Đường ‘lưỡi bò’ là cơ sở cho yêu sách chủ quyền của Trung Quốc?
Phan Văn Song & Lê Vĩnh Trương
(bài đã đăng trên Tia Sáng 18/2/2012 tại http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=116&News=4909&CategoryID=42)
Không đòi hỏi phải có kiến thức luật pháp, cũng không cần phải đo đạc chi tiết, bất cứ người bình thường nào không quá hời hợt trong suy nghĩ đều thấy rõ đường ‘lưỡi bò’ (còn được gọi là đường chữ U, đường 9 vạch / đoạn / điểm – cửu đoạn tuyến) khó có thể là đường biên giới trên biển của Trung Quốc (TQ) vì sự vô lí hiển nhiên của nó. Đó là một phần chia lấy được của kẻ mạnh[1] của TQ đối với Biển Đông (xem hình 1). Ngay cả một số học giả TQ cũng không đồng ý điều này và thậm chí vào năm 2002 giáo sư Cát Quốc Hưng (Ji Guoxing) đã dự đoán rằng TQ sẽ sớm từ bỏ nó[2].
Tuy nhiên, thực tế không đúng như dự kiến này. TQ đã thực hiện sau đó một loạt các hành động ngày càng quyết đoán trên Biển Đông. Họ gia tăng số tàu (ngư chính, hải giám, hải quân…), số lần tuần tra, kiểm soát , kéo dài hơn lệnh cấm đánh bắt cá ở Biển Đông. Họ tăng cường sách nhiễu cả tàu quân sự lẫn dân sự, bắt giữ ngư dân, phá hoại tàu, phương tiện đánh bắt dù ngư dân hoạt động trong vùng đánh bắt truyền thống của mình, thậm chí doạ dẫm và bắn vào các tàu của ngư dân, cắt cáp các tàu thăm dò địa chấn, phản đối việc thăm dò và khai thác dầu của các nước láng giềng trên EEZ của chính các nước nạn nhân[3]. Đặc biệt, ngày 7/5/2009 TQ đã chính thức kèm bản đồ này (hình 1) vào công hàm gửi Uỷ ban Ranh giới Thềm lục địa của Liên Hiệp Quốc. Năm 2010, báo chí quốc tế đưa tin rằng giới chức cao cấp của TQ đã nâng Biển Đông thành ‘lợi ích cốt lõi’ của họ, ngang với Đài Loan, Tân Cương và Tây Tạng. Cuối tháng 9 năm 2011, xã luận trên Hoàn cầu thời báo, cơ quan chính thức của đảng Cộng sản TQ doạ đánh VN và Philippines do hai nước này có những hành động ‘xâm phạm chủ quyền của họ’ ở Biển Đông. Mới đây, ngày 25/10/2011 trên báo này lại có bài cảnh cáo Việt Nam cùng một số nước có tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông “cần chuẩn bị tâm lí để nghe tiếng đại bác” nếu như vẫn tiếp tục đối chọi với Trung Quốc. Tất cả những hành động trên của họ đều liên quan tới nhưng sự việc xảy ra trong đường ‘lưỡi bò’ (ĐLB)[4]. Hơn nữa, phát biểu chuẩn của họ luôn là “TQ có chủ quyền không thể tranh cãi đối với các đảo ở Biển Đông và các vùng biển liền kề” mà không nêu ra bằng chứng gì thêm. Tất cả các điều trên kết hợp lại cho thấycó nhiều khả năng TQ dùng bản đồ ĐLB làm cơ sở để biện minh cho đòi hỏi chủ quyền mọi thứ (đảo, biển, tài nguyên…) bên trong ĐLB.
