong tỉnh, ngoài tỉnh và ngoài nước. Phát triển kinh tế - xã hội, tạo mở việc làm là hướng cơ bản, quyết định nhất, do đó trước mắt phải tập trung phát triển các ngành, các lĩnh vực có vốn đầu tư ít nhưng sử dụng nhiều lao động, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ để thu hút lao động ngành nông nghiệp chuyển sang. Đẩy mạnh việc thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đây là giải pháp có tính tiên quyết để giải quyết vấn đề việc làm ở nông thôn. Do đó, cần có chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp hàng hóa, thực hiện phát triển mạnh thủ công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và kinh tế hộ gia đình. Chú ý đầu tư phát triển một số ngành, nghề như sản xuất giấy, bột giấy, chế biến hoa quả, chế biến cao su, chế biến các sản phẩm cây lâm nghiệp (từ cây tre, luồng, nứa …) để giải quyết việc làm cho một bộ phận lớn lao động nông thôn ở các vùng nguyên liệu tập trung cho các ngành chế biến trên.

Khai thác mạnh mẽ khu vực kinh tế dân doanh. Thực tế cho thấy những năm gần đây, khu vực kinh tế dân doanh đã sử dụng trên 50% lượng cung lao động hàng năm. Vì vậy, chính sách nhất quán là thúc đẩy sự phát triển của kinh tế dân doanh, tạo mọi điều kiện để kinh tế dân doanh phát triển và tạo ra những chỗ làm việc mới cho người lao động.

Đẩy mạnh phát triển thương mại, du lịch, dịch vụ, tìm kiếm thị trườmg cho hàng hóa sản xuất ở các huyện miền núi. Phát triển các hợp tác xã, các doanh nghiệp tư nhân, chợ nông thôn để cung ứng hàng hóa và bao tiêu sản phẩm do người lao động là ra. Tạo điều kiện để hình thành thị trường sức lao động vận hành và phát triển nhằm giải quyết mâu thuẫn giữa cung và cầu về số lượng và chất lượng lao động. Giải pháp này tác động đến “cung” và “cầu” về nguồn nhân lực, thông qua cơ chế thị trường giúp cho việc điều chỉnh các mặt mất cân đối, tăng cường tính chủ động của người lao động. Do đó phải tăng cường công tác thông tin về thị trường sức lao động, phát triển mạnh mạng lưới trung tâm dịch vụ việc làm, đẩy mạnh tư vấn tìm việc làm, tư vấn về lao động, tư vấn lập dự án tạo việc làm. Xây dựng mạng lưới thông tin thị trường sức lao động từ cấp xã nhằm tuyên truyền, phổ biến rộng rãi chủ trương, chính sách của Nhà nước, pháp luật lao động, chính sách cho vay vốn phát triển sản xuất hỗ trợ giải quyết việc làm. Tăng cường đưa lao động khu vực miền núi đến làm việc ở các khu công nghiệp trong tỉnh và ngoài tỉnh, xúc tiến mạnh đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài.

Xây dựng và ban hành một số chính sách ưu tiên phù hợp với đặc thù miền núi Thanh Hóa để khuyến khích tạo mở việc làm cho người lao động:

- Chính sách cho người lao động vay vốn để học nghề, đóng góp cổ phần, thu hút vào làm việc tại các doanh nghiệp.

- Chính sách hỗ trợ người sản xuất tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm, nông sản hàng hóa, tạo điều kiện mở rộng sản xuất để thu hút lao động.

- Chính sách cho vay ưu đãi và hỗ trợ vốn ngân sách để đầu tư, đổi mới công nghệ cho các cơ sở sản xuất, chế biến các sản phẩm từ nguyên liệu địa phương, nhất là chế biến nông, lâm sản. Đây là cơ sở bền vững hình thành các vùng nguyên liệu tập trung, giải quyết nhiều việc làm cho lao động nông thôn.

3.3. Phát triển nguồn nhân lực gắn với chính sách thu hút nguồn nhân lực đến làm việc tại địa phương

- Thực hiện mạnh chế độ cử tuyển có cam kết để thu hút học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông, lao động trẻ tốt nghiệp trung học là con em của đồng bào các dân tộc trên địa bàn được cử đi đào tạo Đại học, Cao đẳng trở về công tác tại địa phương để tăng cường và ổn định lâu dài nguồn lao động kỹ, cán bộ quản lý cho Miền núi.

