CHÚA Ở TRONG TÔI

                 

                 MỤC LỤC

                Lời Tựa

                Chương I: Tín Đồ Xác Thịt

                Chương II: Sự Sống Bổn Ngã

                Chương III: Vào Trong Sự Yên Nghỉ

                Chương IV: Đấng Christ Là Sự Sống Của Chúng Ta

Chương V: Sự Khiêm Nhường Của Đấng Christ Làm Cho  

                    Chúng Ta Được Cứu Rỗi

                Chương VI: Đầu Phục Trọn Vẹn

                Chương VII: Chết Với Đấng Christ

CHÚA Ở TRONG TÔI

Đến nỗi Đấng Christ nhân đức tin ngự trong lòng anh em”

(Ê-phê-sô 3:17)

LỜI TỰA

Đời sống thuộc thể (hay thiên nhiên) của mọi người sanh trưởng trên đất, từ khi đầu xanh tuổi trẻ đến lúc tóc bạc răng long, tiến trình đó có cao thấp khác nhau, hoặc vì xã hội và văn hóa có hơn kém khác nhau. Song về từng trải chung, tỏ ra trong sanh-ly và tâm lý thì Đông Tây xưa nay vẫn luôn luôn gặp nhau.

Cũng một thể ấy, đời sống thuộc linh (hay thiêng liêng) của mọi tín đồ Đấng Christ, từ khi tái sanh đến lúc toàn thắng, tuy có người được ơn rút ngắn quãng đường thiêng như kẻ ngồi xe hơi hoặc cưỡi mây bay, có kẻ lại kéo dài cuộc hành trình như người cuốc bộ hoặc đi xe bò. Song trên các chặng đường phải trải qua cũng vẫn có một.

Nhưng tựu trung, cái phần kéo dài bước đường thiêng vẫn luôn luôn chiếm đại đa số. Tại sao? Tại họ cứ kéo dài đời sống con đỏ, nhường chỗ cho bổn ngã, không gắng sức vào sự yên nghỉ, chưa hoàn toàn nhận Đấng Christ là sự sống của mình, chưa cậy sự khiêm nhường của Đấng Christ để được sự cứu rỗi trọn vẹn, chưa hết lòng đầu phục Đấng Christ, chưa chết với Đấng Christ 100%, hầu đồng thời cũng sống với Đấng Christ 100%. Nói một lời, họ chưa sống một cuộc đời “CHÚA Ở TRONG TÔI” đầy dẫy, đến nỗi có thể được khoe khoang lớn tiếng rằng thật Chúa đã ban cho tôi “sự sống và sự sống dư dật”.

Biết từng trải chung của đại đa số con cái Chúa và cảm thương đời sống kéo dài bước đường thiêng, lận đận trong đồng vắng, lao đao với kẻ thù, nên nhà thần khoa Tấn sĩ Andrew Muray đã được linh cảm, giảng giải một yếu đề tối hệ “CHÚA Ở TRONG TÔI” nầy. Thật là một tác phẩm rất có giá trị, Đức Chúa Trời đã dùng mà ban phước cho biết bao con cái của Chúa, từng được ơn “thôi cuốc bộ, vứt xe bò” cùng “lên máy bay, cưỡi khinh khí cầu” mà rút ngắn, rất ngắn bước đường thiêng, sớm đạt đến đích, tháng ngày vui reo hát nơi cõi thiên lạc thổ thuộc linh, phản chiếu ánh vinh hiển của Chúa, hấp dẫn biết bao đồng bào, đồng loại, chỉ một bước từ địa vị con đỏ vượt thắng đến chỗ đồng chết trọn vẹn với Chúa và đồng sống dư dật cùng Ngài. Thật quý hóa biết bao! Phước hạnh biết bao!

Vậy, tôi xin thành thực và trân trọng giới thiệu quyển sách “CHÚA Ở TRONG TÔI” nầy với các bạn đồng lao và toàn thể con cái Chúa, mong ai nấy đều sẵn sàng đón nhận và đọc, đọc thật chăm chú; lại cũng mua biếu cho nhiều người khác đọc với, để ai nấy đều sớm cùng cảm thông trong bầu không khí mà mác “khoe mình trong Chúa”, và đều tỏ bực thành nhân mà đồng hát khúc “CHÚA Ở TRONG TÔI”  và vui vẻ rảo bước lên thiên lộ, đồng nhìn nụ cười tươi âu yếm của Đức Chúa Jêsus Christ. A-men!

                                Mục sư Ông Văn Huyên

CHƯƠNG I

TÍN ĐỒ XÁC THỊT

        “Hỡi anh em, về phần tôi, chẳng có thể nói với anh em như với người thiêng liêng, nhưng như với người xác thịt, như với các con đỏ trong Đấng Christ vậy.”

        Trong câu này, sứ đồ Phao-lô nói đến hai bậc trong đời thiêng liêng, hai hạng tín đồ Đấng Christ - Hỡi anh em, về phần tôi, chẳng có thể nói với anh em như với người thiêng liêng, nhưng như với người xác thịt, như với các con đỏ trong Đấng Christ vậy.”. Họ là tín đồ Đấng Christ, họ ở trong Đấng Christ, nhưng họ không phải là tín đồ thiêng liêng, mà là tín đồ xác thịt. Phao-lô nói thêm rằng: 2 Tôi lấy sữa nuôi anh em, chớ chẳng lấy đồ ăn cứng, vì anh em không chịu nổi; đến bây giờ cũng chưa chịu được, vì anh em hãy còn thuộc về xác thịt.” (I Cô-rinh-tô 3:2).

        Lời Phao-lô nói đây gợi trong trí óc chúng ta cái ý tưởng nghiêm trọng rằng trong Hội Thánh của Đấng Christ có hai hạng tín đồ. Một số người đã sống cuộc đời tín đồ lâu năm, nhưng vẫn là con đỏ; còn một số khác là người thiêng liêng, vì họ đã hoàn toàn phó mình cho quyền phép, sự dắt dẫn và sự cai trị đầy trọn của Đức Thánh Linh. Nếu chúng ta muốn nhận lãnh ơn phước, thì trước hết phải quyết định xem mình thuộc về hạng nào trong hai hạng nầy. Phải chăng chúng ta nhờ ân điển Chúa mà có lòng khiêm nhường sâu xa và sống một cuộc đời thiêng liêng? Hay là chúng ta đang sống một cuộc đời xác thịt? Như vậy trước hết chúng ta hãy cố hiểu xem địa vị xác thịt mà một số tín đồ đang sống có ý nghĩa gì?

        Do những điều thấy trong anh em tín đồ Cô-rinh-tô, chúng ta nhận ra ba dấu hiệu của địa vị xác thịt.

        1. Dấu hiệu thứ nhất của địa vị xác thịt là địa vị trẻ thơ kéo dài mãi.

 Anh em biết điều đó nghĩa là gì? Thí dụ, có một đứa bé xinh đẹp, sinh ra được sáu tháng rồi. Nó không biết nói, không biết đi nhưng chúng ta chẳng lấy vậy làm bối rối; đó là tự nhiên và đáng phải có như thế. Nhưng, thí dụ, một năm sau, chúng ta không thấy nó lớn lên chút nào; rồi ba năm sau cũng vẫn chẳng lớn thêm chút nào. Chúng ta lập tức nói rằng “Chắc là có một bịnh tật gì nguy hiểm lắm”. Thế thì đứa bé lúc sáu tháng là nguồn vui mừng cho mọi người thấy nó, bây giờ đã hóa ra một nguồn lo ngại, buồn rầu cho mẹ nó và cho mọi người thấy nó. Chắc là có một cơ quan nào sai hỏng, nên đứa bé không lớn lên được. Lúc mới sáu tháng thì nó chỉ ăn sữa là phải lắm, nhưng mấy năm đã qua mà nó vẫn ở trong địa vị yếu đuối ấy mới là lạ.

        Vả, đó chính là địa vị của nhiều tín đồ. Họ đã hối cải; họ biết thể nào là đức tin và có sự biết chắc vững vàng; họ tin có sự tha tội; họ bắt đầu hầu việc Đức Chúa Trời, nhưng bởi cớ nầy hoặc bởi cớ khác, trong đời sống thiên thượng đích thực của họ ít có lớn lên về phần thiêng liêng. Nếu chúng ta tiếp xúc với họ, thì lập tức cảm thấy rằng có một điều chi thiếu sót; trong họ không có một chút vẻ đẹp thánh khiết hoặc một chút quyền phép của Đức Chúa Trời.

        Đó là địa vị của anh em tín đồ xác thịt tại thành Cô-rinh-tô. Địa vị nầy cũng được mô tả trong lời nói với tín đồ Hê-bơ-rơ rằng: “12 Đáng lẽ anh em đã làm thầy từ lâu rồi, nay còn cần người ta lấy những điều sơ học của lời Đức Chúa Trời mà dạy anh em;anh em cần ăn sữa thay vì đồ ăn đặc.”(Hê-bơ-rơ 5:12).  Chúng ta thấy một tín đồ đã theo Chúa 5 năm, 10 năm, 20 năm mà chẳng lớn lên; chẳng có sức mạnh, chẳng có sự vui vẻ do lòng thánh khiết chi hết, thì há chẳng đáng buồn sao?

        Những đặc tính của trẻ thơ là gì? Một đặc tính của trẻ thơ là nó không thể tự giúp mình nhưng luôn luôn bắt kẻ khác phải bận rộn hầu hạ nó. Một đứa bé trong gia đình thường hành hạ mọi người biết bao! Mẹ nó không thể ra khỏi nhà, phải có một người đầy tớ nuôi nấng nó; nó cần được chăm non, săn sóc luôn luôn. Dù Chúa Trời làm nên người lớn để chăm non săn sóc kẻ khác nhưng đứa bé cần được kẻ khác chăm non và giúp đỡ. Vậy là có những tín đồ luôn luôn cần được giúp đỡ. Mục sư và anh em trong Chúa phải luôn luôn dạy dỗ và yên ủi họ. Họ đi nhà thờ, đi nhóm họp cầu nguyện, đi dự các hội đồng, nhưng bao giờ cũng vẫn cần được cứu giúp. Đó là dấu hiệu thơ ấu về phần thiêng liêng.

        2. Dấu hiệu thứ hai của con trẻ là nó không thể làm gì để giúp đỡ kẻ đồng loại.

        Mỗi người đáng phải gom góp một phần nào vào hạnh phước chung của xã hội; mỗi người phải đứng vào một địa vị và phải làm một công việc, nhưng trẻ thơ không thể làm gì để giúp ích chung. Về phần tín đồ cũng vậy. Có một số tín đồ chỉ có thể làm việc ít lắm! Nói là họ dự phần công việc Chúa nhưng họ ít vận dụng quyền phép thiêng liêng và ít truyền ơn phước thật cho kẻ khác.

        Mỗi người trong chúng ta há chẳng nên tự hỏi rằng: “Tôi đã lớn vượt quá tuổi thơ ấu thiêng liêng chưa? Một số người sẽ phải trả lời rằng: “Không, tôi đã thối lui chớ không tấn tới; sự vui vẻ khi trở lại tin Chúa và sự kính mến ban đầu đã mất rồi”. Họ là trẻ thơ trong Đấng Christ; họ vẫn là người xác thịt.

        3. Dấu hiệu thứ ba của địa vị xác thịt là họ luôn luôn phạm tội và thất bại.

        Sứ đồ Phao-lô nói rằng: “3 Thật, bởi trong anh em có sự ghen ghét và tranh cạnh, anh em há chẳng phải là tánh xác thịt ăn ở như người thế gian sao?” (I Cô-rinh-tô 3:3). Đây, một người có tánh nóng giận! có lẽ là ông Mục sư, hoặc là kẻ rao truyền Tin lành, hoặc là giáo sư Trường Chúa Nhật. Ông rất sốt sắng nhóm họp cầu nguyện nhưng thường tỏ lòng tranh cạnh, cay đắng, hoặc ganh tị. Thơ Ga-la-ti 5:19-21 cho ta biết rằng “các việc làm của xác thịt” cốt nhứt là “tranh đấu, ghen ghét”. Anh em tín đồ phải hợp tác với nhau, nhưng bao phen chúng ta thấy họ chia rẽ và cay đắng! Nguyện Đức Chúa Trời thương xót chúng ta, vì “trái Thánh Linh…là lòng yêu thương” (Gal 5:22), thường không thấy giữa vòng con cái Ngài.

        Anh em hỏi rằng: “Tại sao trong 20 năm nay, tôi vẫn chiến đấu với tánh nóng giận?” Anh em chưa thấy rằng ấy chỉ là vì anh em ở trong địa vị xác thịt, và chưa đầu phục Thánh Linh của Đức Chúa Trời một cách xứng hợp hay sao? Có lẽ chưa ai từng dạy cho anh em biết điều đó; có lẽ anh em chưa từng thấy điều đó trong Kinh Thánh; có lẽ anh em chưa từng tin điều đó. Nhưng quả có như vậy; lẽ thật của Đức Chúa Trời còn nguyên, cho đến muôn đời cũng không thay đổi. Đức Chúa Jêsus có thể giúp chúng ta đắc thắng tội lỗi, có thể giữ cho chúng ta khỏi phạm tội thực sự.

        Giữa vòng hoạt động của tín đồ Đấng Christ, chúng ta thấy biết bao nhiêu là kẻ ham mến thế gian, là kẻ đầy dục vọng loài người, là kẻ tìm danh vọng từ người ta mà đến. Mọi sự đó là bông trái của sự sống xác thịt. Chúng ta hãy nhớ rằng địa vị xác thịt là một địa vị luôn luôn phạm tội và thất bại. Đức Chúa Trời muốn chúng ta chẳng những xưng các tội lỗi riêng của mình ra, song cũng muốn ta nhìn nhận rằng các tội lỗi ấy là dấu hiệu tỏ ra ta không sống một đời thiêng liêng mạnh mẽ - ta còn là người xác thịt.

        4. Dấu hiệu thứ tư là ta có thể thấy địa vị xác thịt nầy cùng chung với những ân tứ thiêng liêng cao quý.

        Ân tứ khác ân điển (hoặc là vẻ đẹp). Các ân điển của Đức Thánh Linh là sự khiêm nhường và yêu thương, giống như sự khiêm nhường và yêu thương của Đấng Christ. Các ân điển của Đức Thánh Linh cốt để buông tha người ta thoát khỏi bổn ngã; còn ân tứ của Đức Thánh Linh cốt để làm cho người ta đủ tư cách hầu việc Đức Chúa Trời.

        Chúng ta thấy điều này tỏ rõ trong anh em tín đồ Cô-rinh-tô. Ở đoạn thứ nhất, sứ đồ Phao-lô nói rằng: “Tôi hằng vì anh em tạ ơn Đức Chúa Trời, bởi cớ anh em đã được Đức Chúa Trời ban ơn trong Đức Chúa Jêsus Christ; 5 vì chưng anh em đã được dư dật về mọi điều ban cho, cả lời nói và sự hiểu biết,” (câu 4,5). Trong đoạn 12 và đoạn 14, chúng ta thấy những ân tứ nói tiên tri và làm phép lạ hành động rất có quyền phép ở giữa vòng họ; nhưng rõ ràng là không có các ân điển của Đức Thánh Linh.

        Ngày nay cũng có thể có như đương thời các tín đồ Cô-rinh-tô. Tôi có thể là một người rao truyền Tin Lành; tôi có thể dạy lời Đức Chúa Trời rất tài giỏi; tôi có thể có ảnh hưởng và gây dựng được một chi hội đông đúc. Nhưng than ôi! Tôi có thể vẫn là một người xác thịt, dầu là một người được Đức Chúa Trời dùng, một người truyền ơn phước cho kẻ khác, nhưng sự sống xác thịt vẫn còn là đặc tánh của tôi.

        Anh em đều biết định luật nầy: Vật nào cũng được đặt tên theo cái đặc tánh trổi nhất của nó. Vả trong anh em tín đồ xác thịt ở Cô-rinh-tô cũng có một ít Thánh Linh Đức Chúa Trời, nhưng xác thịt cai trị mạnh mẽ hơn cả, chớ Đức Chúa Trời không cai trị tất cả đời sống của họ. Còn người thiêng liêng được gọi là thiêng liêng vì trong họ không còn bổn tánh xác thịt, nhưng vì Đức Thánh Linh đã cầm quyền cai trị ở trong họ. Khi anh em gặp họ và trò chuyện, giao thông với họ thì cảm thấy rằng Thánh Linh của Đức Chúa Trời đã làm cho họ nên thánh. Ôi! Chúng ta hãy coi chừng kẻo ơn phước mà Đức Chúa Trời ban cho công việc ta sẽ phỉnh gạt ta và sẽ khiến ta nghĩ rằng vì Ngài đã ban phước cho ta thì chắc hẳn ta là người thiêng liêng rồi. Đức Chúa Trời có thể ban cho chúng ta những ân tứ mà ta sử dụng nhưng có thể đời sống chúng ta vẫn chưa hoàn toàn đầu phục quyền phép của Đức Thánh Linh.

        Phải từ “địa vị xác thịt” mà vượt qua “địa vị thiêng liêng”, sứ đồ Phao-lô hỏi rằng: “Hỡi anh em, ví bằng có người nào tình cờ phạm lỗi gì, anh em là kẻ có Đức Thánh Linh, hãy lấy lòng mềm mại mà sửa họ lại”. Đây, ta thấy dấu hiệu của một người thiêng liêng, ấy là người có lòng mềm mại (hoặc nhu mì), có quyền phép cùng sự yêu thương để giúp đỡ và phục hưng những kẻ đã sa ngã. Người xác thịt không thể làm như vậy.

        Từ địa vị xác thịt vào địa vị thiêng liêng chỉ có một bước thôi. Một bước thôi! Đó là tin tức hạnh phước mà tôi truyền cho anh em. Chỉ có một bước thôi. Tôi biết nhiều người sẽ không chịu rằng chỉ có một bước thôi, họ tưởng như vậy thì là ít quá đối với sự thay đổi mạnh mẽ dường ấy! Nhưng sự hối cải há chẳng phải chỉ là một bước thôi sao? Khi một tín đồ từ địa vị xác thịt mà vào địa vị thiêng liêng, thì cũng như vậy.

        Anh em sẽ hỏi rằng: “Sự từng trải đó xảy đến trong một ngày chăng? Không có sự lớn lên trong bậc thánh khiết sao?”

        Tôi xin đáp rằng: sự trưởng thành thiêng liêng không thể thực hiện trong một ngày. Chúng ta không thể nào trông mong như vậy. Chúng ta phải lần lần lớn lên cho đến khi tất cả vẻ đẹp của hình ảnh Đấng Christ được tạo nên trong mình. Nhưng tôi cứ quả quyết rằng người ta chỉ cần đi một bước thôi để từ sự sống xác thịt qua sự sống thiêng liêng. Khi tín đồ hoàn toàn tuyệt giao với xác thịt; khi họ phó xác thịt cho bị đóng đinh vào thập tự giá với Đấng Christ; khi họ thấy mọi sự thuộc về xác thịt đã bị rủa sả và mình không thể nào tự giải thoát khỏi nó; khi họ đòi xin quyền phép của thập tự giá Đấng Christ giết chết xác thịt trong mình thì họ mới hiểu biết tại sao chỉ một bước thôi lại có thể đưa họ ra khỏi địa vị xác thịt mà vào địa vị thiêng liêng.

        Trong đời sống thiêng liêng nầy, chúng ta vẫn còn phải học tập nhiều điều. Ta vẫn còn nhiều chỗ bất toàn. Đời sống thiêng liêng chưa trọn vẹn đâu nhưng “thiêng liêng” sẽ là đặc tánh trổi nhất. Khi tín đồ đã phó mình trọn vẹn cho quyền phép chân thật, linh động, hoạt động và hay cai trị của Thánh Linh Đức Chúa Trời, thì họ đã bước vào địa vị xứng hợp có thể lớn lên.

        Anh em không hề suy nghĩ rằng mình có thể từ bịnh tật mà lớn lên và lành mạnh. Anh em có thể từ sự yếu đuối mà lớn lên và mạnh mẽ, cũng như trẻ thơ có thể lớn lên làm một người lực lưỡng.

        Những nơi nào có bệnh tật, thì phải chữa lành bệnh trước đã. Có một số tín đồ tưởng mình có thể từ địa vị xác thịt lớn lên tới địa vị thiêng liêng. Anh em không bao giờ làm được như vậy. Cái gì có thể giúp đỡ được tín đồ xác thịt trong Hội thánh Cô-rinh-tô? Cho họ ăn sữa thì chẳng giúp đỡ họ chi hết, vì sữa là bằng chứng rằng họ ở trong địa vị không xứng hợp. Cho họ ăn thịt thì cũng không giúp đỡ họ chi hết, vì họ chưa đủ tư cách ăn thịt. Họ cần con dao của thầy thuốc mổ xẻ. Sứ đồ Phao-lô nói rằng: “Vả, những kẻ thuộc về Đức Chúa Jêsus Christ đã đóng đinh xác thịt với tình dục và dâm dục mình trên thập tự giá rồi.”(Ga-la-ti 5:24).

        Khi tín đồ hiểu ý nghĩa của điều đó và tiếp nhận điều đó bởi lòng tin rằng công việc Đấng Christ có thể làm được, thì chỉ một bước có thể đưa họ từ địa vị xác thịt đến địa vị thiêng liêng.

        Chỉ tin quyền phép sự chết của Đấng Christ, chỉ lấy lòng đầu phục mà thông công với sự chết của Ngài như Đức Thánh Linh có thể thực hiện trong mình, thì ta sẽ được buông tha, không cần cố gắng.

        Anh em phải thấy rằng Đấng Christ hằng sống là phương pháp Đức Chúa Trời dự bị cho đời sống thánh khiết và thiêng liêng của anh em. Anh em phải tin rằng Đấng Christ trước kia đã lấy lòng yêu thương lạ lùng mà tiếp nhận anh em khi anh em trở lại cùng Ngài, thì bây giờ Ngài cũng đang chờ đợi để phán với anh em rằng anh em có thể trở nên người thiêng liêng và hoàn toàn đầu phục Đức Chúa Trời.