Trong "Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết các vấn đề tranh chấp trên biển”[5] giữa TQ và Việt Nam mới kí ngày 11/10/2011, điều 2 có nêu rằng luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS) mà cả Việt Nam và Trung Quốc đều là thành viên sẽ là căn cứ để giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông. Nêu tuân thủ theo điều này thì ĐLB của TQ hoàn toàn không có cơ sở pháp lí vì vượt quá trung tuyến, xâm phạm vào vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của các nước láng giềng theo quy định của UNCLOS. Tuy nhiên, điều 2 lại mở đầu với ý “xem xét các yếu tố liên quan khác như lịch sử …”. Ngoài ra, tuy kí kết UNCLOS nhưng TQ lại đưa ra những bảo lưu trong đó có các quyền lịch sử.[6]. Thêm vào đó, một số học giả TQ như Vương Hàn Lĩnh (Wang Hanling) lại cho rằng đường lưỡi bò có từ năm 1947, trong khi UNCLOS chỉ mới có từ năm 1982, nên không thể áp dụng cho tranh chấp Biển Đông[7]. Điều này tạo ra mối quan ngại TQ sẽ dùng đường lưỡi bò làm cơ sở để biện giải yêu sách chủ quyền của họ trong các tranh chấp. Bài viết này là một nỗ lực nhằm góp phần làm sáng tỏ điều này dựa trên các thông tin trên truyền thông quốc tế.
Trước hết, xin được điểm qua đôi nét về gốc gác của bản đồ có ĐLB này.
Theo hai tác giả Lí Kim Minh và Lí Đức Hà, Đại học Hạ Môn, Phúc Kiến[8] thì tiền thân bản đồ ‘lưỡi bò’ hiện nay là Bản đồ vị trí của các đảo Biển Đông (南海诸岛位置图 - Nanhai zhudao weizhi tu – Nam hải chư đảo vị trí đồ) kèm theo Bản đồ khu vực hành chính Trung Hoa Dân Quốc (中 華 民 國 行 政 區 域 圖 - Zhonghua minguo xingzheng quyu tu - Trung hoa dân quốc hành chánh khu vực đồ) do Cục Địa lí Bộ Nội Chính Trung Hoa Dân Quốc (THDQ) chính thức công bố vào tháng 2 năm1948. Các bản đồ này do Phó Giác Kim (Fu Jiaojin) hiệu đính và do Vương Tích Quang (Wang Xiguang) cùng những người khác biên soạn. Riêng bản đồ vị trí đính kèm này đã được Cục Địa lí Bộ Nội Chính in vào năm 1947, trong đó có sử dụng đường 11 vạch giới hạn các đảo ở Biển Đông. Sau đó chính phủ Tưởng Giới Thạch bị lật đổ và nước Cộng Hoà Nhân dân Trung Hoa (CHNDTH) được thành lập vào năm 1949, chính phủ mới vẫn dùng bản đồ cũ với đường 11 vạch. Đến năm 1953, Thủ tướng Chu Ân Lai phê duyệt bỏ đi phần hai vạch của đường này trong Vịnh Bắc Bộ. Từ đó trở đi, bản đồ với đường 9 vạch trong Biển Đông được TQ sử dụng cho tới bây giờ.
Còn theo giáo sư Du Kiếm Hồng Peter (俞劍鴻/Peter Kien-Hong Yu), Đại học Minh Truyền (Ming Chuan), Đài Loan[9] thì ĐLB được một người làm bản đồ tên là Hồ Tấn Tiếp (胡晋接/Hu Jinjie) phác hoạ đầu tiên vào năm 1914 sau khi Trung Hoa chiếm lại Pratas từ tay Nhật vào năm 1909. Cũng lưu ý rằng ĐLB của Hồ Tấn Tiếp là một đường liên tục chạy từ biên giới đất liền của TQ và VN vòng xuống bao lấy Hoàng Sa (với điểm tận cùng phía Nam khoảng 15°, 16° vĩ bắc) sau đó vòng lên bọc lấy Pratas, chạy xuyên qua eo biển Đài Loan và cuối cùng kết thúc ở đường ranh giữa biển Hoa Đông và Hoàng Hải. [10] Như vậy, ĐLB của Hồ Tấn Tiếp không chứa Đài Loan (lúc đó còn trong tay Nhật) và Trường Sa. Các bản đồ có liên quan sau đó đều dựa theo bản đồ của Hồ Tấn Tiếp[11]. Đến tháng 12 năm 1947 ĐLB mới được một viên chức của chính phủ THDQ tên Bạch Mi Sơ (白眉初/Bai Meichu) chính thức vẽ vào vùng Biển Đông nhưng tác giả không nêu rõ trong bản đồ nào. Lí do để viên chức họ Bạch vẽ đường này cũng chưa thật rõ ràng[12], tuy nhiên ông này đã từng hiệu đính bản đồ có ĐLB tương tự trong tập Bản đồ Kiến thiết Trung Hoa mới (中 國 建 設 新 地 圖 - Zhongguo Jianshe xin ditu -Trung quốc kiến thiết tân địa đồ) in vào giữa những năm 1930[13]. Chính trong bản đồ này ĐLB lại mở rộng thêm lần nữa tới tận 4° vĩ bắc, bao luôn cả bãi cạn James (xem tài liệu ở chú thích 10).