-  Xây dựng chính sách, chế độ để sử dụng, điều động cán bộ ( kể cả điều động theo nghĩa vụ ) để tăng cường cho cơ sở ở các huyện miền núi.

KẾT LUẬN

Toàn bộ nội dung đề tài "Phân tích và đề xuất một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho chiến lược phát triển kinh tế - xã hội các huyện miền núi phía Tây tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2011 - 2020” đã được thực hiện bằng phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh …và minh họa qua các số liệu thực tế. Cơ sở lý luận gắn với thực tiễn công tác đào tạo nghề nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của các huyện miền núi Thanh Hóa.

Qua nghiên cứu những vấn đề trong luận văn, tác giả xin rút ra những nhận xét như sau:

1- Luận văn đã hệ thống hóa cơ sở lý luận về nguồn nhân lực, phát triển nguồn nhân lực: bao gồm các khái niệm về nguồn nhân lực và hạn chế phạm vi nghiên cứu của đề tài về phát triển nguồn nhân lực thông qua đào tạo nghề. Luận văn nêu những quan điểm, những yêu cầu bức xúc của việc nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho phát triển kinh tế - xã hội của Thanh Hóa nói chung và của các huyện miền núi phía Tây tỉnh Thanh Hóa nói riêng. Các vấn đề nghiên cứu được dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

2- Luận văn giới thiệu tổng quát thực trạng, xu hướng phát triển, mục tiêu giải pháp về đào tạo nghề cho phát triển nguồn nhân lực các huyện miền núi phía Tây tỉnh Thanh Hóa góp phần cho phát triển kinh tế - xã hội.

Bằng cách khái quát thực trạng công tác đào tạo nghề, đi sâu nghiên cứu công tác đào tạo nghề cho người lao động miền núi phía Tây tỉnh Thanh Hóa, các nội dung nghiên cứu cho thấy công tác đào tạo nghề cho người lao động ở các huyện miền núi Thanh Hóa còn nhiều bất cập mà nguyên nhân chủ yếu là do nhận thức của người dân về học nghề, một số cơ chế chính sách đối với người học, người dạy và với các cơ sở dạy nghề. Thực tế cho thấy, người lao động miền núi họ rất ham học hỏi, muốn được đào tạo có nghề để tổ chức sản xuất hoặc tham gia sản xuất tăng thu nhập, nếu có cơ chế và chính sách thích hợp sẽ khơi dậy tiềm năng của bà con các dân tộc vùng miền núi trong việc học tập nâng cao tay nghề, đây là cơ sở vững chắc để người dân miền núi thoát nghèo một cách bền vững, đồng thời góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội miền núi phía Tây tỉnh Thanh Hóa.

3- Luận văn đã đề xuất một số quan điểm về đào tạo nghề, về đổi mới công tác đào tạo nghề, nâng cao chất lượng đào tạo nghề phát triển nguồn nhân lực ở Thanh Hóa nói chúng và của các huyện miền núi phía Tây tỉnh Thanh Hóa nói riêng. Các quan điểm này xuất phát từ những quan điểm của Đảng và được cụ thể hóa bằng các mục tiêu, phương hướng, giải pháp của Chính phủ, các Bộ, Ngành và của UBND tỉnh Thanh Hóa cho chiến lược phát triển kinh tế - xã hội các huyện miền Tây của tỉnh thời kỳ 2006-2020.

4- Luận văn đã đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực các huyện miền núi phía Tây tỉnh Thanh Hóa thông qua đào tạo nghề cho người lao động. Trong đó có nhấn mạnh tới các giải pháp về cơ chế, chính sách đối với người học nghề, người dạy nghề và với các cơ sở dạy nghề của khu vực miền núi phía Tây tỉnh Thanh Hóa.

Hoàn thành được luận văn này là kết quả của quá trình học tập được sự chỉ dẫn của các thầy cô giáo Viện Đại Học Mở Hà Nội, thầy giáo hướng dẫn kết hợp với kinh nghiệm thực tiễn làm công tác và sự nỗ lực của bản thân trong thời gian học tập và nghiên cứu đề tài.