        Tín đồ phải bước bước ấy, tức là bước trọng thể nhưng đầy dẫy hạnh phước. – trong anh em, có người phải mất 5 năm, 10 năm rồi mới bước bước hối cải. Anh em than thở và tìm kiếm, nhưng không thể nào tìm được sự bình an trước khi đến bước hối cải. Cũng vậy, trong đời thiêng liêng, anh em có thể đi đến mục sư nầy rồi mục sư kia mà rằng: “Xin nói cho tôi nghe về sự sống thiêng liêng, về phép báp têm bằng Đức Thánh Linh, về sự thánh khiết.” – nhưng trước ở địa vị nào, bây giờ anh em vẫn ở địa vị ấy.

        Nhiều người trong vòng chúng ta thích được cất bỏ tội lỗi đi. Ai là kẻ thích có tánh nóng giận hoặc tánh kiêu ngạo? Ai là người thích có tấm lòng ham mến thế gian? Chẳng có một ai. Chúng ta đến cùng Đấng Christ để xin Ngài cất bỏ mọi tội ấy đi nhưng Ngài không cất bỏ. Rồi chúng ta hỏi rằng: “Tại sao Chúa không chịu cắt bỏ? Tôi đã cầu nguyện rất sốt sắng!” Ấy là vì anh em muốn Ngài cắt bỏ những bông trái hư xấu, gớm ghiếc, còn gốc rễ độc địa thì vẫn còn nguyên trong anh em. Anh em không cầu xin Ngài đóng đinh bản tánh xác thịt của mình vào thập tự giá, và không hứa nguyện từ nay trở đi sẽ phó mình trọn vẹn cho quyền phép của Thánh Linh Ngài.

        Có sự giải cứu, nhưng không phải là theo cách chúng ta tìm kiếm. Thí dụ, một họa sĩ có tấm vải muốn vẽ một phong cảnh đẹp. Nhưng, tấm vải đó không thuộc hẳn về ông và bất cứ người nào cũng có quyền lấy nó làm vô luận việc nào khác. Như vậy, anh em tưởng họa sĩ sẽ thi thố hết tài năng mình trên tấm vải đó chăng? Chắc không. Nhưng mặc dầu trong lòng người ta chưa hoàn toàn đầu phục Đức Chúa Jêsus Christ để vâng mạng lệnh Ngài và được Ngài gìn giữ, thế mà họ lại muốn Ngài đoái thương cắt bỏ tánh nóng giận hoặc tội lỗi nào khác đi. Không thể có như vậy được. Nhưng nếu anh em đến cùng Ngài và giao phó tất cả đời mình cho Ngài đảm nhiệm, thì Đức Chúa Jêsus Christ sẽ có trọn quyền năng để cứu anh em. Ngài chờ đợi để ban ân điển cho anh em và làm cho anh em đầy dẫy Đức Thánh Linh.

        Anh em há chẳng muốn đi bước nầy sao? Nguyện Đức Chúa Trời khiến chúng tôi chịu Đức Thánh Linh dắt dẫn mà phó mình trọn vẹn cho Ngài hơn mọi khi trước! Anh em há chẳng sẽ hạ mình xuống mà xưng nhận rằng: “Sự sống xác thịt đã cai trị mạnh mẽ quá, đã in sâu vào tôi đến nỗi tôi đắng cay cảm thấy rằng mặc dầu mọi ơn phước Đức Chúa Trời đã ban cho tôi, Ngài vẫn chưa có thể khiến tôi trở nên một người thiêng liêng như ý tôi mong muốn, hay sao?” Chỉ có Đức Thánh Linh ngự trong lòng thì mới làm cho một người trở nên thiêng liêng được.

        Vậy, anh em hãy đến, hãy gieo mình nơi chân Đức Chúa Trời và trong tâm trí chỉ suy nghĩ rằng: “Lạy Chúa, tôi xin dâng mình cho Ngài như một cái bình trống không để được đầy dẫy Thánh Linh Ngài.” Hằng ngày anh em thấy bát, đĩa, chén, ly đó đã rửa sạch và đang trống không, sẵn sàng để được đổ đầy dẫy. Nó đã được vơi hết và được tẩy sạch.

        Ôi! Anh em hãy đến như một cái bình đã được biệt riêng để nhận lãnh vật nó phải chứa đựng. Anh em hãy thưa cùng Đấng Christ rằng kể từ giờ phút nầy trở đi, anh em muốn làm một cái bình biệt riêng ra để được đầy dẫy Thánh Linh Ngài và được trở nên một người thiêng liêng. Hãy trút vơi hết mọi sự trong linh hồn mình, cúi đầu xuống và thưa với Chúa rằng: “Ôi! Lạy Đức Chúa Trời, tôi không có chi hết!” Như vậy, đang khi sấp mình trước mặt Ngài anh em chắc cũng có quyền nói rằng: Đức Chúa Trời tôi sẽ làm trọn lời hứa của Ngài. Tôi đòi xin Ngài cho tôi được Đức Thánh Linh đầy dẫy; hầu cho tôi trở nên một tín đồ thiêng liêng, chớ không làm tín đồ xác thịt nữa.

        Nếu anh em sấp mình nơi chân Ngài và cứ ở yên tại đó, nếu anh em cứ khiêm nhường hàng phục Ngài và tin cậy Ngài như một trẻ thơ, thì Đức Chúa Trời hằng sống thể nào, ơn phước sẽ tràn xuống thể ấy. Ôi! Khi suy nghĩ về tất cả Hội Thánh Ngài và thấy bản tánh xác thịt trổi mạnh bội phần thì chúng ta há chẳng nên cúi đầu xấu hổ trước mặt Đức Chúa Trời sao? Khi suy nghĩ về bản tánh xác thịt trổi mạnh bội phần trong tấm lòng đời sống mình thì chúng ta há chẳng nên cúi đầu xuống mà hết lòng tin sự thương xót của Đức Chúa Trời. Vì sự giải cứu rất gần, sự giải cứu đang đến, sự giải cứu đang chờ đợi, sự giải cứu chắc chắn. Chúng ta hãy tin cậy, thì Đức Chúa Trời sẽ ban sự giải cứu cho.

CHƯƠNG II

SỰ SỐNG BỔN NGÃ

“Đức Chúa Jêsus bèn phán cùng môn đồ rằng: Nếu ai muốn theo ta, thì phải liều mình, vác thập tự giá mình mà theo ta.”

(Ma-thi-ơ 16:24)

        

        Trong sách Ma-thi-ơ 16:13, chúng ta thấy tại thành Sê-sa-rê Phi-líp, Đức Chúa Trời hỏi các môn đồ Ngài rằng: “Theo lời người ta nói thì Con người là ai” Khi họ trả lời rồi, thì Ngài hỏi thêm: “Còn các ngươi thì xưng ta là ai?”(câu 15). Tới câu 16, Phi-e-rơ đáp: “Chúa là Đấng Christ, Con Đức Chúa Trời hằng sống.” Đức Chúa Jêsus bèn phán với ông rằng: “Hỡi Si-môn, con Giô-na, ngươi có phước đó; vì chẳng phải thịt và huyết tỏ cho ngươi biết điều nầy đâu, bèn là Cha ta ở trên trời vậy.” (câu 17). Rồi tới câu 21, chúng ta thấy Đức Chúa Jêsus bắt đầu phán cho các môn đồ biết Ngài gần phải chịu chết. Tới câu 22, Phi-e-rơ khuyên can Ngài rằng: “Hỡi Chúa, Đức Chúa Trời nào nỡ vậy! Sự đó sẽ không xảy đến cho Chúa đâu!” Nhưng Đức Chúa Jêsus xây mặt lại mà phán cùng Phi-e-rơ rằng: “Ớ, Satan, hãy lui ra đằng sau ta! Ngươi làm gương xấu cho ta; vì ngươi chẳng nghĩ đến việc Đức Chúa Jêsus, song nghĩ đến việc người ta” (câu 23). Rồi Ngài phán cùng các môn đồ rằng: “Nếu ai muốn theo ta, thì phải liều mình vác thập tự giá mà theo ta.” (câu 24).

        Chúng ta thường nghe nói về đời sống thỏa thuận với thế gian và phải hỏi rằng: Cái gì là gốc rễ của đời sống như vậy? Tại sao rất đông tín đồ Đấng Christ bỏ phí đời sống của mình trong vòng tôi mọi ghê gớm của thế gian, chớ không sống để tỏ ra đặc quyền và vinh quang của con cái Đức Chúa Trời? và có lẽ một câu hỏi điều gì trái lẽ và gắng sức chiến đấu với nó, thì lại không thắng được nó? Tại sao chúng ta đã cầu nguyện và thề hứa một trăm lần, nhưng hiện nay vẫn còn sống một đời pha lộn với thế gian, chia sẻ giữa thiện, ác và phân tâm?

        Chỉ có một cách đáp lại hai câu hỏi ấy: Bổn ngã là cội rễ của tất cả sự bối rối, đau đớn đó. Vậy nên nếu ai hỏi tôi: Tôi làm thế nào mà thoát khỏi đời sống thỏa thuận với thế gian?” – thì tôi sẽ không đáp: “Anh em phải làm điều nầy, điều kia, điều nọ.” nhưng tôi đáp rằng: “Sự sống mới từ thiên thượng, tức là sự sống của Đấng Christ, phải thế cho sự sống bổn ngã; chỉ khi ấy, chúng ta mới toàn thắng được.”

        Chúng ta luôn luôn đi từ phía ngoài vào phía trong; chúng ta cũng hãy làm như vậy ở đây. Chúng ta hãy xem xét một chữ trong câu gốc trên đây, tức là chữ “mình” (hoặc dịch là: “bổn ngã của mình”). Đức Chúa Jêsus phán cùng Phi-e-rơ rằng: “Nếu ai muốn theo ta, thì phải liều (hoặc: “từ bỏ”) bổn ngã của mình, vác thập tự giá mà theo ta”. Đó là dấu hiệu của môn đồ Đấng Christ và là bí quyết của đời sống thiêng liêng. Hãy từ bỏ bổn ngã, thì mọi ơn phước sẽ tràn đến ngay.

        Hãy chú ý điều nầy: Phi-e-rơ là một tín đồ và là một tín đồ đã được Đức Thánh Linh dạy dỗ. Ông đã trả lời một câu làm cho Đấng Christ thỏa lòng lạ lùng: “Chúa là Đấng Christ, Con Đức Chúa Trời hằng sống” (Mat 16:16).

        Anh em chớ tưởng rằng đó không phải là một sự phi thường. Bởi chúng ta đã học điều đó trong sách Phước Âm Chiếu Chỉ, nhưng Phi-e-rơ không học bao giờ; vậy Đấng Christ thấy là Thánh Linh của Đức Chúa Cha đã dạy dỗ ông, nên Ngài phán rằng: “Hỡi Si-môn, con Giô-na, ngươi có phước đó” (Ma-thi-ơ 16:17). Nhưng anh em hãy chú ý: Người xác thịt vẫn còn ở trong Phi-e-rơ. Bây giờ Đấng Christ phán về thập tự giá của Ngài. Phi-e-rơ có thể hiểu biết sự vinh hiển: “Chúa là Đấng Christ, Con Đức Chúa Trời hằng sống” nhưng không thể hiểu thập tự giá và sự chết. Ông dám tự tin mà liều thưa với Chúa: “Hỡi Chúa, sự đó sẽ không xảy đến, Chúa sẽ không thể nào bị đóng đinh vào thập tự giá và chết”. Đấng Christ phải quở trách ông: “Ớ, Satan, hãy lui ra đằng sau ta! Ngươi làm gương xấu cho ta; vì ngươi chẳng nghĩ đến việc Đức Chúa Trời.” Ngài có ý phán rằng: “Ngươi nói như người xác thịt, chớ không theo Đức Thánh Linh dạy ngươi.” Rồi Ngài cứ phán tiếp: “Hãy nhớ không phải chỉ một mình ta bị đóng đinh vào thập tự giá mà thôi, nhưng cả ngươi nữa. Nếu ai muốn làm môn đồ ta, thì phải từ bỏ bổn ngã và vác thập tự giá mình mà theo ta.

        Tôi xin nhấn mạnh vào hai chữ: “Bổn ngã”. Chỉ khi nào học biết bổn ngã thật là gì thì chúng ta mới thật biết cái gì là cội rễ mọi sự thất bại của mình và mới sẵn sàng đến cùng Đấng Christ để được giải cứu.

        1. Tánh chất của bổn ngã:

Bổn ngã là cái khả năng mà Đức Chúa Trời đã dựng nên và phú cho mọi loài có trí khôn. Bổn ngã là chính trung tâm của một vị thọ tạo. Tại sao Đức Chúa Trời đã ban cho thiên sứ và loài người có bổn ngã? Mục đích của bổn ngã nầy là cốt để chúng ta có thể đem nó đến dâng Đức Chúa Trời như một cái bình trống không, cốt để Ngài có thể đổ sự sống của Ngài vào đó. Đức Chúa Trời đã cho tôi quyền tự quyết để tôi có thể hằng ngày đem bổn ngã đến cùng Ngài mà thưa rằng: “Ôi, lạy Đức Chúa Trời! xin Ngài làm việc trong bổn ngã của tôi; tôi xin dâng nó cho Ngài.”

        Đức Chúa Trời muốn có một cái bình để Ngài đổ sự đẹp đẽ, sự khôn ngoan và quyền phép đầy dẫy của Ngài vào. Vậy nên Ngài đã dựng nên thế gian, mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao, cây cối, hoa cỏ; mọi vật đó bày tỏ sự khôn ngoan, đẹp đẽ và nhân lành đầy trọn của Ngài. Nhưng các vật đó làm như vậy mà không tự biết. Khi ấy Đức Chúa Trời dựng nên thiên sứ, có ý chí và bổn ngã, để xem họ có tình nguyện đầu phục Ngài như những bình chịu cho Ngài làm đầy dẫy chăng. Nhưng tiếc thay! Không phải hết thảy thiên sứ đã đầu phục Ngài như vậy. Có một thiên sứ trưởng đứng đầu một đoàn đông; hắn bắt đầu nhìn xem mình, bắt đầu suy nghĩ về những khả năng lạ lùng mà Đức Chúa Trời đã phú cho hắn và bắt đầu tự lấy làm thỏa mãn. Hắn bèn suy nghĩ rằng: “Một vị như ta há lại phải luôn luôn phụ thuộc Đức Chúa Trời sao?” Hắn tự tôn lên thì sự kiêu ngạo đã phân rẽ hắn với Đức Chúa Trời. Chính lúc đó hắn trở nên một con quỷ ở địa ngục, chớ không còn là một thiên sứ ở Thiên đàng nữa. Bổn ngã xây về Đức Chúa Trời thì là sự vinh hiển vì để cho Đấng Tạo Hóa bày tỏ chính mình Ngài trong chúng ta. Bổn ngã xây khỏi Đức Chúa Trời thì là chính sự tối tăm và lửa của địa ngục.

        Chúng ta đều biết mọi sự khủng khiếp đã xảy ra về sau: Đức Chúa Trời dựng nên loài người và quỷ Satan đã mượn hình con rắn đến cám dỗ Ê-va, khiến bà nghĩ rằng mình sẽ hóa nên giống như Đức Chúa Trời, có một bổn ngã tự lập, biết điều thiện và điều ác. Đang khi nó nói với bà, thì bởi những lời đó, nó thở vào bà chính thuốc độc và sự kiêu ngạo của địa ngục. Chính tinh thần gian ác của nó đã nhập vào loài người và chúng ta ai nấy đã thừa hưởng cái bổn ngã bị rủa sả do tổ tông truyền lại. Chính bổn ngã đó đã làm hư hoại và hủy diệt thế gian nầy, gây nên biết bao tội lỗi, tối tăm, khổ sở và khốn nạn.

        2. Những công việc của bổn ngã:

Những công việc của bổn ngã là gì? Tôi có thể kể ra nhiều công việc, nhưng chúng ta hãy dùng những tiếng đơn sơ hơn hết mà ta thường dùng - ấy là ý riêng, sự tự tin và sự tự tôn. Ý riêng và sự làm thỏa mãn bổn ngã ta tội nặng của loài người. Nó là gốc rễ của mọi sự thỏa thuận với thế gian, gây cho biết bao kẻ bị điêu tàn. Người ta không thể hiểu biết tại sao họ lại không làm đẹp lòng mình và làm theo ý muốn của mình. Rất đông tín đồ chưa hề hiểu biết cái ý tưởng nầy: Tín đồ Đấng Christ là người không bao giờ được tìm kiếm ý riêng của mình, nhưng phải luôn luôn tìm kiếm ý muốn của Đức Chúa Trời như một người có tinh thần Đấng Christ sống trong mình.

        Khi đến thế gian, Đấng Christ đã thưa với Đức Chúa Trời rằng: “Hỡi Đức Chúa Trời, nầy tôi đến – trong sách có chép về tôi – tôi đến để làm theo ý muốn Chúa.” (Hê-bơ-rơ 10:7). Chúng ta thấy nhiều tín đồ làm đẹp lòng mình bằng một ngàn cách, nhưng họ vẫn thử làm người sung sướng, nhân lành và hữu ích. Họ không biết rằng ở gốc rễ mọi sự đó có ý riêng cướp mất ơn phước của họ. Đấng Christ phán cùng Phi-e-rơ rằng: “Hỡi Phi-e-rơ, hãy từ bỏ mình đi[1]” nhưng ông chẳng làm như vậy, mà lại nói rằng: “Tôi sẽ chối Chúa, chớ không chối bổn ngã của tôi.” Ông không nói điều đó ra lời nhưng trong đêm cuối cùng, Đấng Christ đã phán cùng ông rằng: “Ngươi đã chối ta” (Ma-thi-ơ 26:34). Và thật ông đã chối Ngài.

        Nguyên nhân mọi sự đó là gì? Là sự làm đẹp lòng mình. Khi người đầy tớ gái cáo ông là thuộc về Đức Chúa Jêsus, thì ông đâm sợ và ba lần nói rằng: “Tôi không biết người đó. Tôi không có gì liên lạc với người đó hết”. Ông đã chối Đấng Christ. Anh em hãy suy nghĩ về điều đó một chút! Ông phải chọn hoặc một bổn ngã xấu xa và bị rủa sả hoặc Con Đức Chúa Trời đẹp đẽ và đáng kính thờ. Và ông đã chọn bổn ngã. Nào có lạ gì, về sau ông nghĩ rằng: “Tôi đã chối Đức Chúa Jêsus, chớ không chối bổn ngã của mình. Tôi đã lựa chọn tai hại biết bao!” Ông khóc lóc đắng cay nào có lạ gì.

        Hỡi anh em tín đồ, hãy nhìn xem đời sống của mình trong ánh sáng của những lời Đấng Christ đã phán. Anh em có thấy trong đời mình có ý riêng và sự tự làm đẹp lòng mình chăng? Hãy nhớ điều nầy: Mỗi lần làm đẹp lòng mình thì anh em chối Đức Chúa Jêsus đó. Anh em phải chọn một trong hai điều nầy: hoặc chối bổn ngã và làm đẹp lòng Ngài mà thôi, hoặc làm đẹp lòng mình và chối Ngài.

        Theo sau sự làm đẹp lòng mình có sự tự tin, tự thị, tự cố gắng và tự lập. Cái gì đã làm cho Phi-e-rơ chối Đức Chúa Jêsus? Đấng Christ đã cảnh cáo ông: tại sao ông không để ý tới lời cảnh cáo của Ngài? Ấy vì ông tự tin. Ông tin chắc ở nơi mình quá. Ông thưa với Chúa rằng: “Lạy Chúa, tôi yêu mến Ngài. Tôi đã theo Ngài ba năm nay. Lạy Chúa, không bao giờ tôi có thể chối Ngài, theo như lời Ngài cảnh cáo đó. Tôi sẵn lòng chịu tù và chịu chết.” Đó chỉ là sự tự tin.

        Nhiều người thường hỏi tôi rằng: “Tại sao tôi thất bại? Tôi rất sốt sắng ước mong và cầu nguyện cho được sống theo ý chỉ của Đức Chúa Trời”. Tôi luôn luôn đáp lại: “Ấy chỉ vì anh em tin cậy nơi mình”. Họ cãi: “Không, tôi không tin cậy nơi mình. Tôi biết Đức Chúa Trời sẵn lòng gìn giữ tôi và tôi sẵn lòng tin cậy nơi Đức Chúa Jêsus”. Nhưng tôi đáp: “Không, anh em ơi! Không, nếu anh em tin cậy Đức Chúa Trời và Đức Chúa Jêsus, thì anh em không thể thất bại; nhưng thật ra anh em vẫn tin cậy mình.” Chúng ta hãy tin quyết rằng mọi sự thất bại trong đời tín đồ của chúng ta là do sự tự tin mà thôi. Tôi tin cậy bổn ngã đã bị rủa sả nầy, chớ không tin cậy Đức Chúa Jêsus. Tôi tin cậy sức riêng của mình, chớ không tin cậy sức toàn năng của Đức Chúa Trời. Đó là duyên cớ Đức Chúa Jêsus phán rằng: “Bổn ngã nầy phải bị chối bỏ”.

        Rồi tới sự tự tôn cao, là một hình thức khác của các công việc bổn ngã. Ôi! Giữa vòng tín đồ Đấng Christ, có biết bao nhiêu sự kiêu ngạo và ghen ghét; biết bao nhiêu sự xúc cảm khi nghe kẻ nói hoặc suy nghĩ về mình; biết bao nhiêu sự ước mong làm cho đẹp lòng người ta và được người ta khen ngợi, chớ không luôn luôn sống trong hiện diện của Đức Chúa Trời với một ý tưởng nầy mà thôi: “Tôi có làm đẹp lòng Chúa chưa?” Đấng Christ đã phán rằng: “Các ngươi vẫn chịu vinh hiển lẫn của nhau, không tìm kiếm vinh hiển bởi một mình Đức Chúa Trời đến thì thể nào các ngươi tin được.” (Giăng 5:44). Chịu vinh hiển lẫn của nhau thì làm cho ta không thể sống bởi đức tin một chút nào được. Bổn ngã nầy đã do địa ngục mà dấy lên; nó đã phân rẽ chúng ta với Đức Chúa Trời và là một tay lừa đối đáng rủa sả kéo ta xa Đức Chúa Trời.