Tài liệu của tác giả họ Du không có kèm bản đồ, còn tài liệu của hai tác giả họ Lí có đưa vào bản đồ 9 vạch nhưng không phải từ bản đồ gốc năm1947 hay 1953 mà lấy nguồn từ nước ngoài (Hasjim Djalal, “Conflicting Territorial and Jurisdictional Claims in South China Sea,” The Indonesian Quarterly, vol. 7, no. 1 (1979), 36 at 52). Nguồn từ trang mạng www.nansha.org.cn cũng có đưa ra bản đồ 11 vạch năm 1947 (hình 2) với tên bản đồ này là “Nam hải chư đảo vị trí lược đồ” (南海诸岛位置略图), tuy nhiên tên trên bản đồ (có vẻ mới dán chồng lên) chỉ là “Nam hải chư đảo vị trí đồ”, không có từ “lược” (南海诸岛位置图 - Nanhai zhudao weizhi tu)[14] giống như hai tác giả họ Lí trình bày. Bài ‘Bản đồ chữ U : nguồn gốc và địa vị pháp lí’ (Nam hải“ cửu đoạn tuyến” đích lịch sử do lai hòa pháp luật địa vị - 南海“九段線”的歷史由來和法律地位)[15] trên trang mạng Hoàn cầu của nhà nước TQ cũng ghi là “Nam hải chư đảo vị trí lược đồ”.
Hình 1: Bản đồ ĐLB 9 vạch đính kèm theo công hàm TQ gửi Liên Hiệp Quốc 2009 | Hình 2:Bản đồ ĐLB 11 vạch “Nam hải chư đảo vị trí đồ” 1947 trên www.nansha.org.cn |
Gần đây, các tác giả TQ khi viết bài gửi đăng trên các tạp chí quốc tế như Journal of Geographical Sciences (Tháng tám 2010),Nature (Tháng chín 2010), Science (Tháng bảy 2011), Waste Management (Tháng tám 2011), and Journal of Petroleum Science and Engineering(Tháng tám 2011)… cũng kèm theo bản đồ ĐLB. Chẳng hạn, ĐLB kèm theo bài báo của nhóm Jun Tai, Weiqian Zhang, Yue Che, Di Feng đăng trên tập san Waste Management gồm 11 vạch.bao luôn quần đảo Đài Loan (hình 3). Trên bản đồ Google, phiên bản tiếng Anh, có lẽ lấy nguồn từ TQ, cũng có bản đồ ‘lưỡi bò’ 10 vạch (hình 4). Bản đồ này có vẻ suy từ bản đồ 9 vạch 2009 bằng cách thêm 1 vạch phía quần đảo Đài Loan.
Nhân đây cũng lưu ý thêm rằng, khó có thể nói là vô tình khi chính quyền TQ đã để các tổ chức và công dân TQ nguỵ tạo ra các bản đồ, như trên trang mạng www.spratlys.org có phổ biến các bản đồ đời Minh, Nguyên, Tống… và thậm chí trước nữa. Ở góc mỗi bản đồ này đều có đính bản đồ ‘lưỡi bò’ nhỏ ra vẻ như ĐLB đã có từ các thời xa xưa đó[16] trong khi theo các nghiên cứu chính thức đã nêu thì bản đồ này chỉ có từ 1947.