Luận văn cũng không tránh khỏi những khiếm khuyết. Kính mong các thầy, cô trong Hội đồng chấm luận văn thạc sỹ kinh tế đóng góp thêm ý kiến để việc nghiên cứu được hoàn thiện và bổ ích hơn.

Xin chân thành cảm ơn./.

        DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Phạm Văn Tuyền (2000), Nâng cao chất lượng lao động trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Thanh Hóa, Luận văn thạc sỹ khoa học Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
  2. Bộ Chính trị (2004), Nghị quyết số 37/NQ-TW ngày 01/7/2004 về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Trung du và miền núi Bắc bộ đến năm 2010.
  3. Cục Thống kê tỉnh Thanh Hoá, Niên giám thống kê các năm từ 2005 - 2010.
  4. Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa (2010), Văn kiện đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XV, XVI,  XVII.
  5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, VIII, XI. X,XI Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
  6. Nguyễn Thế Huệ (2004), "Vấn đề dân số và nguồn nhân lực vùng dân tộc thiểu số nước ta", Tạp chí Cộng sản, (708).
  7. Đoàn Văn Khai (2005), Nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội.
  8. Nguyễn Văn Ngọc (2007), Thị trường sức lao động trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
  9. Lê Dung Phong (2006), Nguồn lực và động lực phát triển, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
  10. Nguyễn Thanh (2005), Phát triển nguồn nhân lực phụ vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
  11. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Thanh Hóa (2006), Chương trình phát triển công tác đào tạo nghề tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2006 - 2010.
  12. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Thanh Hóa (2006), Đề án nâng cao năng lực hệ thống các trường nghề, trung tâm dạy nghề tỉnh Thanh Hóa đến năm 2020.
  13. Nguyễn Thị Thơm (2006), Thị trường lao động Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
  14. Thủ tướng Chính phủ (2002), Quyết định số 24/QĐ-TTg ngày 02/02/2002 về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Thanh Hóa thời kỳ 2001 - 2010 (điều chỉnh).
  15. Thủ tướng Chính phủ (2004), Quyết định số 145/2004/QĐ-TTg ngày 13/8/2004 về phương hướng chủ yếu phát triển kinh tế xã hội Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đến năm 2010 và tầm nhìn đến 2020.
  16. Thủ tướng Chính phủ (2005), Quyết định số 253/2005/QĐ-TTg ngày 12/10/2005 về việc phê duyệt Đề án phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh miền Tây tỉnh Thanh Hóa đến năm 2010.
  17. Thủ tướng Chính phủ (2007), Quyết định số 24/QĐ-TTg ngày 02/02/2002 về việc ban hành một số cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội đối với các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ đến năm 2010.
  18. Uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hoá (2006), Quyết định số 1291/QĐ-UBND ngày 11/5/2006 về việc phê duyệt đề cương Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Thanh Hóa đến năm 2020.
  19. Uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hoá (2006), Quyết định số 1832/QĐ-UBND ngày 03/7/2006 về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội miền núi tỉnh Thanh Hóa đến năm 2020.
  20. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2008), Quyết định số 2097/QĐ-BTNMT ngày 29/10/2009 về việc phê duyệt và công bố kết quả thống kê diện tích đất đai năm 2008.
  21. Ban chỉ đạo Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Trung ương (2010), Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009 - Kết quả điều tra toàn bộ. Hà Nội: NXB Thống kê.
  22. Cổng thông tin điện tử tỉnh Thanh Hóa, www.thanhhoa.gov.vn

(ngày 08/9/1012)

  1. Báo nhân dân điện tử,  www.nhandan.com.vn  (ngày 08/9/2012)
  2. Báo tin nhanh việt nam, http://vnexpress.net/gl/kinh-doanh/2011/10/10-nuoc-giau-nhat-the-gioi-nam-2011  (ngày 08/9/2012)
  3. Bách khoa toàn thư mở,

http://vi.wikipedia.org/wiki/Bảng_xếp_hạng_ước_lượng_tuổi_thọ_khi_sinh_theo_quốc_gia    (ngày 08/8/2010)

  1. Báo điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam,

 http://dangcongsan.vn/cpv/index.html (ngày 08/9/2012)