        3. Chúng ta phải làm gì để thoát khỏi bổn ngã?

Đức Chúa Trời trả lời chúng ta bằng chính lời Ngài phán trong câu gốc trên kia: “Nếu ai muốn theo ta thì phải liều mình vác thập tự giá mình mà theo ta.” Anh em hãy gết sức chú ý điều đó. Tôi phải chối mình; tôi phải lựa chọn. Có hai sự sống: Sự sống của bổn ngã và sự sống của Đấng Christ, tôi phải chọn một trong hai cái đó.

        Chúa chúng ta phán rằng: “Hãy theo ta; hãy lấy ta mà định luật của đời ngươi, làm mực thước của hành vi ngươi, thì ta sẽ chăm lo mọi sự cho ngươi”. Hỡi anh em, chúng ta đứng trước một sự thực nghiêm trọng: Đã thấy bổn ngã đầy dẫy kiêu ngạo và tội ác nầy, chúng ta phải đến gieo mình trước mặt Con Đức Chúa Trời mà thưa với Ngài rằng: “Tôi xin chối bỏ sự sống của tôi và nhận sự sống của Ngài làm sự sống của tôi.

        Tại sao nhiều tín đồ cầu nguyện nhiều lần xin sự sống của Đấng Christ tràn vào lòng mình, nhưng không có kết quả? Ấy vì họ không chối bỏ sự sống bổn ngã. Anh em hỏi: “Tôi làm thế nào mà thoát khỏi sự sống bổn ngã nầy?” Anh em đều biết thí dụ mà Đức Chúa Jêsus đã phán (Luca 11:21-26): Người mạnh giữ nhà cho đến khi có người mạnh hơn đến đuổi hắn ra ngoài. Nhà bèn được bày biện và quét dọn, nhưng chưa có ai ở. Người mạnh bèn trở về, kéo theo bảy con quỷ dữ ác hơn nó. Chỉ có chính Đấng Christ ngự vào lòng ta thì mới tống đuổi bổn ngã ra, không cho nó quay về nữa.

        Dầu vậy, bổn ngã nầy sẽ ở cùng chúng ta cho đến cuối cùng. Hãy nhớ sứ đồ Phao-lô: Ông đã được sự hiện thấy trên trời; Chúa sợ ông vì đó mà đem mình lên, nên sai một cái giằm xóc vào thịt ông để hạ ông xuống (II Cô-rinh-tô 12:5-10). Ông có ý đem mình lên, đó là sự tự nhiên, ý ấy có thể thắng ông nhưng Đấng Christ đã giải thoát ông khỏi ý ấy bằng cách trung tín chăm nom tôi tớ yêu dấu của Ngài. Bởi ân điển thiên thượng của Ngài, Đức Chúa Jêsus Christ có thể ngăn cản không cho quyền lực của bổn ngã đâm rễ vững bền hoặc trổi hơn và đắc thắng.

        Đức Chúa Trời vui lòng trở nên sự sống của linh hồn chúng ta. Ngài vui lòng dạy cho ta biết cách theo Ngài, biết đặt tấm lòng vào đời sống mình vào một mình Ngài mà thôi đến nỗi Ngài sẽ là sự sáng của linh hồn chúng ta luôn luôn. Bây giờ chúng ta đạt tới bậc mà sứ đồ Phao-lô đã mô tả: “Không phải là tôi sống nữa nhưng Đấng Christ sống trong tôi” (Galati 2:20). Hai lẽ thật nầy đi đôi với nhau: Trước hết “không phải là tôi sống nữa”, rồi thì “Đấng Christ sống trong tôi”.

        Chúng ta lại hãy nhìn xem Phi-e-rơ. Đấng Christ phán cùng ông rằng: “Hãy chối bỏ bổn ngã của ngươi đi và theo ta”. Ông phải theo Chúa đi đâu? Mặc dầu ông đã thất bại nhưng Đức Chúa Jêsus vẫn dắt dẫn ông. Mà Ngài dắt ông đi đâu? Ngài dắt ông đến vườn Ghết-sê-ma-nê; tại đây, ông đã thất bại, vì ông đã ngủ trong lúc đáng phải tỉnh thức, canh giữ và cầu nguyện. Ngài đưa ông đến phía núi Gô-gô-tha, đến nơi ông chối danh Ngài.

        Đó có phải là sự dắt dẫn của Đấng Christ chăng? Tạ ơn Đức Chúa Trời, chính là như vậy. Đức Thánh Linh chưa ngự đến với tất cả quyền phép của Ngài; Phi-e-rơ vẫn còn là một người xác thịt; “phần linh thì muốn lắm, nhưng không thắng được, còn xác thịt thì yếu đuối.” (Ma-thi-ơ 26:41). Đấng Christ đã làm gì? Ngài cứ dắt dẫn Phi-e-rơ cho đến lúc ông tan vỡ, hạ mình và mọp xuống trong sự đau đớn sâu xa. Ngài cứ dắt dẫn ông qua mồ mả, qua sự sống lại và đến ngày lễ Ngũ Tuần có Đức Thánh Linh ngự xuống. Đấng Christ đã ngự đến trong Đức Thánh Linh với tất cả sự sống thiên thượng của Ngàivà khi ấy thì “Đấng Christ sống trong tôi” (Ga-la-ti 2:20).

        Chỉ có một cách giải cứu chúng ta khỏi sự sống bổn ngã nầy. Chúng ta phải đi theo Đấng Christ, để lòng vào Ngài, nghe lời dạy dỗ của Ngàivà hằng ngày phó mình trọn vẹn cho Ngài, hầu cho Ngài trở nên mọi sự cho chúng ta. Như vậy, bởi quyền phép của Đấng Christ, sự chối bỏ bổn ngã sẽ trở nên một thực sự đầy phước và không ngừng. Tôi không bao giờ trông mong tín đồ sẽ đạt tới một bậc mà học có thể nói rằng: “Tôi không có bổn ngã mà chối bỏ”, hoặc rằng: “Tôi không cần phải chối bỏ bổn ngã”. Không, sự thông công với thập tự giá của Đấng Christ đây tức là sự chối bỏ bổn ngã từng giờ, từng lúc, không bao giờ ngừng, bởi ân điển của Đức Chúa Trời.

        Chúng ta phải “bị đóng đinh vào thập tự giá với Đấng Christ.” (Ga-la-ti 2:20). Chúng ta phải sống với Ngài như những kẻ đã “chịu phép báp têm trong sự chết Ngài” (Rôma 6:3). Anh em hãy suy nghĩ về điều đó. Đấng Christ không có bổn ngã đầy tội lỗi, nhưng Ngài có một bổn ngã và Ngài đã phó bổn ngã đó vào sự chết. Trong vườn Ghết-sê-ma-nê, Ngài đã cầu nguyện rằng: “Không theo ý muốn Con” (Ma-thi-ơ 26:39). Ngài đã phó bổn ngã không hề phạm tội đó vào sự chết, hầu cho Ngài lại từ trong mồ mả nhận lãnh bổn ngã đó nơi Đức Chúa Trời, nay đã sống lại và được vinh hiển.

        Ngoài ra con đường Ngài đã đi qua, chúng ta có thể trông mong đi đến Thiên đàng bởi một con đường nào khác chăng? Hãy coi chừng! Hãy nhớ rằng Đấng Christ xuống tận sự chết và mồ mả. Chỉ khi nào chúng ta chết về bổn ngã, nghĩa là theo Đức Chúa Jêsus cho đến tột bậc thì sự giải cứu và sự sống mới tràn đến.

        Bây giờ phải hỏi câu nầy: Bài học mà Chúa dạy đây thì chúng ta thực hành thế nào? Trước hết hãy lấy thì giờ hạ mình xuống trước mặt Đức Chúa Trời mà suy nghĩ về chân tánh của bổn ngã của mình là thế nào. Hẳn ta phải thú nhận rằng các tội lỗi, các khuyết điểm, các sự thất bại, cùng mỗi sự làm ô nhục danh Đức Chúa Trời đều là do bổn ngã mà ra. Sau khi nhận biết như vậy rồi thì hãy thưa với Đức Chúa Trời rằng: “Lạy Chúa, tôi là như vậy đó.” Đoạn, hãy để Đức Chúa Jêsus yêu quý hoàn toàn kiểm soát đời sống chúng ta và tin quyết rằng đời sống của Ngài có thể là đời sống của ta.

        Anh em chớ tưởng rằng thoát khỏi bổn ngã là một việc dễ. Trong sự nhóm họp có sự khuyên mời dâng mình cho Chúa, thì ta dễ thốt một lời hứa nguyện, dâng một lời cầu xin và có một hành động đầu phục Chúa. Nhưng khi Đấng Christ chịu chết trên núi Gô-gô-tha và phó sự sống bổn ngã không hề phạm tội cho Đức Chúa Trời thì là một sự trọng thể biết bao. Chúng ta phó bổn ngã cho sự chết, thì giữa ta và Đức Chúa Trời cũng phải trọng thể như vậy. Quyền phép của sự chết Đấng Christ phải đến hành động trong chúng ta hằng ngày.

        Hãy nghĩ đến chỗ khác nhau rõ rệt biết bao giữa Phi-e-rơ làm theo ý riêng và Đức Chúa Jêsus phó trọn ý riêng cho Đức Chúa Trời. Sự tự tôn của Phi-e-rơ và sự khiêm nhường sâu xa của Chiên Con Đức Chúa Trời khác nhau biết bao. Ngài “có lòng nhu mì, khiêm nhường” trước mặt Đức Chúa Trời và loài người. Có sự khác nhau biết bao giữa sự cậy mình của Phi-e-rơ và sự hoàn toàn đầu phục của Đức Chúa Jêsus đối với Đức Chúa Cha khi Ngài phán rằng: “Ta không tự mình làm điều gì” (Giăng 8:28).

        Chúa kêu gọi chúng ta sống cuộc đời của Đấng Christ và Đấng Christ sẵn lòng tái diễn cuộc đời của Ngài ở trong chúng ta. Nhưng có một điều phải xảy đến trước hết; ấy là chúng ta phải học tập ghét và chối bỏ bổn ngã nầy. Khi chối Đấng Christ, Phi-e-rơ đã nói rằng: “Ta chẳng hề biết người ấy[2]” (Ma-thi-ơ 26:72); cũng một thể ấy, ta phải nói rằng: “Ta chẳng có chi quan hệ với bổn ngã” hầu cho Đức Chúa Jêsus Christ “làm muôn sự trong muôn sự” (I Cô-rinh-tô 15:28).

        Chúng ta hãy hạ mình xuống mà suy nghĩ về bổn ngã đã gây tai hại cho mình và làm nhục nhã cho Đức Chúa Jêsus thể nào, rồi hãy hết lòng sốt sắng cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa, xin dùng sự sáng của Ngài mà tìm ra bổn ngã nầy. Chúng tôi nài xin Ngài phơi nó cho chúng tôi thấy. Xin hãy mở mắt chúng tôi, để chúng tôi thấy bổn ngã đã làm những gì và thấy nó là trở lực độc nhất đã giữ chúng tôi lại”. Chúng ta hãy sốt sắng cầu nguyện như vậy, rồi hãy chầu trước mặt Đức Chúa Trời cho đến khi thoát khỏi mọi sự sanh hoạt tôn giáo, mọi sự từng trải đạo cùng mọi ơn phước mà mình nhận được.

        Khi ấy sẽ có một sự thay đổi quý báu, tức là tín đồ sẽ vui lòng nói và có thể nói rằng: “Một Đấng khác[3] sẽ làm mọi sự cho tôi”. Không thể có sự chi khác. Phải chối bỏ bổn ngã, vác thập tự giá, chết với Đức Chúa Jêsus và theo Ngài mà thôi.

        Nguyện Ngài ban cho chúng tôi ân điển để hiểu biết, nhận lãnh và sống bằng sự sống của Đấng Christ.

CHƯƠNG III

VÀO TRONG SỰ YÊN NGHỈ

“1 Vậy, đang khi còn có lời hứa cho vào sự yên nghỉ Chúa, hãy lo sợ, kẻo trong chúng ta có ai bị trừ ra chăng.”

(Hê-bơ-rơ 4:1)

“11 Vậy, chúng ta phải gắng sức vào sự yên nghỉ đó, hầu cho không có một người nào trong chúng ta theo gương kẻ chẳng tin kia mà vấp ngã.”

(Hê-bơ-rơ 4:11)

        Người ta vào sự yên nghỉ đó cách nào? Tôi muốn đáp lại câu hỏi ấy một cách đơn sơ hơn hết, tôi muốn chỉ tỏ rằng những bước giản dị mà chúng ta phải đi đều gồm trong một hành động độc nhất, là đầu phục và tin.

        1. Tôi tưởng bước thứ nhất là chúng ta phải học tập nói rằng: “Tôi hết lòng tin có sự yên nghỉ trong một đời sống đức tin”.

        Dân Y-sơ-ra-ên đã trải qua hai chặng. Hai chặng nầy đã được bày tỏ một cách tuyệt diệu trong lịch sử của họ ra khỏi nước Ê-díp-tô để rồi dẫn họ vào xứ Ca-na-an. Đó là hai phần trong công ơn cứu chuộc của Đức Chúa Trời.

        Chúng ta có thể ứng dụng điều nầy cho mỗi một tín đồ. Khi anh em hối cải thì Đức Chúa Trời đã dắt đưa anh em ra khỏi nước Ê-díp-tô; và cũng Đức Chúa Trời Toàn năng đó đang mong ước dẫn đưa vào sống trong xứ Ca-na-an. Nhưng biết bao nhiêu tín đồ Đấng Christ cứ lưu lạc trong đồng vắng hơn là chịu để Đức Chúa Trời dắt mình vào hưởng mọi ơn phước mà Ngài đã sắm sẵn cho mình.

        Có người hỏi tôi rằng: “Tôi làm thế nào mà vào sự yên nghỉ được?” Tôi đáp: “Trước hết ông hãy nói: Tôi tin rằng có một sự yên nghỉ mà Đức Chúa Jêsus, là Giô-suê của chúng tôi, có thể dẫn dắt linh hồn tin cậy Ngài vào.” Anh em chỉ cần nhìn xem đồng vắng và xứ Ca-na-an thì sẽ hiểu biết hai cuộc đời khác nhau thế nào, - cuộc đời anh em đang sống và cuộc đời anh em muốn sống.

        Khác nhau những gì? Trong đồng vắng, dân Y-sơ-ra-ên phải đi lưu lạc, quanh quẩn suốt 40 năm. Trong xứ Ca-na-an, họ được yên nghỉ trọn vẹn trên đất mà Đức Ghê-hô-va ban cho mình. Đó là chỗ khác nhau giữa đời sống của một tín đồ đã vào xứ Ca-na-an và một tín đồ chưa vào đó. Người tín đồ chưa vào xứ Ca-na-an thì cứ đi lưu lạc quanh quẩn. Họ đi theo thế gian, rồi trở lại và ăn năn; họ bị sự cám dỗ kéo đi lạc đường, rồi quay về để lại đi lạc nữa. Thật là một cuộc đời lên, xuống không chừng. Trái lại, trong xứ Ca-na-an, có một cuộc đời yên nghỉ, vì linh hồn đã học tập tin cậy Đức Chúa Trời. Tín đồ đã vào xứ Ca-na-an thì nói rằng: “Đức Chúa Trời gần gũi tôi hằng giờ, hằng phút bởi quyền phép cao cả của Ngài.”

        Còn có một chỗ khác nhau nữa: Đời sống trong đồng vắng là một đời sống thiếu thốn. Trong xứ Ca-na-an thì có một đời sống đầy đủ. Trong đồng vắng, chẳng có chi ăn hết và thường khi chẳng có nước uống. Bởi lòng thương xót, Đức Chúa Trời đã cho họ ăn bánh ma-na và uống nước từ vầng đá lưu ra. Nhưng than ôi! Họ không thỏa lòng về mọi sự đó và cuộc đời họ đầy những thiếu thốn, lằm bằm. Nhưng trong xứ Ca-na-an, Đức Chúa Trời ban cho những vườn nho mà họ không phải trồng tỉa; lúa mì dư dật trong xứ đang chờ đợi họ; xứ ấy đượm sữa, mật, sống nhờ mưa trên trời và được Đức Chúa Trời chăm nom săn sóc.

        Ôi! Hỡi anh em tín đồ, hôm nay anh em hãy đến và nói: “Tôi tin rằng cuộc đời buồn thảm và than phiền mà tôi thường sống bấy lâu nay có thể đổi thành một xứ đầy đủ mọi sự cần dùng, có ân điển của Đức Chúa Trời đã cho hằng ngày, hằng giờ.” Chính hôm nay, anh em hãy nói: “Tôi tin rằng có thể có một xứ yên nghỉ cho tôi.”

        Rồi tới chỗ khác nhau thứ ba: Trong đồng vắng, không có sự đắc thắng. Sau khi phạm tội ở Ca-de Ba-nê-a, dân Y-sơ-ra-ên đã thử tiến đánh kẻ thù, nhưng họ đã thua trận. Nhưng trong xứ Ca-na-an, họ đã thắng mọi kẻ thù. Từ thành Giê-ri-cô trở đi, họ thắng hết trận nầy đến trận khác. Cũng một thể ấy, Đức Chúa Trời chờ đợi, Đấng Christ chờ đợi và Đức Thánh Linh chờ đợi mà ban cho chúng ta sự thắng trận hằng ngày. Không phải là Ngài cho ta thoát khỏi sự cám dỗ; không phải như vậy đâu. Nhưng Ngài cho ta nhờ hiệp một với Đấng Christ mà có quyền phép đến nỗi nói được rằng: “ 13 Tôi làm được mọi sự nhờ Đấng ban thêm sức cho tôi.” (Phi-líp 4:13); lại rằng: “37 Trái lại, trong mọi sự đó, chúng ta nhờ Đấng yêu thương mình mà thắng hơn bội phần.” (Rôma 8:37). Nguyện Đức Chúa Trời giúp cho mỗi một tấm lòng nói được như vậy.

        2. Bây giờ tới bước thứ hai: Tôi muốn anh em chẳng những chỉ nói: “Tôi tin có cuộc đời như vậy”, nhưng cũng nói thêm: “Tôi chưa được sống cuộc đời như vậy.”

        Anh em hãy nói như vậy đi. Có lẽ có người nói: “Tôi đã tìm kiếm cuộc đời ấy”. Người khác có lẽ nói: “Tôi chưa hề nghe nói về cuộc đời ấy.” Lại còn kẻ khác có lẽ nói: “Có khi tôi tưởng đã tìm được cuộc đời ấy, nhưng rồi lại mất”. Mỗi người chúng ta hãy có lòng thành thật với Đức Chúa Trời.

        Bây giờ xin hết thảy anh chị em chưa hề tìm được cuộc đời yên nghỉ trong xứ Ca-na-an, hãy thành thật cất tiếng nói rằng: “Lạy Chúa, từ trước tới nay, tôi chưa hề được sống cuộc đời yên nghỉ.” Tại sao cần phải nói như vậy? hỡi anh em yêu dấu, vì nhiều người muôn lần lần và lặng lẽ “lẻn vào” cuộc đời yên nghỉ nầy. Và Đức Chúa Trời không chịu như vậy đâu. Cuộc đời lưu lạc trong đồng vắng của anh em chẳng những làm cho anh em buồn rầu, song cũng làm đầy dẫy tội lỗi và làm nhục danh Đức Chúa Trời. Mỗi bước đi sâu vào ơn cứu rỗi phải do con đường chịu thuyết phục về tội lỗi và xưng nó với Chúa. Vậy nên mỗi một tín đồ hãy sẵn lòng nói rằng: “Tôi chưa sống cuộc đời yên nghỉ, và tôi đang vấn vương tội lỗi. Tôi đã làm nhục danh Đức Chúa Trời. Tôi đã giống như dân Y-sơ-ra-ên. Vì cớ không tin và không vâng lời, tôi đã chọc giận Ngài. Xin Ngài thương xót và tha tội cho tôi.

        Nguyện lời xưng tội kín nhiệm nầy bay lên tới Đức Chúa Trời: “Hỡi ôi! Tôi chưa sống cuộc đời yên nghỉ. Tôi chưa tôn vinh Đức Chúa Trời bởi đời sống trong xứ yên nghỉ.

        3. Rồi tới bước thứ ba: Tôi muốn anh em nói: “Tạ ơn Đức Chúa Trời cuộc đời yên nghỉ nầy là để cho tôi hưởng.”

        Có kẻ nói rằng: “Tôi tin có cuộc đời như vậy, nhưng không phải là để cho tôi hưởng đâu.” Có nhiều tín đồ luôn luôn nói rằng: “Tâm tính tôi rất hay dời đổi; ý chí của tôi tự nhiên rất yếu đuối; còn thiên tánh tôi lại dễ xúc động, dễ tức giận. Tôi không thể nào sống yên nghỉ trong Đức Chúa Trời, không lo phiền chi hết được.”

        Hỡi anh em yêu dấu, xin đừng nói như vậy. Anh em nói như vậy chỉ vì một cớ nầy: Anh em không biết Đức Chúa Trời sẽ làm chi cho mình. Hãy bắt đầu xây khỏi bổn ngã và nhìn lên Đức Chúa Trời. Hãy tiếp nhận sự thực quý báu nầy: Đức Chúa Trời đem dây Y-sơ-ra-ên (và chúng ta) ra khỏi nước Ê-díp-tô để vào xứ Ca-na-an. Đức Chúa Trời đã đem anh em trở lại cùng Ngài cũng là Đức Chúa Trời có thể cho anh em hằng ngày sống cuộc đời hạnh phước nầy.

        Dầu mới chỉ có đức tin yếu đuối, anh em cũng hãy cất tiếng nói rõ ràng rằng: “Đời sống yên nghỉ nầy đã dành cho tôi; tôi thật tin như vậy! Đức Chúa Trời không cất phần gia tài của một con cái nào của Ngài. Ơn Ngài ban thì ban cho mỗi một người. Tôi tin rằng đời sống hạnh phước đó đang chờ đợi tôi. Đức Chúa Trời cốt ban đời sống ấy cho tôi. Đức Chúa Trời đang chờ đổ đời sống ấy xuống và thực hiện đời sống ấy trong tôi. Vinh hiển thay cho danh đáng tôn quý của Ngài. Linh hồn tôi cũng nói rằng đời sống hạn phước ấy dành sẵn cho tôi.”