Hình 3: Bản đồ ĐLB 11 vạch của học giả TQ đăng trên tạp chí Waste Management | Hình 4: Bản đồ ĐLB 10 vạch trên google maps - phiên bản tiếng Trung |
Mặc dù nguồn gốc của ĐLB theo các tư liệu trên có một số chi tiết chưa thật rõ ràng và chưa nhất quán nhưng phần trình bày trên có thể cho thấy khá rõ mấy điều sau đây:
Với nguồn gốc ấy, bản đồ 9 vạch 2009 không thể nào là một cơ sở cho tuyên bố chủ quyền của TQ đối với gần như toàn bộ Biển Đông. Xin đơn cử các phân tích sau đây:
Hình 5: Dù ĐLB 1947 và 2009 có sai biệt lớn (xem hình 6) nhưng 2 ĐLB liên tục này sai biệt quá mức
Hình 6: ĐLB 9 vạch mơ hồ và tham lam hơn ĐLB 11 vạch (tô thêm màu vàng) [Hình 6 được tạo bằng cách chồng bản đồ 2009 lên trên bản đồ 1947] | Hình 7: “Tham quá mất khôn”, ĐLB trong bản đồ của CNOOC không dám giành dầu với Nhật và Hàn Quốc ở Đông Hải và Hoàng Hải |
Vào năm 1947 luật quốc tế chỉ cho phép lãnh hải 3 HL, cho nên nếu ĐLB là nhằm để đòi biển thì đó là một đòi hỏi phi pháp và không có hiệu lực pháp lý.
Tuyên bố lãnh hải 1958 của TQ đòi lãnh hải 12 HL,và công nhận bên ngoài đó là biển quốc tế. Vậy thì hà cớ gì lại đòi thêm nữa? Có phải là vừa tùy tiện vừa bất nhất?
TQ phê chuẩn UNCLOS, tức là chấp nhận bỏ những gì vi phạm UNCLOS. Đường lưỡi bò là một sản phẩm không có một lập luận nào liên quan UNCLOS cả.
Tóm lại, bản đồ ‘lưỡi bò’ vốn là sản phẩm của cá nhân được nhà nước TQ thổi phồng thành của quốc gia nên họ không thê có đủ chứng lí để thuyết phục thế giới. Chính vì vậy, TQ luôn luôn luôn mập mờ về bản đồ này, lời nói và hành đông của họ mâu thuẫn và thiếu nhất quán với nhau và thậm chí họ dùng cả các thủ đoạn ma mãnh, cách thức vô nhân đạo như cấm đánh bắt cá, giết hại và xâm phạm ngư cụ ngư dân, thao dượt quân sự, cắm cờ đáy biển… để cố làm bản đồ này thành chính thức như đã phân tích bên trên. Vì vậy, bản đố ĐLB, dù phiên bản nào cũng đều không chính danh, không thuận nghĩa, không hợp lẽ và nhất là không đúng lí để làm cơ sở cho các tuyên bố chủ quyền của TQ. Chính TQ cũng đã thấy rõ sự vô lí của mình nên đã thú nhận và lơ lửng, lấp liếm trong bài trên mạng Hoàn cầu đã dẫn rằng “Mặc dù chính phủ Trung Quốc xưa nay chưa từng giải thích và thuyết minh gì về “đường 9 đoạn”, song đường này đã được các ban ngành của chính phủ Trung Quốc đề xuất và thẩm định, đã được đánh dấu trên bản đồ xuất bản chính thức, nên cần được coi là một lập trường và chủ trương nào đó của chính phủ Trung Quốc”[31] (người viết nhấn mạnh). Và đặc biệt trong công hàm 14/4/2011phản đối lại công hàm của Philippines phản đối đường 9 vạch, họ không đề cập gì nữa đến đường này mà chủ yếu chỉ dùng những khái niệm có trong UNCLOS. Tổng hợp lại, có thể khẳng định với độ chắc chắn cao rằng ĐLB không thể là cơ sở lịch sử hay pháp lí cho tuyên bố chủ quyền của TQ tại Biển Đông!
Bài viết này được các ý kiến đóng góp quý báu của Dương Danh Huy
Chú thích:
[1] “Lion’s share” theo ngụ ngôn Aesop
[2] Xem Cát Quốc Hưng (Ji Guoxing), What China Exactly Claims in the South China Sea, Australian Royal Navy Sea Power Centre, April 2002 (TQ thực sự muốn gì trên Biển Đông): Vì các tuyên bố về đường chín vạch và vùng nước lịch sử không phù hợp với quy định của UNCLOS, dự kiến rằng TQ sẽ từ bỏ chúng trong những năm tới. Việc TQ bỏ các điều này sẽ có tác dụng như là một bước đột phá cho tiến trình dàn xếp tranh chấp.
[3] Xem thêm Michael D. Swaine, M. Taylor Fravel, Part Two: The Maritime Periphery (China Leadership Monitor, No. 35, Summer 2011). Bản dịch tiếng Việt ở http://seasfoundation.org/articles/from-members/1314-phn-th-hai-vung-ngoi-bien-tren-bin.
[4] Ví dụ bãi James (Malaysia), một phần của biển Natuna (Indonesia), lô 127 và 128 (Việt Nam) … thuộc về EEZ của các nước tương ứng (theo UNCLOS) nhưng vẫn bị TQ xem là của họ vì nằm ‘bên trong’ đường ‘lưỡi bò’.
[6] Xem Marvin C. Ott Deep Danger: Competing Claims in the South China Sea, bản dịch tiếng Việt ở http://www.seasfoundation.org/articles/from-members/1434-yeu-sach-mau-thun--bin-ong-nhng-him-ha-khon-lng và tài liệu ờ chú thích 8.
[7] Dĩ nhiên, đây chỉ là việc ‘cãi chày cãi cối’ như giáo sư Ngô Vĩnh Long nhận xét trong bài phỏng vấn ở http://www.viet-studies.info/kinhte/NgoVinhLong_VuongHanLinh_RFI.htm, vì một khi đã kí và phê chuẩn UNCLOS thì theo luật hiệp ước TQ phải điều chỉnh lại luật lệ và cách hành xử của mình cho phù hợp với hiệp ước.
[8] Li Jinming & Li Dexia, The Dotted Line on the Chinese Map of the South China Sea: A Note, The School of Southeast Asian Studies Xiamen University Xiamen, Fujian, China, 2002.
[9] Peter Kien-Hong Yu, The Chinese U-shaped line in the South China Sea: points, lines, and zones, Institute of Southeast Asian Studies (ISEAS), 2003
[10], Xem Zou Keyuan, South China Sea Studies in China: Achievements, Constraints and Prospects, Singapore Year Book of International Law and Contributors, 2006.
[11] Thật ra, sau khi Pháp thay mặt VN thực thi tiếp tục chủ quyền ở trên 9 đảo ở Trường Sa năm1933, TQ mở rộng lưỡi bò xuống tới giữa vĩ tuyến 7° và 9° bắc, xem tài liệu nói ở chú thích 10.
[12] Theo Huang Yi and Wet Jingfen, "The Legal Status of the South China Sea," in Taiwan on the Move, edited by Jeh-hang Lai and George T. Yu (Taiwan: National Central University, October 1998), p. 213. Hè năm 1990 Bạch Mi Sơ được mời tới Bắc Kinh để giải thích lí do vẽ đường lưỡi bò. Khi đó ông ta đã trên 80 nên vì tuổi già ông ta không nói được chính xác lí do cho hành động của mình lúc đó. Tuy nhiên, ông ta có nói “daoyu guishu Man [xian]” (岛 屿 归 属 线 - đảo dữ quy thuộc tuyến – các đảo quy vào trong đường đó [thuộcTQ]).
[13] Bài viết của 2 tác giả họ Lí nêu chính xác năm xuất bản là 1936 và cho biết đường này có dạng như đường biên giới nằm trong Bản đồ biên giới biển mở rộng phía Nam của Trung Quốc (海 疆 南 展 后 之 中国 全 图 - Haijiang nan zhan hou zhi Zhongguo quantu - Hải cương nam triển hậu chi Trung Quốc toàn đồ) và là bản đồ thứ hai trong tập bản đồ kiến thiết nói trên.
[15] Xem http://v.huanqiu.com/history/201107/20110701221442.shtml, bản dịch tiếng Việt “Nguyên do lịch sử và địa vị pháp lí của ‘đường 9 đoạn’”
[17] Xem chú thích 12.