        Hãy nắm chặt lấy chữ “tôi” đó; hãy nhìn lên mặt Đức Chúa Trời và dám nói rằng: “Phước quý báu khôn lường nầy để dành cho tôi, là kẻ yếu đuối hơn hết và không xứng đáng hơn hết: Đức Chúa Trời dành sẵn nó cho tôi.” Anh em đã nói như vậy chưa? Ngay bây giờ, anh em hãy nói rằng: “Tôi cũng có thể sống cuộc đời yên nghỉ nầy.”

        4. Rồi tới bước thứ tư, ấy là: “Tôi không bao giờ có thể nhờ gắng công ra sức mà đạt tới cuộc đời yên nghỉ nầy. Chính Đức Chúa Trời sẽ ban cuộc đời ấy cho tôi”.

        Tôi muốn anh em dạn dĩ nói rằng: “Cuộc đời yên nghỉ nầy dành sẵn cho tôi”. Nhưng tôi cũng muốn anh em sấp mình xuống trước mặt Đức Chúa Trời mà nói rằng: “Tôi không thể nắm lấy cuộc đời nầy; tôi không thể tự mình nhận lấy cuộc đời nầy.” Anh em làm thế nào mà hưởng được cuộc đời yên nghỉ nầy? Ngợi khen Đức Chúa Trời, nếu Ngài đã hạ anh em xuống bằng cách khiến anh em cảm thấy mình hoàn toàn yếu đuối và dâng tuyệt vọng thì ắt Ngài có thể đến gần anh em mà hỏi rằng: “Ngươi có tin Đức Chúa Trời của ngươi sẽ thực hiện đời sống yên nghỉ nầy trong ngươi chăng?”

        Hỡi anh em tín đồ yêu dấu, hãy nói trong lòng rằng: “Tôi không bao giờ có thể cố gắng nắm lấy Đức Chúa Trời, hoặc đạt tới đời sống yên nghỉ nầy được. Chính Đức Chúa Trời phải ban đời sống ấy cho tôi mà thôi!”

        Anh em hãy vui vẻ mà nhìn nhận cái địa vị bất lực nầy dường như của quý. Chính Đấng đem chúng ta ra cũng phải đem chúng ta vào. Cái bất lực lại là cái hạnh phước lớn hơn hết của anh em. Hãy cầu xin Đức Chúa Trời dùng Đức Thánh Linh bày tỏ cho anh em thấy mình thật bất lực; như vậy, đức tin anh em sẽ thấy một con đường và có thể nói rằng: “Lạy Chúa, Chúa phải làm việc ấy, không thì nó chẳng bao giờ xong!” Đức Chúa Trời sẽ làm như vậy.  

        Lắm người nghe nhiều bài giảng về đức tin và nhiều lời sốt sắng khuyên phải tin, thì lấy làm lạ và hỏi tại sao họ không thể tin được. Chỉ có một câu trả lời: Ấy là vì cớ bổn ngã. Bổn ngã đang hành động, đang cố thử, đang chiến đấu và thế nào bổn ngã cũng phải thất bại. Khi anh em đến chỗ bổn ngã bị tiêu diệt và chỉ có thể kêu la rằng: “Lạy Chúa, xin giúp tôi! Lạy Chúa, xin giúp tôi!” thì sự giải cứu gần lắm rồi. Anh em hãy tin như vậy. Chính Đức Chúa Trời đã đem dân Y-sơ-ra-ên vào xứ Ca-na-an. Cũng chính là Đức Chúa Trời sẽ đem anh em vào đời sống yên nghỉ.        

5. Chúng ta phải sẵn lòng từ bỏ mọi sự để được sự yên nghỉ nầy.

        Ân điển của Đức Chúa Trời chẳng đòi công giá gì. Đức Chúa Trời ban ân điển, không đòi tiền, không đòi giá. Nhưng trái lại, Đức Chúa Jêsus đã phán rằng mỗi người nào muốn được viên ngọc quý giá thì phải hi sinh hết mọi sự, phải bán hết gia tài để mua viên ngọc ấy. Đời sống diệu kỳ nầy đã đặt trước mặt anh em nhưng anh em thấy vẻ tốt đẹp, xinh tươi và vinh quang của nó hoặc gần trải nếm sự thỏa mãn và vui vẻ của nó, thì vẫn chưa đủ. Anh em phải trở nên “ông chủ ruộng”. Người thấy viên ngọc quí trong khu ruộng thì sung sướng lắm; nhưng ông chưa làm chủ viên ngọc ấy. Ông đã tìm thấy nó, muốn có nó, vui mừng vì nó nhưng chưa làm chủ nó. Ông phải đi bán hết gia tài, từ bỏ mọi sự rồi mua khu ruộng luôn với viên ngọc quí đó (Ma-thi-ơ 13:44).

        Hỡi anh em, chúng ta phải từ bỏ nhiều điều lắm; phải từ bỏ thế gian luôn với sự vui chơi, ân huệ và sự khen chuộng của thế gian. Đối với thế gian, anh em phải có cùng một thái độ như Đức Chúa Jêsus vậy. Thế gian đã chối bỏ Ngài, đã loại Ngài ra; vì anh em thuộc về Ngài, nên cũng phải ở chung địa vị với Ngài và đi theo Đấng Christ đã bị chối bỏ. Anh em phải từ bỏ mọi sự. Phải từ bỏ mọi sự tốt lành trong lòng mình và phải hạ mình xuống tận bụi đất của sự chết. Chưa hết đâu. Anh em phải từ bỏ tất cả sự sinh hoạt, sự từng trải và sự thành công trong đạo từ trước đến nay, phải trở nên vô giá trị, hầu cho một mình Đức Chúa Trời được vinh hiển.

        Đức Chúa Trời đã ban chính sự sống của Ngài cho anh em nhưng anh em đã làm ô uế sự sống ấy vì không vâng Lời Ngài và không tin. Hãy từ bỏ sự sống ấy đi. Hãy từ bỏ tất cả sự khôn ngoan riêng của mình, luôn với ý tưởng của mình đối với công việc của Đức Chúa Trời. Các vị mục sư, truyền đạo rất khó từ bỏ tấc cả sự khôn ngoan của mình, rất khó đặt sự khôn ngoan ấy nơi chân Đức Chúa Jêsus, rất khó trở nên một kẻ ngu dại và thưa với Ngài rằng: “Lạy Chúa, tôi không biết một chút chi theo như tôi đáng phải biết. Tôi đã rao giảng Tin Lành, nhưng vẫn ít thấy sự vinh quang của “xứ” đầy hạnh phước, tức là của đời sống yên nghỉ.

        Tại sao Đức Thánh Linh Đấng yêu quí không thể dạy dỗ chúng ta một cách hiệu nghiệm hơn? Chỉ có một cớ nầy: Sự khôn ngoan của loài người đã ngăn trở Ngài. Chúng ta cũng có thể nói như vậy về mọi sự khác: Hãy từ bỏ hết mọi sự. Có kẻ phải từ bỏ một tội lỗi riêng. Có lẽ anh em tín đồ đã hờn giận anh em trong Chúa. Có lẽ có chị tín đồ đã cãi nhau với bà ở cạnh nhà. Có lẽ có bạn hữu đối xử với nhau không phải lẽ. Có lẽ có tín đồ đang nắm chặt một điều nhỏ nhặt đáng ngờ là tội lỗi, hoặc không sẵn lòng quên bỏ tất cả cuộc đời lưu lạc trong đồng vắng và mọi sự ham muốn xấu xa.

        Anh em hãy đi bước nầy và nói rằng: Tôi sẵn lòng từ bỏ mọi sự để được viên ngọc quí giá nầy. Thì giờ, tâm trí và công việc làm ăn của tôi, nay tôi kể mọi sự đó là phụ thuộc với sự yên nghỉ của Đức Chúa Trời mà bây giờ tôi coi là điều trọng nhất trong đời tôi. Tôi đem mọi sự đầu phục Đức Chúa Trời để có thể cùng đi với Đức Chúa Trời và thông công trọn vẹn với Ngài.

        Nếu anh em không để nhiều thì giờ, thì không thể nào bước vào đời sống yên nghỉ và hằng ngày được thông công trọn vẹn với Đức Chúa Trời. Muốn được sự gì, thì cũng phải mất thì giờ. Trải qua bao nhiêu năm, một bà phải để mỗi ngày mấy giờ học tập, rồi mới đánh đàn dương cầm tài giỏi. Một chàng thanh niên phải để bao nhiêu năm học tập, rồi mới đủ tư cách làm luật sư hoặc y khoa bác sĩ. Chàng phải vui lòng để nhiều giờ, nhiều ngày, nhiều tuần lễ, nhiều tháng, nhiều năm, trau giồi chức nghiệp của mình. Phải chăng anh em mong rằng đời đạo đức rẻ giá đến nỗi không cần để nhiều thì giờ, anh em cũng có thể thông công thân mật với Đức Chúa Trời sao? Anh em không thể làm như vậy đâu. Nhưng, hỡi anh em chị em yêu dấu của tôi, viên ngọc quí báu nầy đáng giá tất cả mọi sự. Hôm nay, anh em hãy đến và thưa với Chúa rằng: “Lạy Chúa, dầu phải trả giá gì, xin Chúa cũng cứ giúp tôi! Tôi thật muốn sống cuộc đời nầy!” Nếu anh em thấy khó nói như vậy, nếu có sự chiến đấu trong lòng mình thì chớ e ngại chi; hãy cứ thưa với Đức Chúa Trời rằng: “Lạy Chúa, tôi tự nghĩ mình đã sẵn lòng, nhưng bây giờ tôi thấy mình chưa sẵn lòng chi hết, xin Chúa đến tìm xem trong lòng tôi còn có tội ác nào chăng?” Bởi ân điển của Ngài, nếu anh em sấp mình nơi chân Ngài thì có thể biết chắc rằng sự giải cứu sẽ đến.

        6. Rồi tới một bước nữa, tức là phải nói rằng: “Bây giờ tôi hoàn toàn giao phó mình cho Đức Chúa Trời thánh khiết và hằng sống đời đời, để Ngài dắt đưa tôi vào sự yên nghỉ trọn vẹn nầy”.

        Hỡi anh em, chúng ta phải học tập gặp Đức Chúa Trời mặt đối mặt. Tôi đã phạm tội nghịch cùng Đức Chúa Trời. Vua Đa-vít đã cảm biết như vậy khi ông nói rằng: “Tôi đã phạm tội cùng Chúa, chỉ cùng một mình Chúa thôi.” (Thi 51: 4a). Chính anh em sẽ phải gặp mặt Đức Chúa Trời ngồi trên ngôi đoán xét. Chính Đức Chúa Trời đã gặp anh em và tha thứ tội lỗi cho anh em. Hôm nay, hãy đến và đặt mình trong bàn tay của Đức Chúa Trời hằng sống. Đức Chúa Trời là sự yêu thương. Đức Chúa Trời ở gần. Đức Chúa Trời đang chờ đợi ban phước cho anh em. Lòng Đức Chúa Trời khao khát anh em. Đức Chúa Trời phán rằng: “Con ơi, con tự nghĩ mình đang nóng nảy ước ao được yên nghỉ; chính ta cũng đang nóng nảy ước ao chiếm được con, vì ta mong mỏi yên nghỉ trong lòng con như là nhà ở và đền thờ của ta.”

        Anh em có cần Đức Chúa Trời. Thật vậy, nhưng Đức Chúa Trời cũng có cần anh em để tấm lòng Cha của Ngài tìm được sự thỏa mãn đầu đủ trong anh em là nơi Đấng Christ đang ngự rồi. Hôm nay, anh em hãy đến và nói quả quyết rằng: “Bây giờ tôi xin phó mình trọn vẹn cho Đấng Christ. Tôi đã lựa chọn rồi. Lạy Chúa, tôi xin mua viên ngọc quí giá kia. Tôi liền bỏ mọi sự vì cớ viên ngọc ấy. Nhân danh Đức Chúa Trời, tôi xin nhận đời sống yên nghỉ trọn vẹn ấy. 

        7. Bây giờ tới ý tưởng cuối cùng của tôi:

        Khi anh em đã nói như vậy rồi thì hãy thêm rằng: “Chính lúc nầy, tôi tin cậy Đức Chúa Trời sẽ thực hiện mọi sự đó trong từng trải của tôi. Dầu tôi còn sống một năm hay 30 năm, nhưng hôm nay tôi cũng được nghe nói lại rằng Đức Chúa Trời là Đức Ghê-hô-va, là Đấng Tự Hữu Hằng Hữu Cao Cả suốt cõi đời đời tương lai. Ngài là Đấng hằng sống đời đời. Đối với Ngài, thì 30 năm về sau cũng y như chính lúc bây giờ. Đức Chúa Trời đó ban chính mình Ngài cho tôi, không phải tùy theo sức mạnh tôi có để nắm giữ Ngài, nhưng tùy theo sức toàn năng và sự yêu thương mà Ngài sẵn có để nắm giữ tôi”.

        Hỡi anh em tín đồ, từ trước đến nay, anh em đã cậy sức riêng của mình mà sống. Anh em há chẳng muốn lựa chọn một đời sống của Đức Chúa Trời làm muôn sự trong muôn sự (I Cô-rinh-tô 15:28) sao? Trong đời sống ấy, anh em sẽ nói rằng: “Ôi! Lạy Đức Chúa Trời, tôi cầu xin, mong đợi và tin cậy Ngài sẽ ban đời sống yên nghỉ cho tôi. Ngày hôm nay, tôi vào sự yên nghỉ của Ngài và để Ngài gìn giữ tôi từng giờ, từng lúc.”

        Một lần nữa, hãy nghe lời Đức Chúa Trời phán bởi các Đấng tiên tri rằng: “Hãy chăm chú; hãy yên lặng; chớ sợ hãi; chớ nao lòng!” Giô-suê đã dẫn dắt dân Y-sơ-ra-ên vào xứ Ca-na-an. Đức Chúa Trời đã làm việc ấy bởi tay Giô-suê. Vả, Giô-suê làm hình bóng về Đức Chúa Jêsus của anh em, là Đấng đã tẩy sạch anh em trong huyết Ngài, và là Đấng mà anh em đã học tập nhận biết là Cứu Chúa yêu quí của mình. Chính hôm nay, anh em hãy tin cậy Ngài một cách mới mẻ và thưa với Ngài rằng: “Lạy Chúa, xin tiếp nhận tôi và dắt tôi vào sự yên nghỉ của Đức Chúa Trời. Tôi xin tin cậy Ngài và bởi Ngài mà tin cậy Đức Chúa Cha”. Nếu anh em có thể tin cậy như vậy, thì Ngài sẽ tiếp nhận anh em; thế là công việc xong trọn.

CHƯƠNG IV

ĐẤNG CHRIST LÀ SỰ SỐNG CỦA CHÚNG TA

Đấng Christ là sự sống của anh em”

(I Cô-rinh-tô 3:4)

          

Có một câu hỏi nảy ra trong trí óc mọi người là: Tôi làm thế nào mà sống được cuộc đời hoàn toàn tin cậy Đức Chúa Trời đó? Nhiều người không biết cách trả lời cho đúng lẽ hoặc cho đầy đủ. Phải trả lời rằng: Đức Chúa Trời phải sống cuộc đời ấy trong tôi. Ngài đã trở nên người chính vì mục đích đó. Ngài đã là một người để sống cuộc đời tin cậy Đức Chúa Trời và bởi đó Ngài tỏ cho chúng ta thấy mình phải sống như thế nào. Khi Ngài đã sống như vậy trên mặt đất nầy rồi thì Ngài trở về Thiên đàng chẳng những để bày tỏ cuộc đời tin cậy cho chúng ta biết, song còn để ban cuộc đời tin cậy ấy cho ta và sống cuộc đời tin cậy ấy trong ta.

        Chúng ta có hiểu sự sống của Đấng Christ là gì, có biết thể nào sự sống của Đấng Christ lại trở nên sự sống của mình thì mới mong ước và cầu xin chính mình Ngài lại sống cuộc đời tin cậy ấy trong mình. Trước hết chúng ta phải hiểu biết sự sống của Đấng Christ là gì, thì rồi ta mới hiểu biết thể nào Ngài lại thật chiếm lấy ta và khiến ta nên giống như Ngài được.

Sự Sống Của Đấng Christ Là Gì?

        Tôi muốn đặt trước mặt anh em cuộc đời mà Đấng Christ đã sống trên thế gian nầy, hầu cho ta hiểu biết Ngài ban cho mình sự gì và mình có trông mong sự gì nơi Ngài. Đức Chúa Jêsus Christ đã sống một cuộc đời trên mặt đất và Ngài trông mong chúng ta hoàn toàn sống như Ngài. Chúng ta thường nói rằng mình nóng nảy ước ao được giống như Đấng Christ. Chúng ta nghiên cứu những đặc điểm của bổn tánh Ngài, nhận thấy các bước chân Ngài và cầu xin Đức Chúa Trời ban ơn điển cho mình để được giống như Ngài; nhưng chúng ta chỉ thành công chút ít mà thôi.

        Vì sao vậy? Ấy vì không có gốc rễ mà chúng ta lại mong hái trái. Nếu muốn thật hiểu biết sống như Đấng Christ nghĩa là gì thì chúng ta phải tìm đến chính gốc rễ đời sống của Ngài trước mặt Đức Chúa Trời. Ngài đã sống một đời tùy thuộc cực điểm tin cậy cực điểm và đầu phục cực điểm. Nếu không hiệp một cùng Ngài trong cái điều làm yếu tố của đời Ngài thì chúng ta chạy đây chạy đó để tìm cách bắt chước các vẻ tốt đẹp của Ngài chỉ là vô ích mà thôi.

        Trong các sách Tin Lành, chúng ta thấy bốn điểm quan hệ đặc biệt về Đức Chúa Jêsus Christ, tức là sự giáng sanh, sự sinh hoạt trên mặt đất, sự chết, sự sống lại và sự ngự lên trời. Theo như một nhà văn cao tuổi đã gọi thì bốn điểm ấy là “con đường tiến của Đức Chúa Jêsus Christ”. Nhờ phương pháp ấy, Ngài đạt tới địa vị ngày nay, làm Vua vinh hiển và làm sự sống của chúng ta. Ta phải trở nên giống như Ngài trong tất cả con đường tiến nầy.

        Hãy xem xét điểm thứ nhất: Chúng ta phải nói gì về sự giáng sanh của Ngài? Ấy là Ngài đã nhận sự sống của mình tự nơi Đức Chúa Trời.

        Về đời sống của Ngài trên mặt đất thể nào? Ngài sống cuộc đời ấy với tấm lòng tùy thuộc Đức Chúa Trời. Về sự chết của Ngài thì sao? Ngài phó dâng mạng sống của mình cho Đức Chúa Trời. Về sự sống lại của Ngài cách nào? Ngài được kêu sống lại từ trong kẻ chết bởi Đức Chúa Trời. Còn về sự Ngài lên trời? Ngài sống trong vinh hiển với Đức Chúa Trời.

        Trước hết, Đấng Christ nhận sự sống của mình từ nơi Đức Chúa Trời. Tại sao chúng ta lại cần phải xem xét điều đó? Ấy vì Đức Chúa Trời là khởi điểm của tất cả đời sống Đức Chúa Jêsus Christ. Ngài phán rằng: “Cha đã sai ta” (Giăng 20:21); lại rằng: “Cha…đã giao hết mọi vật trong tay Con” (Giăng 3:35); lại rằng: “Cha cũng đã ban Con có sự sống trong mình vậy” (Giăng 5:26). Đấng Christ đã nhận sự sống ấy làm sự sống của chính mình, cũng như Đức Chúa Trời có sự sống trong chính mình Ngài vậy. Nhưng lúc nào cũng là sự sống mà Đức Chúa Trời ban cho và Ngài nhận lãnh.

        Đức Chúa Jêsus Christ dường như phán rằng: “Vì Cha Toàn Năng đã ban sự sống nầy cho ta, là Con Người ở trên mặt đất, nên ta có thể tin cậy Đức Chúa Trời giữ vẹn sự sống nầy và đưa ta qua hết mọi cảnh ngộ”. Đó là bài thứ nhất chúng ta cần phải học. Chúng ta thường phải suy gẫm về điều đó, cầu nguyện, suy nghĩ và chờ đợi trước mặt Đức Chúa Trời, cho đến khi lòng ta mở ra mà nhận biết một cách lạ lùng rằng Đức Chúa Trời hằng sống đời đời đã đặt một sự sống thiêng liêng ở trong ta, - nếu không bởi Ngài thì không thể nào có sự sống ấy.

        Tôi tin rằng Đức Chúa Trời đã ban sự sống của Ngài và sự sống ấy đâm rễ trong Ngài. Tôi sẽ cảm thấy rằng sự sống ấy phải được giữ vẹn bởi chính mình Ngài. Chúng ta thường suy nghĩ rằng Đức Chúa Trời đã ban cho mình một sự sống hiện nay là sự sống của mình, là sự sống thiêng liêng và chính mình phải chăm nom nó. Rồi ta than phiền rằng mình không thể giữ nó cho trọn vẹn. Điều ấy không có chi lạ. Chúng ta phải học tập sống như Đức Chúa Jêsus đã sống. Tôi đựng trong cái bình bằng đất nầy một của báu do Đức Chúa Trời ban cho. Tôi có sự sống của Con Đức Chúa Trời ở trong mình; sự sống ấy do Đức Chúa Trời ban cho tôi và chỉ Đức Chúa Trời có thể giữ vẹn sự sống ấy đang khi tôi cứ thông công với Ngài.

        Thứ hai: Đấng Christ đã sống thế nào trong 33 năm ở trên mặt đất nầy? Ngài sống với một tinh thần tùy thuộc Đức Chúa Trời. Anh em biết Ngài luôn luôn phán rằng: “Con chẳng tự mình làm việc gì được” (Giăng 5:19); lại rằng: “Những lời ta nói với các ngươi, chẳng phải ta tự nói.” (Giăng 14:10). Ngài luôn luôn chờ đợi Đức Chúa Trời dạy dỗ, truyền bảo và dắt dẫn Ngài. Ngài cầu xin Đức Chúa Cha ban quyền phép cho. Bất cứ làm gì, Ngài cũng nhân danh Đức Chúa Cha mà làm. Dầu là Con Đức Chúa Trời nhưng Ngài cảm thấy cần phải cầu nguyện và bền đỗ cầu nguyện để đem sự sống thông công với Đức Chúa Trời từ trời xuống và giữ vẹn sự sống ấy.