[18] Xem Todd L. Kelly: Vietnam Claims to the Truong Sa Archipelago, University of Hawaii,1999. Bản dịch tiếng Việt ở http://seasfoundation.org/articles/from-members/1344-tuyen-b-ch-quyn-ca-vit-nam-i-vi-qun-o-trng-sa.
[19] Xem Hydrographic Office, The Admiralti,The China Sea Directory, Vol. ii, [London: J. D. Potter, 1889], 83
[20] Như chú thích 18.
[21] Của các nước tiếp giáp với nó (Brunei, Indonesia, Malaya, Philippines, Việt Nam…) và của các nước thế giới từng có tàu bè qua lại trên đó (Anh, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Mĩ, Nhật, Pháp…) từ lâu đời. Cũng xem Carlyle A. Thayer, South China Sea: A Commons for China Only?, YaleGlobal Online, 7 July 201, Bản dịch tiếng Việt: Biển Đông: Vùng biển chung dành riêng cho Trung Quốc!
[22] Thật ra, Peter Kien-Hong Yu (chú thích 9) lại còn nêu ra quan điểm rằng các khoảng trống giữa các vạch của ‘lưỡi bò’ là các ‘khoảng trống để thở’ (breathing spaces) hay các ‘cổng vào’ (entrances) mà tàu bè có thể ra vào không cản trở, thậm chí còn đưa thêm ý tưởng đặt các trạm thu phí (toll booth) ở những chỗ đó nữa!
[23] Xem Dana Dillon, Countering Beijing in The South China Sea, Policy Review, June-July 2011. Bản dịch tiếng Việt Đối phó với Bắc Kinh trong ở Biển Đông
[24] Bản đồ các lô dầu của CNOOC (Công ti quốc gia dâu khí ngoài khơi TQ) năm 2010, 2011 cũng có vạch bao ngoài Đài Loan nửa vời gần giống bản đố của google, xem http://en.cnooc.com.cn/data/upload/month_201105/Coordinatesen_czxmgr.jpg và http://en.cnooc.com.cn/data/html/news/2010-05-07/english/301292.html
[25] 9 vạch cũ có vạch cách đảo Hải Nam cả ngàn hải lí hoặc các đảo TQ tuyên bố có chủ quyền hàng trăm hải lí trong khi 2 vạch mới chỉ các Đài Loan vài chục hải lí.
[26] TQ cho rằng họ không những có quyền về kinh tế mà cả quyền tài phán trên EEZ, thực tế là coi EEZ như lãnh hải của họ.
[27] Điều 1 trong Tuyên bố lãnh hải của TQ 1958 có nêu “…và các đảo khác của TQ ngăn cách với đất liền bởi các vùng biển công.” Xem http://www.state.gov/documents/organization/58832.pdf.
[28] Xem Cát Quốc Hưng (Ji Guoxing): “TQ thực sự muốn gì trên Biển Đông” hoặc M.. Taylor Fravel, “China‘s Behavior in Its Territorial Disputes: Past, Present, and Future” hoặc Zou Keyuan, "Chinese Traditional Martime Boundary Line in the South China Sea: Legal Implications for the Spratly Islands Dispute," EAI Background Brief no. 14 (Singapore), 7 May 1998, p.2.
[29] Thật ra, trong tuyên bố lãnh hải năm 1958, TQ cũng có nêu vịnh Bột Hải (gần như một vịnh kín vây bọc bởi bán đảo Liêu Đông ăn thông với Hoàng Hải bằng eo biển Bột Hải) và eo biển Quỳnh Châu (phần nằm giữa bờ nam bán đảo Lôi Châu của tỉnh Quảng Đông và bờ bắc đảo Hải Nam) là các vùng biển lịch sử của họ. Điều này hầu như không gây ra sự phản đối của cộng đồng quốc tế do vị trí tương đối hợp lí của chúng và trong UNCLOS cũng có khái niệm ‘vịnh lịch sử’ (historic bay).
[30] Xem David Cyranoski http://www.nature.com/news/2011/111019/full/478293a.html (The Nature). Bản dịch tiếng Việt “Khi khoa học trở thành công cụ tuyên truyền”, http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=110&CategoryID=36&News=452
[31] Xem chú thích 15.