        Chúng ta đã nghe nói nhiều về sự tin cậy Đức Chúa Trời. Hạnh phước thay! Có lẽ ta nói: “Ôi! Đó là điều tôi thiếu!” Và có lẽ ta quên rằng bí quyết của mọi sự chính là Đức Chúa Trời ở trong Đấng Christ mà làm thành mọi sự trong chúng ta. Tôi chẳng những cần đến Đức Chúa Trời làm chuẩn đích của lòng tin cậy, song tôi cũng phải có Đấng Christ ở trong mình làm quyền lực để mà tin cậy. Ngài phải tái diễn cuộc đời tin cậy của Ngài ở trong tôi.

        Hãy nhìn xem cuộc đời tin cậy ấy trong truyện tích lạ lùng về sứ đồ Phao-lô, tôi tớ yêu dấu của Đức Chúa Trời. Ông đang gặp sự nguy hiểm là muốn tự tin, nên Đức Chúa Trời ở trên trời khiến ông gặp sự thử thách ghê gớm ở xứ A-si để hạ ông xuống kẻo ông tin cậy mình mà không tin cậy Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời canh giữ tôi tớ Ngài để ông cứ tin cậy Ngài.

        Anh em cũng hãy nhớ truyện tích về “cái giằm xóc vào thịt” trong thơ II Cô-rinh-tô 12. Sứ đồ Phao-lô gặp nguy hiểm thứ hai nữa là muốn tôn mình lên, nên Chúa yêu dấu phải đến hạ ông xuống và dạy ông rằng: “Ta làm cho ngươi yếu đuối để ngươi học tập tin cậy ta, chớ không tin cậy mình.”

        Nếu chúng ta muốn vào sự yên nghỉ của đức tin và cứ ở đó muốn sống cuộc đời đắc thắng trong xứ Ca-na-an, thì phải bắt đầu ở đây: Phải bị tan vỡ hết lòng tự tin và luôn luôn tùy thuộc Đức Chúa Trời đến cực điểm. Trong sự tùy thuộc đó, có lẽ chúng ta không biết hết những việc lớn lao cần phải làm trọn. Chúng ta phải bị tan vỡ và linh hồn phải quen nói luôn luôn rằng: “Tôi chẳng ra chi hết; tất cả là Đức Chúa Trời. Nếu Đức Chúa Trời không gìn giữ sự sống mà Ngài đã ban cho tôi thì tôi không thể bước đi cách xứng đáng trước mặt Ngài trong một giờ đồng hồ”.

        Khi ấy, Đức Chúa Trời ban cho chúng ta một cách quý báu để giải quyết mọi vấn đề và mọi sự khó khăn. Vì Ngài phán rằng: “Con ơi, Đấng Christ đã vì cớ con mà trải qua mọi sự đó. Đấng Christ đã tạo nên một bổn tánh mới có thể tin cậy Đức Chúa Trời. Đấng Christ, là Đấng Hằng Sống trên Thiên đàng, sẽ sống trong con và khiến con sống được cuộc đời tin cậy đó”.

        Thứ ba: tới sự chết của Đấng Christ. Sự chết của Đấng Christ dạy chúng ta điều gì về mối tương quan giữa Đấng Christ và Đức Chúa Trời? Sự chết của Đấng Christ dạy cho chúng ta bài học sâu xa hơn hết và trọng thể hơn hết về sự sống của Đấng Christ. Hội Thánh của Đấng Christ thật ít hiểu biết bài học nầy. Chúng ta biết sự chết của Đấng Christ có ý nghĩa đền tội thể nào và ta không bao giờ đủ lời diễn tả sự thay thế và sự đổ huyết của Đấng Christ, và nhờ đó mà ơn cứu chuộc được thành trọn cho ta.

        Nhưng chúng ta hãy nhớ rằng đó mới chỉ là phần nửa ý nghĩa sự chết của Ngài. Còn phần nửa kia là đây: Đấng Christ thay thế tôi và chịu chết vì tôi thể nào thì tôi cũng chết trong Ngài, và với Ngài thể ấy. Vì Ngài là Đầu của tôi, Ngài đang sống trong tôi để thực hiện cho Ngài và làm cho cuộc đời ấy nên trọn vẹn. Nếu tôi muốn biết cuộc đời Ngài sẽ sống trong tôi là thể nào thì tôi phải nhìn xem sự chết của Ngài. Bởi sự chết của Ngài, Ngài  đã chứng tỏ rằng Ngài có sự sống, nhưng chỉ giữ sự sống và dùng sự sống cho Đức Chúa Trời. Ngài đã sống cho Đức Chúa Trời tới cực điểm, không trừ một giây phút nào. Bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, Ngài chỉ giữ sự sống cho Đức Chúa Trời của Ngài mà thôi. Cũng một thể ấy, nếu chúng ta muốn sống một cuộc đời hoàn toàn tin cậy, thì cũng phải đem mạng sống và ý chí của mình mà đầu phục Đức Chúa Trời, dầu là phải chết cũng vui lòng. Ta phải sẵn sàng đi hết đường với Đức Chúa Jêsus và đi cả đến núi Gô-gô-tha nữa. Lúc Đức Chúa Jêsus mới là một cậu con trai 12 tuổi, Ngài đã nói với cha mẹ rằng: “Há chẳng biết tôi phải lo việc Cha tôi sao?” (Luca 2:49). Khi đến sông Giô-đanh để chịu phép báp têm, thì Ngài phán rằng: “Chúng ta nên làm cho trọn mọi việc công bình như vậy.” (Ma-thi-ơ 3:15).

        Cũng một thể ấy, suốt cả đời Ngài luôn luôn phán rằng: “Đồ ăn của ta tức là làm theo ý muốn của Đấng sai ta đến.” (Giăng 4:34); lại rằng: “Ta từ trên trời xuống, chẳng phải để làm theo ý ta, nhưng làm theo ý Đấng đã sai ta đến.” (Giăng 6:36); lại rằng: “Hỡi Đức Chúa Trời, nầy tôi đến – trong sách có chép về tôi – tôi đến để làm theo ý muốn Chúa.” (Hê-bơ-rơ 10:7). Đang khi hấp hối trong vườn Ghết-sê-ma-nê, Ngài thưa với Đức Chúa Cha rằng: “Không theo ý muốn Con, mà theo ý muốn Cha.” (Ma-thi-ơ 26:39).

        Có tín đồ nói: “Tôi thật rất ham thích sống cuộc đời tin cậy trọn vẹn; tôi muốn để Đấng Christ sống cuộc đời ấy trong tôi. Tôi mong mỏi có một quan niệm về Đấng Christ đến nỗi biết chắc rằng Đấng Christ sẽ ở trong tôi đời đời. Tôi muốn đạt đến bậc biết chắc chắn đầy đủ rằng Đấng Christ, Giô-suê của tôi, sẽ giữ gìn tôi trong đất đắc thắng.” Muốn được như vậy thì phải có gì? Tôi xin đáp: “Hãy coi chừng, chớ tiếp nhận một Đấng Christ giả hiệu, một Đấng Christ tưởng tượng, một Đấng Christ nửa chừng.”

        Đấng Christ đầy đủ là gì? Đấng Christ đầy đủ là người phán rằng: “Ta phó hết mọi sự cho sự chết ngõ hầu Đức Chúa Trời được tôn vinh. Ta không có một ý tưởng nào, một điều mong ước nào. Ta không sống một giờ, phút nào mà lại không vì sự vinh hiển của Đức Chúa Trời.” Anh em lập tức hỏi: “Tín đồ nào có thể đạt tới bậc đó?” Anh em chớ hỏi như vậy, nhưng hãy hỏi rằng: Đấng Christ đã đạt tới bậc ấy chưa? Đấng Christ có hứa sống trong tôi chăng? Hãy tiếp nhận Đấng Christ một cách đầy trọn và hãy để Ngài dạy cho mình biết Ngài có thể đưa dắt mình tới đâu và có thể làm gì trong mình. Chớ đặt ra điều kiện gì để mà thất bại, nhưng hãy phó mình trọn vẹn cho Đấng Christ. Ngài đã sống cuộc đời hoàn toàn đầu phục Đức Chúa Trời để có thể sắm sẵn một bổn tánh mới mà truyền lại cho anh em bởi bổn tánh ấy. Ngài khến anh em nên giống như Ngài. Khi ấy anh em sẽ ở trong con đường mà Ngài có thể dắt đưa mình đến chỗ nếm trải và nhận được mọi sự Ngài có thể làm cho mình.

        Sự chết là một sự nghiêm trọng và khủng khiếp. Đấng Christ phải trải qua cơn hấp hối nặng nề trong vườn Ghết-sê-ma-nê rồi mới chết được. Chúng ta khó chết thì cũng chẳng lạ gì. Nhưng khi ta đã học biết bí quyết, thì ta vui lòng chịu chết. Chỉ bởi sự chết thì sự sống của Đức Chúa Trời mới tràn đến; trong sự chết có ơn phước không sao tả xiết. Chính vì đó mà sứ đồ Phao-lô vui lòng “nhận án xử tử” (II Cô-rinh-tô 1:9a). Ông biết: “Đức Chúa Trời là Đấng khiến kẻ chết sống lại.” (II Cô-rinh-tô 1:9b). Án xử tử ghi trên mọi sự thuộc về bổn tánh thiên nhiên của chúng ta. Nhưng chúng ta có vui lòng nhận sự chết và quý mến sự chết chăng? Hay là, trái lại chúng ta đang thử trốn tránh “án xử tử” hoặc lãng quên án ấy? Chúng ta không tin tưởng dầy trọn rằng mình đã bị lên “án xử tử”. Bất cứ sự gì thuộc về bổn tánh thiên nhiên của chúng ta thì phải chết đi. Hãy cầu xin Đức Chúa Trời khiến anh em sẵn sàng hết lòng tin rằng chết với Đấng Christ là phương pháp độc nhất để sống với Ngài.

        Chúng ta hãy dùng một thí dụ: Đây, một cây dẻ hộp đã sống được mấy trăm năm. Cây dẻ hộp nầy sanh ra thế nào? Xin đáp: Trong mồ mả. Hột dẻ bộp trồng dưới đất; người ta phải đào một mồ mả để cho hột dẻ bộp chết. Nó chết và biến mất; nhưng, đồng thời nó đâm rễ xuống dưới đất và nứt nhánh lên trời. Tới nay, cây dẻ bộp đã sống mấy trăm năm rồi. Nó đứng ở đâu? Trong mồ mả của nó; nó đứng luôn luôn trong chính mồ mả, là nơi hột dẻ bộp đã chết. Nó đứng ở đó, càng ngày càng đâm rễ sâu vào trong lòng đất, là nơi đã đào mồ mả cho nó. Nhưng dầu nó đứng luôn trong mồ mả, là nơi nó đã chết, đồng thời nó cũng mọc lên cao hơn, mạnh hơn, lớn hơn và đẹp hơn. Tất cả trái mà nó kết, tất cả lá trang hoàng đỏ hết năm nầy đến năm khác, đều do mồ mả kia, là nơi nó đâm chặt rễ luôn luôn, không dời đổi.

        Cũng một thể ấy, Đấng Christ được mọi sự là do sự chết và mồ mả của Ngài và chúng ta cũng nhờ mồ mả của Ngài mà được mọi sự. Ôi! Chúng ta hằng ngày hãy sống bằng cách đâm rễ vào sự chết của Đức Chúa Jêsus. Anh em chớ sợ sệt, nhưng hãy nói rằng: “Tôi sẽ chết về ý riêng của tôi, về sự khôn ngoan và sức mạnh của loài người, về thế gian; vì chính là trong mồ mả của Chúa tôi mà sự sống của Ngài bắt đầu nảy nở, được sức mạnh và được vinh hiển.”

        Bây giờ tới ý thứ tư. Trước hết, Đấng Christ nhận lãnh sự sống từ nơi Đức Chúa Cha; thứ hai, Đấng Christ sống cuộc đời tùy thuộc Đức Chúa Cha; thứ ba, Đấng Christ phó sự sống vào sự chết để dâng lên Đức Chúa Cha. Bây giờ, thứ tư, Đấng Christ nhận lại sự sống: Ngài phục sinh bởi quyền phép vinh hiển của Đức Chúa Cha. Kìa sự sống lại của Đấng Christ có ý nghĩa sâu xa biết bao! Khi Đấng Christ chết, Ngài làm gì? Ngài xuống tận bóng tối tăm và sự yếu đuối cực điểm của sự chết. Ngài đã phó dâng sự sống chẳng có chút tội lỗi nào, sự sống do Đức Chúa Trời ban cho, sự sống tốt đẹp và quý báu. Ngài phán ý như sau nầy rằng: “Nếu Đức Chúa Cha đòi hỏi sự sống nầy, thì ta sẽ phó dâng nó vào tay Ngài”. Và Ngài thật đã phó dâng. Kìa, Ngài ở trong mồ mả, chờ đợi Đức Chúa Trời thi hành ý chỉ của Ngài. Vì Ngài đã chịu yếu đuối để tôn vinh Đức Chúa Trời cực điểm, nên Đức Chúa Trời đã tôn vinh Ngài lên đến cực điểm của vinh quang và quyền năng.

        Đấng Christ không mất chi hết vì đã phó mạng sống mình vào sự chết để dâng lên cho Đức Chúa Cha. Cũng một thể ấy, nếu anh em muốn sự vinh hiển và sự sống của Đức Chúa Trời giáng trên mình thì anh em phải vào trong mồ mả yếu đuối cực điểm để được sự sống vinh hiển phát sanh.

        Đấng Christ có sự sống trọn vẹn, do Đức Chúa Trời ban cho. Đức Chúa Cha ý như phán hỏi Ngài rằng: “Con có chịu phó dâng sự sống đó cho ta chăng? Con có vui lòng theo lịnh ta truyền mà lìa bỏ sự sống đó chăng?” Và Ngài đã lìa bỏ sự sống đó; nhưng Đức Chúa Trời ban nó lại cho Ngài, tức là ban sự sống thứ hai vinh hiển gấp vạn lần sự sống ở thế gian nầy. Đức Chúa Trời cũng ban sự sống vinh hiển ấy cho mỗi người trong chúng ta đã vui lòng phó dâng sự sống của mình. Anh em đã từng hiểu biết điều đó chưa? Đức Chúa Jêsus đã sanh ra hai lần. Lần thứ nhất, Ngài sanh tại làng Bết-lê-hem. Đó là sanh vào cuộc đời yếu đuối. Nhưng lần thứ hai, Ngài sanh ra từ trong mồ mả; Ngài “sanh trước nhất từ trong những kẻ chết” (Cô-lô-se 1:18). Vì Ngài phó dâng sự sống mà Ngài có do sự sanh ra thứ nhất, nên Đức Chúa Trời ban cho Ngài sự sống do sự sanh ra thứ hai, trong sự vinh hiển của Thiên đàng và trên ngôi của Đức Chúa Trời.

        Hỡi anh em tín đồ, đó chính là điều chúng ta cần phải làm. Người ta có thể làm một tín đồ sốt sắng; có thể hầu việc Chúa được kết quả; có thể làm một tín đồ lớn lên và tấn tới về phần thiêng liêng đôi chút; nhưng nếu họ chưa bước vào hưởng ơn phước đầy đủ, thì còn cần phải từng trải quyền phép cứu rỗi của Đức Chúa Trời một cách sâu xa lần thứ hai.

        Nếu Hội thánh Đấng Christ chưa hạ mình xuống tới mồ mả, chưa xưng tội, chưa hổ thẹn, chưa nằm trong bụi đất trước mặt Đức Chúa Trời, chưa mong chờ Ngài làm một việc gì mới mẻ, lạ lùng, phi thường để cất Hội thánh lên, thì Hội thánh cứ yếu đuối. Dầu có hết sức cố thắng thế gian, cũng chỉ là vô ích. Ngay giữa Hội thánh có biết bao kẻ hâm hẩm, ham mê thế gian, không vâng lời Đức Chúa Trời và đầy tội lỗi. Chúng ta làm thế nào mà dự cuộc chiến đấu nầy và đương đầu với mọi sự khó khăn nầy? Xin trả lời rằng: Christ là Đấng đã sống lại, Đấng được tôn làm Vua, Đấng Toàn Năng, phải ngự đến sống trong mỗi một tín đồ. Nhưng nếu không cùng chết với Đấng Christ thì chúng ta không thể nào trông mong được như vậy.

        Tôi đã nói đến một cây dẻ bộp mọc cao và đẹp, nhưng suốt một trăm năm vẫn đâm rễ trong mồ mả, là nơi hột dẻ bộp đã chết. Hỡi con cái Đức Chúa Trời, chúng ta phải vào sâu hơn trong mồ mả của Đức Chúa Jêsus. Chúng ta phải vui trồng cái quan niệm rằng mình yếu đuối, chẳng ra chi và phụ thuộc Đức Chúa Trời, cho đến khi mình hằng ngày bước đi trước mặt Ngài với một linh hồn “run rẩy” sâu xa và thánh khiết. Nguyện Đức Chúa Trời gìn giữ cho chúng tôi đừng tưởng mình ra chi. Nguyện Đức Chúa Trời dạy chúng tôi chầu trước mặt Ngài, ngõ hầu Ngài có thể thực hiện trong chúng tôi mọi sự Ngài đã thực hiện trong Con Ngài, cho đến khi Đức Chúa Jêsus Christ sống trọn cuộc đời Ngài trong chúng tôi! Nguyện Đức Chúa Trời giúp cho chúng tôi được như vậy!

CHƯƠNG V

SỰ KHIÊM NHƯỜNG CỦA ĐẤNG CHRIST

LÀM CHO CHÚNG TA ĐƯỢC CỨU RỖI

Hãy có đồng một tâm tình như Đấng Christ đã có, Ngài vốn có hình Đức Chúa Trời, song chẳng coi sự bình đẳng mình với Đức Chúa Trời là sự nên nắm giữ; chính Ngài đã tự bỏ mình đi, lấy hình tôi tớ và trở nên giống như loài người; Ngài đã hiện ra như một người, tự hạ mình xuốn, vâng phục cho đến chết, thậm chí chết trên cây thập tự giá.”

(Phi-líp 2:5-8)

        Đây, sứ đồ Phao-lô luận về một điều đơn sơ và thực tế trong đời sống hằng ngày, - tức là sự khiêm nhường. Cùng với sự khiêm nhường ông giải luận một cách diệu kỳ cho chúng ta biết lẽ thật của Đức Chúa Trời. Trong khúc sách này, chúng ta thấy Đức Chúa Jêsus có phẩm tước Đức Chúa Trời đời đời. Ngài “vốn có hình Đức Chúa Trời” và là một với Đức Chúa Trời. Chúng ta thấy Ngài thành nhục thể, vì Ngài đã giáng xuống đời nầy và “trở nên giống như loài người”. Chúng ta thấy Ngài “vâng phục cho đến chết để làm nên sự cứu chuộc”. Chúng ta thấy “Đức Chúa Trời đã đem Ngài lên rất cao”. Chúng ta thấy nước vinh hiển của Ngài; vì “mọi đầu gối…thảy đều quỳ xuống, và mọi lưỡi thảy đều xưng Jesus Christ là Chúa”.

        Lời giải luận nầy thuộc phương diện nào? Có phải là một bài kê cứu Thần đạo không? Không. Có phải là một bài mô tả Đấng Christ không? Cũng không. Lời giải luận nầy có liên quan tới tiếng đơn sơ và thẳng thắn kêu gọi chúng ta phải sống với nhau trong sự khiêm nhường. Đời sống của chúng ta trên mặt đất nầy được rằng buộc với tất cả sự vinh hiển đời đời của Đức Chúa Trời đã tỏ ra khi Đức Chúa Jêsus được tôn cao. Chính sự nhìn xem Đức Chúa Jêsus và sự quỳ gối trước mặt Ngài phải liên hiệp với tinh thần khiêm nhường sâu xa hơn hết, không sao phân rẽ được. Hãy ngắm xem sự khiêm nhường của Đức Chúa Jêsus. Trước hết, sự khiêm nhường ấy làm cho chúng ta được cứu rỗi; rồi sự khiêm nhường ấy chính là ơn cứu rỗi mà chúng ta có cần; và cuối cùng sự khiêm nhường ấy là ơn cứu rỗi mà Đức Thánh Linh ban cho chúng ta.

        1. Sự khiêm nhường là ơn cứu rỗi mà Đấng Christ đem đến cho chúng ta.

Nếu chúng ta yêu mến Đấng Christ hơn hết mọi sự, thì cũng phải yêu mến sự khiêm nhường hơn hết mọi sự, vì sự khiêm nhường là chính yếu tố của đời sống và vinh hiển Ngài, là chính ơn cứu rỗi mà Ngài đêm đến cho chúng ta. Chúng ta hãy suy nghĩ về sự khiêm nhường. Nó bắt đầu ở đâu? Trên Thiên đàng có sự khiêm nhường chăng? Anh em biết là có, vì người ta đặt mão triều thiên trước ngôi Đức Chúa Trời và Chiên Con. Nhưng có sự khiêm nhường trên ngôi Đức Chúa Trời chăng? Có! Nếu không phải là sự khiêm nhường của Thiên đàng, thì cái gì đã khiến Đức Chúa Trời đang ngự trên ngôi lại vui lòng nói rằng: “Ta sẽ giáng xuống để làm một tôi tớ và để chết thay loài người. Ta sẽ đi làm Chiên Con nhu mì và khiêm nhường của Đức Chúa Trời”?

        Đức Chúa Jêsus đem sự khiêm nhường từ Thiên đàng xuống cho chúng ta. Chính là sự khiêm nhường đã đưa Ngài xuống mặt đất nầy; bằng không thì Ngài chẳng bao giờ xuống. Đấng Christ đã trở nên một người vì có sự khiêm nhường thiên thượng thể nào, thì cả cuộc đời Ngài cũng có dấu vết sự khiêm nhường đó thể ấy. Ngài có thể chọn một hình khác để hiện ra. Ngài có thể hiện đến trong sự oai nghiêm của một Vua, nhưng Ngài đã chọn lấy hình tôi tớ. Ngài phán rằng: “Con người đã đến, không phải để người ta hầu việc mình, song để mình hầu việc người ta và phó sự sống mình làm giá chuộc nhiều người.” (Ma-thi-ơ 20:28).

        Anh em biết rằng trong đêm cuối cùng ở thế gian nầy, Ngài đã đứng vào địa vị một tôi mọi, lấy chiếc khăn vấn ngang mình mà đi rửa chân cho Phi-e-rơ và các môn đồ khác. Hỡi anh em yêu dấu, đời sống của Đức Chúa Jêsus trên mặt đất là một đời sống có sự khiêm nhường sâu xa hơn hết. Sự khiêm nhường đã làm cho đời Ngài có giá trị và có vẻ tốt đẹp trước mặt Đức Chúa Trời.

        Rồi tới sự chết của Đấng Christ. Có lẽ anh em chưa suy nghĩ đến sự khiêm nhường trong sự chết của Ngài. Nhưng sự chết của Ngài đã bày tỏ một tinh thần khiêm nhường vô song. “Ngài…tự hạ mình xuống, vâng phục cho đến chết, thậm chí chết trên cây thập tự”. Chúa Christ của tôi đã nhận một địa vị thấp thỏi suốt cả thời gian Ngài ở trên mặt đất nầy; Ngài nhận một địa vị rất thấp thỏi trong lúc Ngài rửa chân cho các môn đồ. Nhưng khi đi lên núi Gô-gô-tha, thì Ngài đã nhận địa vị thấp thỏi hơn hết mà ta có thể tìm thấy trong vũ trụ của Đức Chúa Trời. Ngài đã chịu để tội lỗi, sự rủa sả do tội lỗi và thạnh nộ của Đức Chúa Trời bao trùm lấy mình. Ngài nhận lấy địa vị của một tội nhân có thể mang gánh nặng của chúng ta và hầu việc ta bằng cách cứu ta khỏi sự khốn nạn; để có thể dâng huyết báu mà làm nên sự giải cứu chúng ta và rửa ta sạch hết dấu vết tội lỗi.

        Kinh Thánh chép rằng: “Ngài…tự hạ mình xuống…nên Đức Chúa Trời đã đem Ngài lên rất cao.” Đây là bí quyết Ngài được tôn lên ngôi. Ngài đã hạ mình xuống trước mặt Đức Chúa Trời và người ta. Đấng Christ của Đức Chúa Trời chính là sự khiêm nhường. Ngày nay, Đấng Christ là Người khiêm nhường tột bậc, đang ngự trên ngôi của Đức Chúa Trời. Nhưng tôi thấy gì? Một Chiên Con, dường “như đã bị giết” (Khải Huyền 5:6), đang đứng trên ngôi. Dầu ở nơi vinh hiển, Ngài cũng vẫn là Chiên Con nhu mì và khiêm nhường của Đức Chúa Trời. Sự khiêm nhường là huy hiệu Ngài đeo ở Thiên đàng. Anh em thường dùng huy hiệu “Chiên Con của Đức Chúa Trời”, và dùng danh hiệu ấy chung với huyết tế lễ. Anh em hát bài khen ngợi Chiên Con, và anh em để lòng tin cậy nơi huyết Chiên Con. Ngợi khen Đức Chúa Trời, vì cớ huyết Chiên Con! Anh em tin cậy huyết ấy chừng nào cũng được. Nhưng tôi sợ anh em quên rằng đối với chúng ta, danh từ “Chiên Con” phải có hai ý nghĩa. Danh từ ấy chẳng những chỉ về tế lễ, sự đổ huyết song cũng chỉ về sự nhu mì của Đức Chúa Trời thành nhục thể mà hiện đến thế gian, sự nhu mì của Đức Chúa Trời hình dung bởi sự nhu mì và dịu dàng của một chiên con.

        2. Sự cứu rỗi mà Đấng Christ đem đến cho chúng ta chẳng những là sự cứu rỗi do sự khiêm nhường mà ra, song cũng dẫn đến sự khiêm nhường nữa.  

        Chúng ta phải hiểu rằng đó không phải là sự cứu rỗi Đấng Christ đem đến mà thôi, song cũng chính là sự cứu rỗi mà anh em và tôi có cần. Cái gì là nguyên nhân mọi sự khốn nạn của loài người? Trước hết là sự kiêu ngạo, là loài người tìm theo ý riêng và vinh hiển riêng mình. Phải, kiêu ngạo là gốc rễ của mọi tội lỗi; vậy nên Con Đức Chúa Trời đến cùng chúng ta, là kẻ kiêu ngạo và đem cho ta ơn cứu rỗi khỏi tánh kiêu ngạo. Trên hết mọi sự, chúng ta cần được cứu khỏi tánh kiêu ngạo và ý riêng. Được cứu khỏi tội ăn cắp, giết người và mọi sự gian ác khác là tốt lắm; nhưng trên hết mọi sự mỗi người cần được cứu khỏi gốc rễ của mọi tội lỗi, tức là ý riêng và sự kiêu ngạo. Khi nào bắt đầu cảm thấy đó chính là sự cứu rỗi mà mình có cần, thì người ta mới thật hiểu biết Đấng Christ là gì và mới có thể tiếp nhận Ngài là sự cứu rỗi của mình.

        Đó là sự cứu rỗi mà chúng ta, là tín đồ, có cần đặc biệt. Chúng ta đều biết truyện tích đáng buồn về Phi-e-rơ và Giăng. Ý riêng và sự kiêu ngạo đã gây cho họ bị tai hại là dường nào. Họ chỉ cần được cứu khỏi chính bổn ngã của họ; nếu chúng ta muốn bước vào đời sống yên nghỉ, thì đó là bài mà ta phải học. Vả, nếu tánh kiêu ngạo cai trị ta, thì chúng ta làm thế nào mà bước vào đời sống yên nghỉ và ở luôn trong lòng Chiên Con của Đức Chúa Trời được? Chúng ta há chẳng từng nghe phàn nàn rằng trong Hội Thánh Đấng Christ có sự kiêu ngạo biết bao! Cái gì là nguyên nhân của sự chia rẽ, tranh giành, ganh tị mà ta thường thấy giữa vòng các thánh đồ của Đức Chúa Trời? Tại sao ngay trong một gia đình cũng có sự cay đắng? Có lẽ là nửa giờ hoặc nửa ngày mà thôi; nhưng cái gì là nguyên nhân của những sự xét đoán cay nghiệt và những lời xẳng xớm. Cái gì là nguyên nhân cho bạn hữu xa bỏ nhau? Cái gì là nguyên nhân của sự nói hành? Cái gì là nguyên nhân của lòng ích kỷ và hờ hững đối với những tình cảm của kẻ khác? Chính là cái nầy mà thôi: Sự kiêu ngạo của loài người. Họ đem mình lên, đòi cho được quyền bày tỏ ý kiến và đoán xét theo lòng mình thích.

        Quả thật, sự cứu rỗi mà chúng ta cần đến chính là sự khiêm nhường, vì chỉ nhờ sự khiêm nhường, chúng ta mới khôi phục được mối liên quan xứng hợp với Đức Chúa Trời.

        “Chầu trước mặt Đức Chúa Trời” – đó là lời có một không hai để tả đúng mối liên quan xứng hợp của loài thọ tạo với Đức Chúa Trời. Chúng ta phải trở nên vô giá trị trước mặt Ngài. Ý tưởng cốt yếu của một người do Đức Chúa Trời dựng nên là gì? Đây: phải trở nên một cái bình, trong đó Đức Chúa Trời có thể dốc đổ sự đầy dẫy của Ngài, có thể bày tỏ sự sống, sự nhân lành, quyền phép và sự yêu thương của Ngài. Một cái bình muốn được đầy dẫy thì phải trống không trước đã. Nếu muốn đầy dẫy sự sống của Đức Chúa Trời, thì chúng ta phải trút vợi hết bổn ngã trước đã. Sự vinh hiển của Đức Chúa Trời chính là Ngài đầy dẫy muôn vật, và nhất là đầy dẫy những kẻ mà Ngài đã cứu chuộc. Sự vinh hiển của loài thọ tạo chính là được đầy dẫy Đức Chúa Trời. Vậy nên sự cứu chuộc độc nhất và vinh hiển độc nhất của mỗi một linh hồn chính là trút vợi hết bổn ngã, trở nên vô giá trị trước mặt Đức Chúa Trời, chầu trước mặt Ngài và chịu để “Đức Chúa Trời làm muôn sự” (I Cô-rinh-tô 15:28).

        Sự khiêm nhường chiếm một địa vị trọng yếu trọng hầu hết mỗi thơ tín của Tân ước. Sứ đồ Phao-lô nói rằng: “Phải khiêm nhường đến đều, mềm mại đến đều, phải nhịn nhục, lấy lòng yêu thương mà chìu nhau, dùng dây hòa bình mà gìn giữ sự hiệp một của Thánh Linh” (Ê-phê-sô 1”2,3). Anh em càng đến gần Đức Chúa Trời, càng đầy dẫy Đức Chúa Trời, thì càng có lòng khiêm nhường. Trước mặt Đức Chúa Trời cũng như trước mặt loài người, anh em sẽ thích cúi xuống rất thấp. Chúng ta đều biết lúc Phi-e-rơ có lòng tự tin, nhưng trong các thơ tín của ông, ông đã đổi hẳn giọng. Ông viết rằng: “Cũng khuyên bọn trẻ tuổi, hãy phục theo các trưởng lão. Hết thảy đối đãi với nhau phải trang sức bằng sự khiêm nhường. Vậy, hãy hạ mình xuống dưới tay quyền phép của Đức Chúa Trời, hầu cho đến kỳ thuận hiệp Ngài nhắc anh em lên” (I Phi-e-rơ 5:5-6). Ông đã hiểu rõ khiêm nhường là gì và ông dám rao giảng sự khiêm nhường cho mọi người.

        Quả thật, đó là sự cứu rỗi mà chúng ta có cần. Điều gì ngăn trở người ta đi đến chỗ hoàn toàn đầu phục Đức Chúa Trời mà chúng tôi giải luận đó? Chỉ có một điều, ấy là vì họ không muốn thấy bổn ngã mình trở nên vô giá trị, không muốn giao phó hết nguyện vọng ý muốn và danh vị của mình cho Đấng Christ.

        Chúng ta sẽ không tiếp nhận sự cứu rỗi mà Đức Chúa Jêsus ban cho mình chăng? Ngài đã từ bỏ ý riêng, từ bỏ danh vọng riêng, từ bỏ lòng tự tin; Ngài đã sống với một tinh thần phụ thuộc Đức Chúa Trời, chẳng khác chi một tôi tớ mà Đức Chúa Cha sai đến thế gian. Thần linh khiêm nhường ở trong Đấng Christ chính là sự cứu rỗi mà chúng ta có cần.

        Cái gì thường khuấy rối lòng chúng ta, làm cho ta mất bình an. Ấy là tính kiêu ngạo đã xúi giục mình tưởng mình ra chi. Nầy sắc chỉ của Đức Chúa Trời không bao giờ thay đổi được: “Đức Chúa Trời chống cự kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (Gia-cơ 4:6). Biết bao lần Đức Chúa Jêsus đã phán dạy các môn đồ về sự khiêm nhường! Anh em nhiều lần thấy những lời đơn sơ nầy trong các sách Tin Lành: “Ai tự nhắc mình lên sẽ phải hạ xuống; ai tự hạ mình xuống sẽ được nhắc lên” (Luca 18:14). Ngài dạy các môn đồ rằng: “Trong các ngươi, thì không như vậy; trái lại, trong các ngươi, kẻ nào muốn làm lớn, thì sẽ làm đầy tớ các ngươi; còn kẻ nào muốn làm đầu, thì sẽ làm tôi mọi các ngươi.” (Ma-thi-ơ 20:26-27).

        Đây là tiếng kêu độc nhất mà chúng ta phải thốt trước mặt Đức Chúa Trời: “Cầu xin quyền phép của Đức Thánh Linh giáng trên tôi, luôn với sự khiêm nhường của Đức Chúa Jêsus, hầu cho tôi có thể đứng vào địa vị mà Ngài đã đứng. Hỡi anh em, anh em tưởng muốn có địa vị nào tốt hơn, dễ hơn địa vị của Đức Chúa Jêsus chăng?” Hay là anh em chỉ sẽ nói rằng: “Xuống! Xuống! Xuống càng thấp càng tốt. Nhờ ơn Đức Chúa Trời giúp đỡ, khiến cho tôi vui lòng thấy mình trở nên vô giá trị trước mặt Ngài; tôi muốn đứng vào địa vị Đức Chúa Jêsus đã đứng”.

        3. Bây giờ tới ý tưởng thứ ba: Đây là sự cứu rỗi mà Đức Thánh Linh đem đến cho chúng ta.

        Khi Đấng Christ dạy dỗ các môn đồ, thì các lời dạy dỗ của Ngài có lẽ một phần nào đã khiến lòng họ tan vỡ, đã khiến họ cảm biết có sự gì sai hỏng, và đã gợi ý ước mong trong họ. Nhưng nếu Đức Thánh Linh chưa ngự đến, thì sự dạy dỗ của Đức Chúa Jêsus chưa có công hiệu hoàn toàn như vậy; dầu các môn đồ kính mến Ngài và ước mong làm đẹp lòng Ngài, cũng không làm như vậy được.

        Đức Chúa Jêsus đã hứa rằng Đức Thánh Linh sẽ ngự đến. Ngài phán về sự giáng lâm của Đức Thánh Linh rằng: “Ta sẽ đến cùng các ngươi” (Giăng 14:18). Ngài dường như phán với các môn đồ rằng: “Ta đã ở cùng các ngươi ba năm, các ngươi đã tiếp xúc thân mật với ta, và ta đã hết sức hành động để cảm hóa lòng các ngươi, nhưng không được. Nhưng các ngươi chớ sợ; ta sẽ trở lại. Trong ngày đó, các ngươi sẽ thấy ta và lòng các ngươi sẽ vui mừng và chẳng ai cất được sự vui mừng của các ngươi. Ta sẽ trở lại để ở trong các ngươi và để sống lại cuộc đời ta ở trong các ngươi.”

        Đấng Christ đã ngự về Thiên đàng để nhận lãnh một quyền phép mà trước kia Ngài chưa có. Quyền phép ấy là gì? Quyền phép sống trong người ta. Ngợi khen Đức Chúa Trời vì quyền phép ấy. Chính vì Đức Chúa Jêsus, là Đấng thấp hèn, là Chiên Con của Đức Chúa Trời, là Đấng nhu mì, khiêm nhường và dịu dàng, đã ngự xuống trong Đức Thánh Linh để ở trong lòng các môn đồ Ngài, nên sự kiêu ngạo đã bị trừ bỏ, và chính hơi thở của Thiên đàng truyền sự yêu thương qua Ngài mà khiến họ có cùng một tấm lòng, cùng một linh hồn.

        Hỡi anh em yêu dấu, Đấng Christ là của anh em. Đấng Christ ngự đến trong quyền phép Đức Thánh Linh là của anh em. Anh em có ước mong có Ngài chăng? Có ước mong có Đức Chúa Jêsus Christ hoàn toàn chăng? Vậy, hãy đến xem vinh quang trong phẩm tước Đức Chúa Trời của Ngài, vì Ngài vốn có hình Đức Chúa Trời và vốn bình đẳng với Đức Chúa Trời; xem chính vinh quang do sự thành nhục thể của Ngài, vì Ngài đã trở nên một Người; xem chính vinh quang do công ơn cứu chuộc của Ngài, vì Ngài đã vâng phục cho đến chết, xem chính vinh quang do Ngài được tôn cao, vì đó là sự vinh quang cốt yếu và chói lọi hơn hết. Ngài đã từ Thiên đàng hạ mình xuống mặt đất; rồi trên mặt đất, Ngài đã hạ mình tới thập tự giá. Ngài đã hạ mình xuống để mang danh hiệu Chiên Con của Đức Chúa Trời, để bày tỏ sự nhu mì của Chiên Con Đức Chúa Trời và để chết như Chiên Con của Đức Chúa Trời.

        Chúng ta làm thế nào để được cứu bởi sự khiêm nhường của Đức Chúa Jêsus đó? Ấy là một câu hỏi nghiêm trọng; nhưng tạ ơn Đức Chúa Trời, chúng ta có thể trả lời. Trước hết, chúng ta phải ham thích sự khiêm nhường hơn mọi sự khác. Hãy học tập cầu xin Đức Chúa Trời giải cứu mình khỏi mọi tàn tích của tánh kiêu ngạo, vì kiêu ngạo là một điều đáng rủa sả. Hãy học tập tạm bỏ qua mọi sự khác trong đời thiêng liêng, để hằng ngày nài xin Chiên Con của Đức Chúa Trời rằng: “Lạy Chiên Con của Đức Chúa Trời, tôi biết sự yêu thương của Ngài, nhưng ít biết sự nhu mì của Ngài”. Hằng ngày hãy đến dựa lòng vào lòng Ngài, và lấy sự ước mong mạnh mẽ và thưa với Ngài rằng: “Lạy Đức Chúa Jêsus, là Chiên Con của Đức Chúa Trời, xin ban chính mình Ngài  cho tôi luôn với sự nhu mì và khiêm nhường của Ngài.” Ngài sẽ làm thành sự ước ao của những người kính sợ Ngài. Ước ao được sự khiêm nhường và cầu xin cho được sự khiêm nhường, thì chưa đủ đâu; phải đòi cho bằng được và nhận lấy sự khiêm nhường như đã thuộc về mình rồi. Sự khiêm nhường nầy được ban cho anh em trong Đức Chúa Jêsus Christ.

          Đấng Christ là sự sống của chúng ta. Điều đó nghĩa là gì? Nguyện Đức Chúa Trời cho anh em và tôi thấy điều đó nghĩa là gì! Khi trời là sự sống của chúng ta và khi trời ở khắp mọi nơi, ở khắp vũ trụ. Chúng ta hít thở không khó khăn gì vì Đức Chúa Trời để khí trời bao bọc chúng ta; vả, khi trời có gần tôi hơn Đấng Christ chăng? Mặt trời bủa sự sáng cho mỗi một cái lá xanh và mỗi một ngọn cỏ, vì mặt trời soi sáng từng giờ, từng lúc. Phải chăng mặt trời gần ngọn cỏ hơn là Đấng Christ gần linh hồn người ta? Thật không có như vậy; Đấng Christ ở chung quanh chúng ta; Đấng Christ chen lấn để ngự vào trong ta và không có gì ở trên trời hoặc trên đất hoặc trong địa ngục có thể ngăn trở sự sáng chiếu thấu vào tấm lòng trống không và đã mở sẵn.

        Nếu cửa chớp trong những phòng anh em đóng chặt, thì sự sáng không vào được; sự sáng sẽ ở phía ngoài phòng, tràn đụng các cửa chớp, nhưng vẫn không vào được. Hãy mở cửa chớp ra, thì sự sáng sẽ vào liền, sẽ vui vẻ mà đầy dẫy cả căn phòng. Hỡi con cái của Đức Chúa Trời, cũng một thể ấy, Đức Chúa Jêsus và sự sáng cùng sự khiêm nhường của Ngài, đang ở chung quanh anh em, mong mỏi ngự vào lòng anh em. Chính hôm nay, anh em hãy tiếp nhận Ngài với tất cả lòng nhu mì, dịu dàng quý mến của Ngài. Anh em chớ sợ Ngài; Ngài là Chiên Con của Đức Chúa Trời. Ngài rất kiên nhẫn, nhân hiền, dịu dàng và từ ái đối với anh em.

        Chính hôm nay, anh em hãy có can đảm và tin cậy Đức Chúa Jêsus sẽ ngự vào và chiếm lấy lòng mình. Khi Ngài đã chiếm lấy rồi, thì anh em sẽ sống một cuộc đời hằng ngày thông công hạnh phước với Ngài, và anh em sẽ cảm thấy một sự cần dùng càng ngày càng sâu xa; ấy là anh em phải có thì giờ yên lặng ở riêng với Ngài, phải thờ lạy Ngài, phải sấp mình trước mặt Ngài, nhận mình yếu đuối và khiêm nhường thưa với Ngài rằng: “Lạy Đức Chúa Jêsus, tôi chẳng ra chi hết, còn Ngài là mọi sự”. Ấy sẽ là một đời đầy dẫy hạnh phước, vì anh em sẽ cảm thấy mình ở nơi chân Đức Chúa Jêsus. Chính lúc nầy, anh em có thể xin đòi cho được Đức Chúa Jêsus, là Đấng có sự khiêm nhường thiên thượng, làm sự sống của linh hồn mình. Anh em có chịu xin đòi cho được như vậy chăng? Anh em há sẽ chẳng mở lòng mình ra mà thưa với Ngài rằng: “Xin Ngài ngự vào, xin Ngài ngự vào” sao?

        Chính hôm nay, anh em hãy đến tiếp nhận Ngài một cách mới mẻ luôn với quyền phép hạnh phước do sự khiêm nhường lạ lùng của Ngài và thưa với Ngài rằng: Ôi! Chúa đã phán: “Ta có lòng nhu mì, khiêm nhường; nên hãy gánh lấy ách của ta và học theo ta; thì linh hồn các ngươi sẽ được yên nghỉ” (Ma-thi-ơ 11:29). “Lạy Chúa, tôi biết vì cớ nào tôi không có sự sống trọn vẹn; ấy là vì tánh kiêu ngạo của tôi. Song hôm nay, xin Ngài ngự vào và ở trong lòng tôi. Ngài đã dắt dẫn cả Phi-e-rơ và Giăng vào trong hạnh phước do sự khiêm nhường thiên thượng của Ngài, ắt Ngài cũng sẽ chẳng từ chối tôi. Lạy Chúa, tôi đây; xin mời Ngài ngự vào, vì một mình Ngài có thể cứu tôi bởi sự khiêm nhường lạ lùng của Ngài. Lạy Chiên Con của Đức Chúa Trời, tôi tin Ngài; xin Ngài  chiếm lấy lòng tôi và ngự trong tôi!”

        Khi anh em đã nói như vậy rồi, thì hãy lặng lẽ ra khỏi phòng riêng, hãy bước đi nhẹ nhàng dường như nắm giữ Chiên Con của Đức Chúa Trời trong lòng mình và nói rằng: “Tôi đã tiếp nhận Chiên Con của Đức Chúa Trời; Ngài chăm lo, săn sóc đến lòng tôi; Ngài hà hơi sự khiêm nhường của Ngài cùng tinh thần phụ thuộc Đức Chúa Trời vào trong tôi; và bởi đó đem tôi đến gần Đức Chúa Trời. Sự khiêm nhường của Ngài là sự sống và sự cứu rỗi của tôi”.

CHƯƠNG VI

SỰ ĐẦU PHỤC TRỌN VẸN

Vả, Giô-sép bị đem qua xứ Ê-díp-tô, thì Phô-ti-pha, người bổn xứ, làm quan thị vệ của Pha-ra-ôn, mua chàng nơi tay dân Ích-ma-ên đã dẫn đến. Giô-sép ở trong nhà chủ mình, là người Ê-díp-tô, được Đức Ghê-hô-va phù hộ, nên thạnh lợi luôn. Chủ thấy Đức Ghê-hô-va phù hộ chàng và xui cho việc chi chàng lãnh làm nơi tay đều được thạnh vượng.”

(Sáng Thế ký 39:1-3)

        

Khúc sách này là một bài học cụ thể dạy chúng ta biết Đấng Christ làm gì cho chúng ta. Hãy chú ý điều nầy: Giô-sép là một kẻ tôi mọi nhưng Đức Chúa Trời ở cùng ông một cách quá rõ rệt đến nỗi chủ ông phải nhận thấy như vậy. Kinh Thánh chép rằng: “Chủ thấy Đức Ghê-hô-va phù hộ chàng và xui cho mọi việc chi chàng lãnh làm nơi tay đều được thạnh vượng. Vậy, Giô-sép được ơn trước mặt chủ mình; chủ cắt chàng hầu việc” (Sáng 39:4a). Ấy nghĩa là Giô-sép làm tôi mọi cho chủ. “Đặt cai quản cửa nhà” (Sáng 39:4b). Đó là một điều mới lạ. Giô-sép vốn là một kẻ tôi mọi, nhưng bây giờ ông thành ra ông chủ. Kinh Thánh cứ chép tiếp: “Từ khi người đặt Giô-sép cai quản cửa nhà cùng hết thảy của cải mình rồi, thì Đức Ghê-hô-va vì Giô-sép ban phước cho nhà người; sự ban phước của Đức Ghê-hô-va bủa khắp mọi vật của người làm chủ, hoặc trong nhà, hoặc ngoài đồng. Người giao hết của cải mình cho Giô-sép coi sóc, chẳng lo đến việc nào nữa, trừ ra các phần vật thực của mình ăn mà thôi.” (Sáng 39:4b-6).

        Chúng ta thấy Giô-sép đóng hai vai trò trong nhà Phô-ti-pha: Trước hết, chàng là một đầy tớ, một kẻ tôi mọi, dầu được tin cậy và yêu mến, nhưng vẫn hoàn toàn là đầy tớ. Thứ hai, chàng là ông chủ, Phô-ti-pha đặt chàng cai quản nhà cửa, đất ruộng và tất cả của cải mình có. Rồi Kinh Thánh chép rằng Phô-ti-pha giao hết mọi sự vào tay Giô-sép, thậm chí không biết chi hết ngoài ra bánh bày trên bàn cho mình ăn.

        Tôi muốn anh em chú ý đến Giô-sép, là một hình bóng về Đấng Christ. Trong đời sống thiêng liêng, chúng ta thường nói đến sự đầu phục trọn vẹn; và chính trong khúc sách nầy, chúng ta có một thí dụ về sự đầu phục trọn vẹn là gì.

        Trước hết, Giô-sép ở trong nhà Phô-ti-pha để hầu việc và giúp đỡ chủ; ông đã làm như vậy và Phô-ti-pha học tập tin cậy ông đến nỗi nói rằng: “Mọi sự ta có, ta sẽ giao vào tay Giô-sép!) Vả, đó đúng là việc phải xảy đến cho một số đông tín đồ Đấng Christ. Họ biết Đấng Christ, tin cậy và yêu mến Ngài, nhưng Ngài chưa phải là Chủ họ, mà chỉ là một Đấng giúp đỡ họ thôi. Khi nào có sự chi bối rối, thì họ đến vùng Ngài; khi nào phạm tội, thì họ xin Ngài tha thứ và tẩy sạch bằng huyết báu của Ngài; khi nào ở trong sự tối tăm thì họ kêu cầu Ngài. Nhưng họ thường sống theo ý riêng và tìm sự cứu giúp nơi chính mình họ.

        Nhưng phước thay cho người nào nói như Phô-ti-pha rằng: “Tôi sẽ dâng hết mọi sự cho Đức Chúa Jêsus!” Có nhiều người đã tiếp nhận Đấng Christ làm Chúa của mình, nhưng chưa đi đến độ chót, tức là đem hết mọi sự hoàn toàn đầu phục Ngài. Hỡi tín đồ, nếu anh em muốn có sự yên nghỉ trọn vẹn, sự vui mừng mãi mãi và sức mạnh để làm việc cho Đức Chúa Trời, thì hãy đến cùng người Ê-díp-tô thờ lạy hình tượng kia mà học cho biết mình phải làm gì. Phô-ti-pha thấy Đức Chúa Trời ở cùng Giô-sép, bèn nói rằng: “Ta sẽ giao phó cả nhà mình cho Giô-sép”. Vậy, anh em hãy học tập làm như thế. Có người chưa từng tiếp nhận Đấng Christ; lại có người tìm kiếm Ngài, đói khát Ngài nhưng họ không biết cách tìm thấy Ngài.

        Tôi xin anh em chú ý đến ba ý tưởng liên quan đến sự đầu phục Đấng Christ: Thứ nhất, cớ tích của sự đầu phục; thứ hai, giới hạn của sự đầu phục; thứ ba, hạnh phước của sự đầu phục.

  1. Cớ tích của sự đầu phục:

Cái gì thúc giục Phô-ti-pha giao phó mọi sự cho Giô-sép? Tôi tưởng dễ trả lời lắm: Phô-ti-pha là một vị đại thần được vua tin cậy; ông phải trông nom công việc nhà vua, nên chắc không thể tự trông nom nhà cửa của mình được. Triều đình Pha-ra-ôn có cần tất cả thì giờ và sự chăm chú của ông. Chắc hẳn ông đã có viên quản gia khác; nhưng hẳn không trung tín, không thật thà, nên nhà cửa ông không được như ý ông muốn.

Vậy, Phô-ti-pha mua một tên tôi mọi khác, tên là Giô-sép, y như cách ông đã mua một người năm xưa. Nhưng lần nầy ông thấy những điều mà trước kia ông chưa từng thấy. Trong người Giô-sép có một sự chi phi thường. Giô-sép cư xử rất khiêm nhường, làm việc rất trung tín, nhân ái và thành công. Phô-ti-pha bắt đầu tìm xem duyên cớ vì đâu, và sau cùng phải kết luận rằng Đức Chúa Trời ở cùng Giô-sép.

Hệ trọng thay là có thể giao phó hết công việc vào tay một người có Đức Chúa Trời ở với! Phô-ti-pha, là người thờ lạy tà thần đã nhận thấy như vậy; vì sự cần dùng của nhà cửa mình và vì điều ông đã thấy trong Giô-sép, ông bèn quyết định đặt Giô-sép làm quản gia. Tôi xin hỏi anh em: Hai cới tích nầy há chẳng thúc giục cấp bách đến nỗi anh em phải nói rằng: “Tôi sẽ tôn Đức Chúa Jêsus làm Chủ toàn thân tôi” sao? Hỡi tín đồ: gia đình, đời thiêng liêng, nhà cửa của anh em, và đền thờ Đức Chúa Trời ở trong lòng anh em, - mọi sự đó ở vào tình trạng nào? Nó há chẳng thường giống như đền thờ trong thành Giêrusalem thuở xưa, - bị ô uế “thành ra nhà buôn bán” (Giăng 2:16), rồi sau “thành ra ổ trộm cướp” (Ma-thi-ơ 21:13).

Lòng của anh em đáng lẽ phải làm nơi ở của Đức Chúa Jêsus nhưng há chẳng thường đầy dẫy tội lỗi, tối tăm, buồn thảm và thất ý? Anh em cố gắng để thay đổi lòng mình, đã nhờ người ta hoặc phương nầy cách kia giúp đỡ. Anh em đã dùng mọi phương pháp mình có thể nghĩ ra để sửa chữa lòng mình cho ngay lành. Nhưng nó không bao giờ ngay lành trước khi Đấng Christ, là Chủ của nó ngự vào và đảm nhận nó.

Nếu trong lòng anh em có sự bối rối nào, nếu anh em ở trong sự tối tăm, ở dưới quyền phép của tội lỗi, thì tôi xin đưa Con Đức Chúa Trời đến cùng anh em với lời hứa sắt đinh rằng Ngài sẽ ngự vào và đảm nhiệm lòng anh em. Anh em có nhận lấy Đức Chúa Jêsus như Phô-ti-pha nhận lấy Giô-sép chăng? Ngài há chẳng đã minh chứng rằng Ngài đáng được anh em tin cậy sao? Hãy đến và thưa với Ngài rằng: “Đức Chúa Jêsus sẽ đảm nhiệm tất cả; Ngài đáng cho tôi tin cậy.”

Hãy suy nghĩ về quyền phép thiên thượng của Ngài; chẳng những vậy thôi, hãy suy nghĩ về sự yêu thương lạ lùng của Ngài nữa. Hãy suy nghĩ về Ngài chịu chết trên núi Gô-gô-tha, đổ huyết ra vì cớ yêu thương anh em tha thiết. Ôi! Hãy suy nghĩ về điều đó. Đấng Christ ở trên Thiên đàng, yêu thương mọi người mà Đức Chúa Cha đã ban cho Ngài, và Ngài đã khiến họ trở nên con cái Đức Chúa Trời. “Ngài đã yêu kẻ thuộc về mình trong thế gian thì cứ yêu cho đến cuối cùng.” (Giăng 13:1b).

Tôi phải viện sự yêu thương của Đấng chịu đóng đinh trên cây thập tự mà nài xin anh em tín đồ rằng: Hãy nhìn xem Đức Chúa Jêsus, Con Đức Chúa Trời, là Đấng cứu chuộc anh em. Tôi nài xin anh em hãy tôn Ngài lên cai quản mọi sự. Hãy giao cho Ngài cai trị thiên tánh, tình cảm, ý tưởng, toàn thân của anh em, thì Ngài sẽ chứng tỏ rằng Ngài xứng đáng làm như vậy.

Trong một thời gian, Giô-sép chỉ là một tên tôi mọi thường và đã cùng nhiều tên tôi mọi khác hầu việc Phô-ti-pha. Chao ôi! Rất nhiều tín đồ dùng Đấng Christ cho mình được tấn phát và sự an nhàn, cũng như dùng mọi sự khác trong thế gian nầy. Họ dùng cha, mẹ, mục sư, tiền bạc và mọi sự khác mà thế gian cung cấp để cho mình được an nhàn, sung sướng. Có một sự nguy hiểm là họ cũng dùng Đức Chúa Jêsus Christ như vậy. Nhưng, hỡi anh em, điều đó không đúng. Anh em là nhà của Ngài và Ngài có quyền ở trong đó. Anh em há chẳng nên đem mọi sự đến đầu phục Chúa và thưa với Ngài rằng: “Lạy Đức Chúa Trời, tôi đã tôn Ngài lên cai quản mọi sự” sao?  

  1. Giới hạn của sự đầu phục:

Câu 4 chép rằng: “Phó của cải mình cho chàng hết”. Rồi tới câu 5: “Từ khi người đặt Giô-sép cai quản cửa nhà cùng hết thảy của cải mình rồi, thì Đức Giê-hô-va vì Giô-sép ban phước cho nhà người; sự ban phước của Đức Giê-hô-va bủa khắp mọi vật của người làm chủ.” Rồi tới câu 6: “Người giao hết của cải mình cho Giô-sép coi sóc, chẳng lo đến việc nào nữa, trừ ra các phần vật thực của mình ăn mà thôi”. Thế là Kinh Thánh bốn lần cố ý chép: “Hết thảy của cải mình”.

Tôi thấy gì đây? Phô-ti-pha thật đã giao hết mọi sự vào tay Giô-sép. Ông đặt Giô-sép làm chủ các tôi mọi của mình. Hết thảy tiền bạc đã giao vào tay Giô-sép, vì Kinh Thánh chép rằng: “Người chẳng lo đến việc nào nữa.” Khi đầy tớ bưng cơm lên bàn, thì ông ăn; trong nhà mình, ông chỉ biết chừng đó mà thôi. Đó há chẳng phải là sự đầu phục trọn vẹn sao? Ông đã giao hết mọi sự vào tay Giô-sép.

Hỡi anh em tín đồ yêu dấu, tôi muốn anh em tự hỏi rằng: “Ta đã làm như vậy chưa?” Anh em đã nhiều lần cầu nguyện hứa dâng mình cho Chúa, đã nhiều lần thưa với Chúa rằng: “Lạy Đức Chúa Jêsus, tôi xin dâng cho Ngài mọi sự tôi có”. Anh em đã nói như vậy và có ý làm như vậy; nhưng có lẽ lắm, anh em không nhận thấy tất cả ý nghĩa của lời cầu nguyện đó.

Dường như chữ “Đầu phục” luôn luôn có một ý nghĩa rộng rãi hơn và rõ ràng hơn. Chúng ta không thể thi hành hết ý định của mình; về sau, ta lấy lại một điều nầy, rồi một điều kia, cho đến cuối cùng, ta không còn thấy ý định đầu tiên của mình nữa. Hỡi anh em tín đồ yêu dấu, hãy giao hết mọi sự cho Đức Chúa Jêsus Christ. Hãy để Ngài làm Chủ cả tấm lòng và mọi tình cảm của mình. Chính Ngài yêu thương chúng ta còn nhiều hơn Giô-na-than yêu thương Đa-vít. Hãy dâng trọn tấm lòng mình cho Ngài và thưa với Ngài rằng: “Lạy Đức Chúa Jêsus, mỗi một đường tơ của tấm thân tôi, mỗi một sức mạnh của linh hồn tôi, sẽ phó dâng cho Ngài.” Ngài sẽ tiếp nhận sự đầu phục đó. Ngài đã phán một lời long trọng rằng: Ngươi phải ghét cha mẹ mình. (Luca 14:26). Ngày hôm nay, anh em hãy thưa với Ngài rằng: “Lạy Đức Chúa Jêsus, tôi xin dâng trọn cho Ngài lòng yêu thương cha mẹ, vợ con, anh em, chị em. Xin Ngài hãy dạy tôi biết yêu thương Ngài. Tôi chỉ ước ao một điều, là yêu thương Ngài. Tôi muốn dâng trọn tấm lòng mình để được đầy dẫy sự yêu thương của Ngài.”

Nhưng khi anh em đã dâng tấm lòng mình rồi, thì còn phải dâng nhiều điều khác nữa. Trước hết phải dâng đầu óc với mọi ý tưởng trong đầu óc. Tôi tin rằng rất nhiều tín đồ không biết mình ăn cắp của Đấng Christ bao nhiêu, vì đã đọc lắm sách vở thế gian. Họ thường quá ham đọc báo đến nỗi Kinh Thánh chỉ có một địa vị rất nhỏ. Hỡi anh em, tôi nài xin anh em hãy đem cái năng lực cao quý mà Đức Chúa Trời đã ban cho mình; tức là cái năng lực của trí óc có thể suy nghĩ về những sự thuộc về thiên thượng đời đời, vô cùng; đặt nó nơi chân Đức Chúa Jêsus và thưa với Ngài rằng: “Lạy Đức Chúa Jêsus, tôi muốn đêm hết mọi sở năng của toàn thân tôi đầu phục Ngài, ngõ hầu được Ngài dạy tôi biết phải suy nghĩ điều gì và suy nghĩ thế nào để cho Ngài và nước Ngài được vinh hiển”.

Ngợi khen Đức Chúa Trời, có những người đã dâng trí tuệ cho Đức Chúa Jêsus và Ngài đã nhận lấy. Đã dâng trí tuệ cho Chúa thì cũng phải dâng trọn đời sống bên ngoài cho Ngài. Nào mối liên quan với xã hội, nào địa vị giữa loài người, nào sự giao thiệp với gia đình và bạn hữu, nào tiền bạc, thì giờ và công cuộc làm ăn, - mọi sự đó phải giao vào tay Đức Chúa Jêsus. Chúng ta không thể biết trước hạnh phước của sự đầu phục nầy, nhưng chắc hẳn là có hạnh phước lắm. Hãy đến, vì anh em biết mình không thể tự giữ mọi sự mình có. Hãy dâng cha mẹ, vợ con, nhà cửa, đất ruộng, tiền bạc, hết mọi sự cho Đức Chúa Jêsus, thì anh em sẽ thấy rằng một khi dâng hết mọi sự thì sẽ được lại gấp trăm lần.

  1. Hạnh phước của sự đầu phục trọn vẹn:

Đây, anh em hãy đọc những lời tuyệt diệu: “Từ khi người đặt Giô-sép cai quản cửa nhà cùng hết thảy của cải mình rồi, thì Đức Giê-hô-va vì Giô-sép ban phước cho nhà người; sự ban phước của Đức Giê-hô-va bủa khắp mọi vật của người làm chủ hoặc trong nhà, hoặc ngoài đồng.” (câu 5). Hỡi anh em tín đồ, tôi xin hỏi anh em điều nầy: Nếu Đức Chúa Jêsus đã ban ơn như vậy cho kẻ thờ lạy tà thần kia vì cớ kẻ ấy tôn trọng Giô-sép, nếu Đức Chúa Trời đã vì cớ Giô-sép mà ban ơn cho người Ê-díp-tô kia một cách lạ lùng như vậy, thì tín đồ Đức Chúa Trời há lại không có thể dạn dĩ nói rằng: “Nếu tôi giao phó đời sống mình vào tay Đức Chúa Jêsus, thì tôi dám chắc Đức Chúa Trời há chẳng ban phước cho mọi vật thuộc về tôi sao?” Ôi! Anh em hãy mạnh dạn nói như vậy đi.

Phô-ti-pha tin cậy Giô-sép một cách cực điểm và tuyệt đối, nên ông được thạnh vượng trong mọi sự, vì Đức Chúa Trời ở cùng Giô-sép. Hỡi anh em yêu dấu, nếu anh em phó dâng hết mọi sự cho Chúa, thì hãy biết chắc rằng từ giờ phút đó trở đi, ơn phước sẽ thuộc về mình. Sẽ có hạnh phước cả đời sống bên trong (thiêng liêng) lẫn đời sống bên ngoài của anh em. Đức Chúa Trời ban phước cho Phô-ti-pha trong nhà, ngoài đồng ruộng và khắp mọi nơi.

Hỡi tín đồ Đấng Christ, ơn phước mà anh em sẽ nhận được là chi đó? Tôi không thể nói hết, nhưng tôi có thể nói với anh em điều nầy: Nếu anh em đến cùng Đấng Christ và phó dâng mọi sự cho Ngài, thì ơn phước của Đức Chúa Trời sẽ giáng trên mọi sự thuộc về anh em. Sẽ có ơn phước cho chính linh hồn anh em. “Người nào để trí mình nương dựa nơi Ngài, thì Ngài sẽ gìn giữ người trong sự bình yên trọn vẹn.” (Êsai26:3). Anh em hãy thử xem. Hãy tin cậy Đức Chúa Jêsus cho được mọi sự và hãy giao phó mọi sự cho Ngài  thì ơn phước của Đức Chúa Trời sẽ giáng trên anh em – tức là sự yên nghỉ êm dịu, sự yên nghỉ bởi đức tin.

Mọi sự ở trong tay Đức Chúa Jêsus: Ngài sẽ dắt dẫn, dạy dỗ, gìn giữ anh em, và sẽ làm việc trong anh em. Đối với anh em, Ngài sẽ là mọi sự. Chúng ta sẽ được hưởng sự yên nghỉ đầy hạnh phước, được thoát khỏi trách nhiệm và sự lo lắng, vì mọi sự ở trong tay Đức Chúa Jêsus! Tôi không nói rằng sự bối rối và thử thách sẽ không bao giờ xảy đến; nhưng ở giữa sự bối rối và thử thách, anh em sẽ được sự hiện diện đầy đủ của Đức Chúa Jêsus yên ủi, giúp đỡ và dắt dẫn.

Giô-sép đã bị các anh bán đi nhưng ông thấy Đức Chúa Trời trong sự đó, nên ông hoàn toàn thỏa lòng. Đấng Christ đã bị Giu-đa Ích-ca-ri-ốt phản, bị Cai-phe lên án, bị Phi-lát giao cho dân chúng gia hình nhưng trong mọi sự đó, Ngài thấy Đức Chúa Trời, nên được thỏa lòng. Hãy giao phó mọi chặng đường đời mình vào tay Đức Chúa Jêsus; hãy nhớ lời Ngài phán rằng: “Hai con chim sẻ há chẳng từng bị bán một đồng tiền sao? Và ví không theo ý muốn Cha các ngươi, thì chẳng hề một con nào rơi xuống đất. Tóc trên đầu các ngươi cũng đã đếm hết rồi.” (Ma-thi-ơ 10:29-30). Chính lúc nầy, anh em hãy ưng chịu và nói rằng: “Tôi sẽ giao phó mọi sự vào tay Đức Chúa Jêsus. Bất cứ việc gì xẩy ra cũng đều do ý chỉ của Ngài đối với tôi. Dầu Ngài ngự đến trong sự sáng hay sự tối tăm, trong giông tố hay trên biển xao động, thì tôi vẫn yên nghỉ trong sự tin quyết đó. Tôi giao phó cả đời tôi cho Ngài.”

Đọc sách tiên tri Giô-na, chúng ta thấy bàn tay Đức Chúa Trời trong mỗi bước từng trải của ông. Chính là Đức Chúa Trời đã làm nổi cơn bão tố khi Giô-na xuống tàu trốn đi; đã sai con cá voi nuốt ông đã truyền lịnh cho con cá voi nhả ông ra. Rồi sau cũng chính Đức Chúa Trời đã cho cây dưa mọc lên, đã khiến con sâu chích cây ấy đến héo, đã làm nổi cơn gió nóng lúc mặt trời thiêu đốt đến nỗi linh hồn Giô-na phải sầu thảm. Chúng ta há chẳng nhờ đó mà thấy rằng mọi cảnh ngộ trong đời mình, mọi sự an nhàn và mọi cơn thử thách đều do Đức Chúa Trời cho phép mà đến cho ta trong Đấng Christ, sao? Nếu không bởi ý chỉ của Đức Chúa Jêsus, thì không sự gì có thể đụng tới một sợi tóc trên đầu tôi; không một lời xẳng xớm nào có thể phạm đến tôi; không một trận gió nào có thể vây quanh tôi. Đời sống tôi đã giao phó trong tay Ngài, thì tôi không cần lo lắng chi nữa. Tôi có thể thỏa lòng về mọi sự Đức Chúa Jêsus ban cho.

Đức Chúa Trời ban phước cho Phô-ti-pha ngoài đồng ruộng nghĩa là trong cuộc sinh hoạt hữu hình ở ngoài nhà ông. Đức Chúa Trời cũng sẽ ban phước cho anh em đến nỗi trong sự giao thiệp với người ta, anh em sẽ là một nguồn phước. Bởi cách ăn ở trong sạch, khiêm nhường, cung kính, bình tĩnh, anh em có thể yên ủi người ta. Vì lúc nào cũng có lòng từ ái, sẵn sàng hầu hạ và giúp đỡ mọi người, anh em có thể chứng tỏ rằng Thánh Linh của Đức Chúa Trời đã làm những gì trong anh em.

Ôi! Hỡi anh em, hỡi chị em, anh chị em và tôi đều khổng hiểu hết cái lẽ Đức Chúa Trời sẵn lòng ban phước cho linh hồn nào đã giao phó trọn vẹn cho Đức Chúa Jêsus. Đức Chúa Trời không thể vui lòng nơi người nào hoặc vật nào ngoài ra Đức Chúa Jêsus. Đức Chúa Trời vui lòng vô cùng trong Đức Chúa Jêsus. Đức Chúa Trời không muốn thấy chút gì trong chúng ta ngoài ra Đức Chúa Jêsus. Nếu tôi dâng trọn tấm lòng cùng đời sống cho Đức Chúa Jêsus và thưa với Đức Chúa Trời rằng: “Lạy Đức Chúa Trời, tôi chỉ muốn Ngài thấy Đức Chúa Jêsus trong tôi mà thôi” thì tôi đã dâng lên Đức Chúa Cha một tế lễ đẹp lòng Ngài hơn hết. Hỡi anh em tín đồ, hãy đến hôm nay; hãy ra khỏi mọi sự bối rối, cố gắng và tự tin của mình và hãy để Con yêu dấu của Đức Chúa Trời chiếm ngự cõi lòng mình.

CHƯƠNG VII

CHẾT VỚI ĐẤNG CHRIST

“Tôi đã bị đóng đinh vào thập tự giá với Đấng Christ.”

(Galati 2:20)

        Về phương diện nầy, chúng ta hãy đọc truyện tích một người thật đã bị đóng đinh vào thập tự giá với Đấng Christ. Chúng ta có thể dùng tất cả bài tường thuật công việc của Đấng Christ trong xác thịt, trên mặt đất nầy, làm hình bóng về công việc thiêng liêng của Ngài. Trong trường hợp nầy, chúng ta hãy dùng truyện tích tên trộm cướp ăn năn (Luca 23:39-43), vì tôi nghĩ rằng chúng ta có thể học nơi hắn cho biết cách sinh hoạt như những người “đã bị đóng đinh vào thập tự giá với Đấng Christ”.

        Sứ đồ Phao-lô nói rằng: “Tôi đã bị đóng đinh vào thập tự giá với Đấng Christ.”; lại rằng: “Còn như tôi, tôi hẳn chẳng khoe mình, trừ ra khoe về thập tự giá của Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta, bởi thập tự giá ấy, thế gian đối với tôi đã bị đóng đinh, và tôi đối với thế gian cũng vậy!” (Galati 6:14). Chúng ta thường nóng nẩy hỏi rằng: “Tôi làm thế nào cho thoát khỏi sự sống bổn ngã?” Xin đáp: “Hãy nhận lấy một sự sống khác”. Chúng ta thường nói về quyền phép Đức Thánh Linh giáng trên mình; nhưng tôi ngờ rằng chúng ta không hoàn toàn nhận thấy rằng Đức Thánh Linh là sự sống thiên thượng đến để loại bỏ sự sống bổn ngã, sự sống xác thịt, sự sống trần gian. Nếu chúng ta thật muốn hưởng trọn sự yên nghỉ trong Đức Chúa Jêsus, thì phải có Ngài ngự vào lòng mình với quyền phép sự chết của Ngài, để giết chết bổn tánh thiên nhiên của ta, để chiếm lấy ta, và để sống lại chính cuộc đời Ngài bởi sự đầy dẫy của Đức Thánh Linh.

        1. Hai phương diện của sự chết Đấng Christ.

        Lời Đức Chúa Trời đưa chúng ta đến thập tự giá của Đấng Christ; lời ấy dạy chúng ta hai điều về thập tự giá đó.

        Thập tự giá dạy chúng ta rằng Đấng Christ đã chết vì tội lỗi. Trong công việc đó, chỉ có một mình Ngài. Đấng Christ cũng đã chết về tội lỗi. Trong công việc đó, tôi có thông công với Ngài. Tôi đã bị đóng đinh vào thập tự giá, tôi đã chết.

        Đây là vấn đề hệ trọng mà tôi muốn giải luận cùng anh em. Chết với Đấng Christ là gì? Về thực tế, tôi làm thế nào mà cùng vào trong sự chết nầy với Đấng Christ được? Chúng ta biết rằng đặc sắc trọng yếu của Đấng Christ là sự chết của Ngài. Từ cõi đời đời, Ngài đã đến với mạng lệnh của Đức Chúa Cha truyền rằng Ngài phải phó mạng sống trên mặt đất. Ngài dâng trọn mình để làm theo mạng lệnh ấy và luôn luôn hướng mặt về thành Giêrusalem. Ngài đã chọn sự chết. Ngài đã sống và hành động trên mặt đất để tự dọn mình chịu chết. Sự chết của Ngài là quyền phép cứu chuộc.

        Dấu hiệu trọng yếu của Đấng Christ chính là sự chết của Ngài. Ngày ở Thiên đàng, Ngài cũng ngự trên ngôi theo tư cách Chiên Con đã bị giết. Suốt cõi đời đời, các thánh đồ sẽ hát rằng: “Ngài đáng…vì Ngài đã chịu giết.” (Khải Huyền  5:9). Hỡi anh em yêu dấu, Đấng Christ của anh em, Cứu Chúa của anh em có sự đầy đủ trọn vẹn, chính là một Người mà dấu hiệu trọng yếu và sự vinh hiển tuyệt vời là: Ngài đã chịu chết.

        2. Chúng ta cùng chết với Đấng Christ.

        Nếu Tân Phụ là Hội thánh, muốn sống chúng với Chồng, là Đấng Christ thì phải bước vào địa vị của Ngài, và phải luôn luôn giống như Ngài. Nếu muốn từng trải quyền phép đầy trọn của công việc Đấng Christ có thể làm cho mình thì chúng ta phải học tập chết với Đấng Christ. Có lẽ tôi không muốn nói: “Chúng ta phải học tập chết với Đấng Christ.”, nhưng nên nói: “Chúng ta phải học biết rằng mình đã chết với Đấng Christ.” Đó là một ý tưởng cao siêu trong Rôma 6. Phao-lô viết cho mỗi một tín đồ trong Hội Thánh Rôma (không phải là riêng cho các tín đồ chọn lọc, hoặc các tín đồ tấn tới, nhưng cho mỗi một tín đồ trong Hội Thánh Rôma; bất cứ họ yếu đuối thế nào) rằng: “Anh em đã chết với Đấng Christ.” Dựa vào sức mạnh của lẽ đó, ông nói rằng: “Anh em cũng hãy coi mình như chết về tội lỗi.” (Rô-ma 6:11a).

        Anh em chết về tội lỗi, thì có ý nghĩa gì? Chúng ta phải liên tưởng tới A-đam, thì mới có thể hiểu nghĩa câu nầy rõ hơn. Đấng Christ là A-đam thứ hai. Trong A-đam thứ nhất đã xảy ra sự gì? Trong A-đam thứ nhất, tôi đã chết; đã chết đối với Đức Chúa Trời; đã chết trong tội lỗi. Khi mới sanh ra, trong tôi có sự sống của A-đam; sự sống nầy có mọi đặc sắc của cuộc đời A-đam sau khi ông sa ngã. A-đam chết đối với Đức Chúa Trời, và chết trong tội lỗi; tôi thừa hưởng sự sống của A-đam nên cũng chết trong tội lỗi và chết đối với Đức Chúa Trời như ông vậy.

        Nhưng chính lúc tôi bắt đầu tin Đức Chúa Jêsus, thì tôi liên hiệp với Ngài, là A-đam thứ hai. Tôi do sự sanh ra mà thật liên hiệp với A-đam thứ nhất thể nào, thì cũng dự phần sự sống của Đấng Christ bởi sự tái sanh thể ấy. Sự sống nào đó? Ấy là sự sống đã chết về tội lỗi trên cây thập tự để sống lại với Đấng Christ. Vậy nên Đức Chúa Trời dùng sứ đồ Phao-lô bảo với chúng ta rằng: “Anh em cũng hãy coi mình như chết về tội lỗi và như sống cho Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Jêsus Christ.” (Rô-ma 6:11- chữ “coi” có thể dịch là “kể”.) Anh em phải kể là thật như vậy; vì do sự anh em liên hiệp sinh động với Đấng Christ thì bổn tánh mới của anh em thật đã hoàn toàn chết về tội lỗi.

        Nếu chúng ta muốn có Đấng Christ thật mà Đức Chúa Trời ban cho mình, Đấng Christ thật đã chịu chết về mình, với tất cả quyền phép sự chết và sự sống lại của Ngài, thì chúng ta phải đứng vào đây. Nhưng nhiều tín đồ không hiểu Rô-ma 6 dạy bảo chúng ta điều chi. Họ không biết mình đã chết về tội lỗi. Họ không biết điều đó, nên sứ đồ Phao-lô dạy họ rằng: “Anh em chẳng biết rằng chúng ta thảy đều đã chịu phép báp têm trong Đức Chúa Jêsus Christ, tức là chịu phép báp têm trong sự chết Ngài sao? (câu 3). Chúng ta đã chết về tội lỗi trong Đấng Christ, thì thể nào còn sống trong tội lỗi được nữa? Quả thật, chúng ta có sự chết và sự sống của Đấng Christ hành động trong mình. Nhưng, tiếc thay phần đông tín đồ không biết điều đó, nên không từng trải hoặc thực hành điều đó. Họ cần được dạy bảo rằng sự nhu cầu thứ nhất của họ là phải được đưa đến chỗ nhìn nhận và hiểu biết việc gì đã xảy ra trong Đấng Christ trên núi Gô-gô-tha và việc gì đã xảy ra trong cái thực sự họ liên hiệp với Đấng Christ.

        Anh em hãy nắm chặt lấy sự liên hiệp của mình với Đấng Christ; hãy tin bổn tánh mới ở trong mình, tức là sự sống thuộc linh mà Đấng Christ ban cho mình; sự sống nầy đã chết và đã được sống lại. Hành động của một người bao giờ cũng xứng hợp với ý niệm địa vị của người đó. Một người làm vua thì phải cư xử như vua bằng không, chúng ta sẽ nói rằng: “Người đó đã quên địa vị của mình.” Nhưng nếu người đó cảm thấy mình là vua thì sẽ cư xử như vua. Cũng một thể ấy, tôi không thể sống cuộc đời của một tín đồ chân chánh nếu tôi không hằng ngày có sự cảm biết đầy trọn nầy: “Tôi cảm tạ Đức Chúa Trời vì tôi đã chết trong Đấng Christ, Đấng Christ đã chết về tội lỗi, và tôi liên hiệp với Đấng Christ; vậy nên Đấng Christ sống trong tôi và tôi chết về tội lỗi.

        Sự sống mà Đấng Christ sống trong tôi là gì? Muốn giải đáp câu ấy, trước hết, phải hỏi rằng sự sống mà A-đam sống trong tôi là gì? A-đam sống tôi một sự sống tiêm nhiễm sự chết, một sự sống đã sa ngã dưới quyền của tội lỗi và sự chết – chết đối với Đức Chúa Trời. Khi tôi chưa trở lại cùng Chúa, thì A-đam tự nhiên sống trong tôi bằng sự sống đó. Đấng Christ là A-đam thứ hai, đã đến cùng tôi với một sự sống mới; hiện nay tôi sống bằng sự sống của Ngài, tức là sự sống của Đấng Christ từ sự chết mà ra. Trong khi chưa biết sự sống đó, thì tôi không thể hành động theo sự sống đó, mặc dầu nó vẫn ở trong tôi.

        Ngợi khen Đức Chúa Trời, khi một người bắt đầu thấy sự sống đó là gì, bắt đầu lấy lòng vâng phục mà nói rằng: “Tôi sẽ làm theo lời Đức Chúa Trời phán; tôi đã chết, tôi kể mình là chết.” – thì người ấy liền bước vào sự sống mới. Dựa vào sức mạnh Lời Đời Đời của Đức Chúa Trời, vào sự liên hiệp của mình với Đấng Christ, vào cái thực sự hệ trọng trên núi Gô-gô-tha, anh em hãy kể, hãy biết rằng mình thật đã chết về tội lỗi.

        Tín đồ phải thấy lẽ thật trên đây; đó là bước thứ nhất. Bước thứ hai là: Tín đồ phải tiếp nhận lẽ thật ấy bởi đức tin. Rồi có sự gì xảy ra? Khi họ đã tiếp nhận lẽ thật ấy bởi đức tin, thì trong lòng họ liền diễn ra một cuộc giao chiến, một sự từng trải đau đớn, vì đức tin ấy còn yếu đuối lắm. Họ bèn hỏi rằng: “Nếu tôi đã chết về tội lỗi, thì tại sao tôi còn phạm nhiều tội lỗi như vậy?” Lời Đức Chúa Trời đáp lại đơn sơ rằng: “Anh em không chịu để Đức Thánh Linh áp dụng quyền phép của sự chết đó.” Chúng ta cần phải hiểu rằng Đức Thánh Linh giáng xuống từ Thiên đàng, từ Đức Chúa Jêsus đã được tôn vinh để đem sự chết và sự sống của Đức Chúa Jêsus vào trong chúng ta. Sự chết và sự sống ấy có liên lạc chặt chẽ với nhau, không sao phân rẽ được. Khi Đấng Christ chết, thì Ngài chết về tội lỗi; còn khi Đức Chúa Trời sống thì Ngài sống cho Đức Chúa Trời.

        Trong Ngài, sự chết và sự sống rất trương quan mật thiết với nhau; cũng một thể ấy; trong chúng ta, sự sống của Đức Chúa Trời trong Đấng Christ có tương quan mật thiết với sự chết về tội lỗi, không sao thiếu mặt nầy mà lại có mặt kia được.

        Đó là điều Đức Thánh Linh sẽ dạy dỗ chúng ta và làm trọn trong ta. Nếu tôi đã tiếp nhận Đấng Christ bởi đức tin và bởi Đức Thánh Linh, nếu tôi đầu phục Ngài thì hằng ngày Đấng Christ sẽ chiếm lấy tôi, sẽ bày tỏ nơi lòng tôi cái quyền phép đầy trọn do mối thông công của tôi với sự chết và sự sống của Ngài.

        Đối với một số người, chắc chắn là sự từng trải nầy xảy ra trong một lúc có quyền phép và ơn phước cao cả. Họ lập tức thấy, nhận và vào trong sự chết đó; như vậy Đức Chúa Trời làm cho họ từng trải sự chết về tội lỗi. Không phải là sự khuynh hướng về tội ác đã bị nhổ tung gốc rễ. Không; nhưng quyền phép của sự chết Đấng Christ giữ họ khỏi phạm tội và hủy diệt quyền phép của tội lỗi. Quyền phép của sự chết. Đấng Christ có thể được bày tỏ bằng cách Đức Thánh Linh không ngừng trừ diệt công việc của bổn tánh xác thịt.

        3. Cần tấn tới luôn trong đời thiêng liêng.

        Có người hỏi tôi rằng còn có cần lớn lên nữa chăng? Chắc hẳn phải vậy. Bởi Đức Thánh Linh, bây giờ tín đồ có thể bắt đầu sống và lớn lên, càng ngày càng đi sâu vào mối thông công với sự chết của Đấng Christ. Họ khám phá nhiều điều mới lạ trong những phạm vi mà mình chưa hề nghĩ đến.

        Một người có thể thỉnh thoảng được đầy dẫy Đức Thánh Linh mà vẫn còn những sự bất toàn to tát. Tại sao vậy? Vì cớ nầy: Có lẽ vì lòng họ chưa được dự bị đầy đủ bằng cách khám phá ra tất cả tội lỗi. Có lẽ có sự kiêu ngạo, hoặc sự tưởng mình ra chi, hoặc sự hăng hái nông nổi, hoặc những tánh nết khác thuộc về loại đó mà họ chưa hề nhận thấy. Đức Thánh Linh luôn luôn tống bỏ những tánh hạnh nầy ngay đâu. Có nhiều phương pháp khác nhau để bước vào cuộc đời hạnh phước. Có người bước vào cuộc đời hạnh phước với cái ý nhiệm được quyền phép để hầu việc Đức Chúa Trời; người khác vào đó với cái ý niệm được yên nghỉ, khỏi mọi sự lo lắng và nhọc nhằn; người khác nữa với lại cái ý niệm được buông tha khỏi tội lỗi.

        Trong mọi phương diện nầy, vẫn có một sự hạn chế; vậy nên sau khi biết quyền phép sự chết của Đấng Christ, mỗi một tín đồ phải cứ dâng mình trọn vẹn và luôn luôn nói rằng: “Lạy Đức Chúa Jêsus, nguyện quyền phép sự chết của Ngài cứ hành động và thấu suốt toàn thân tôi.” Khi tín đồ đã dâng mình trọn vẹn cho Chúa, không giữ lại chút gì, thì liền bắt đầu mang dấu hiệu của một người bị đóng đinh và thập tự giá. Sứ đồ Phao-lô nói rằng: “Tôi đã bị đóng đinh vào thập tự giá.” (Ga-la-ti 2:20), và ông sống như một người bị đóng đinh vào thập tự giá.

        4. Các dấu hiệu của một người bị đóng đinh vào thập tự giá là gì?

        Trước hết là sự khiêm nhường sâu xa tuyệt đối. “Đấng Christ đã…tự hạ mình xuống, vâng phục cho đến chết, thậm chí chết trên cây thập tự.” (Phi-líp 2:8). Khi sự chết về tội lỗi bắt đầu hành động mạnh mẽ, thì sẽ có một bằng cớ trọng yếu và hạnh phước hơn hết, tức là sự khiêm nhường. Tín đồ sẽ hạ mình xuống, và lòng học chỉ tha thiết mong mỏi rằng: “Ôi! Nguyện tôi càng cúi thấp hơn trước mặt Đức Chúa Trời và không đáng kể là chi hết hầu cho sự sống của Đấng Christ được tôn cao. Tôi không dâng được chi hết, ngoài ra sự rủa sả trên cây thập tự. Tôi xin phó mình vào thập tự giá.” Sự khiêm nhường là một dấu hiệu trọng yếu của người đã bị đóng đinh vào thập tự giá.

        Một dấu hiệu khác là sự vô quyền và bất lực. Khi một người nào bị treo trên cây thập tự, thì hoàn toàn bất lực, không làm chi được nữa. Đang khi chúng ta, là tín đồ, có sức mạnh, có thể làm việc hoặc chiến đấu, thì ta không thể bước vào sự sống hạnh phước của Đấng Christ. Nhưng khi một người nói rằng: “Tôi là một người bị đóng đinh vào thập tự giá, tôi hoàn toàn bất lực; tất cả hơi thở, sự sống và sức mạnh của tôi phải do nơi Đức Chúa Jêsus.”, thì chúng ta sẽ học biết thể nào là nhìn nhận mình vô quyền và nói rằng: “Tôi chẳng đáng kể là chi hết!”

        Một dấu hiệu khác của sự bị đóng đinh vào thập tự giá là sự yên nghỉ. Chính thật vậy, Đấng Christ đã bị đóng đinh vào thập tự giá, đã đi xuống mồ mả và chúng ta cũng bị đóng đinh vào thập tự giá và bị chôn với Ngài. Không có nơi yên nghỉ nào bằng mồ mả; trong đó, chẳng ai làm chi được. Vua Đa-vít và đáng Mê-si đã nói rằng: “Xác thịt tôi yên nghỉ trong sự trông cậy.” (Thi 16:9-theo nguyên văn). Chính thật vậy. Khi tín đồ vào trong mồ mả của Đức Chúa Jêsus, thì có nghĩa là họ kêu la rằng: “Tôi không có chi hết ngoài ra Đức Chúa Trời; tôi tin cậy Đức Chúa Trời; tôi chầu trước mặt Đức Chúa Trời; xác thịt tôi yên nghỉ trong Ngài; tôi đã phó dâng mọi sự hầu cho được yên nghỉ và chờ đợi những điều Đức Chúa Trời sẽ làm cho tôi”.

        Anh em hãy nhớ rằng sự đóng đinh vào thập tự giá, sự chết và sự chôn trong mồ mả hiệp một với nhau, không sao chia rẽ được. Hãy nhớ rằng mồ mả là nơi quyền phép sống lại phi thường của Đức Chúa Trời được tỏ ra. Hãy nhớ những lời quý báu nầy trong sách Tin Lành Giăng 11: “Ta há chẳng từng nói với ngươi rằng” – Đấng Christ phán như vậy khi nào? Khi ở trước mồ mả của La-xa-rơ – “nếu ngươi tin thì sẽ thấy sự vinh hiển của Đức Chúa Trời sao?” (câu 40). Tôi sẽ đi đâu cho thấy sự vinh hiển của Đức Chúa Trời một cách rực rỡ hơn hết? Phải đến bên cạnh mồ mả. Hãy lấy đức tin mà vào trong sự chết, thì sự vinh hiển của Đức Chúa Trời sẽ giáng trên anh em và đầy dẫy lòng anh em.

        Hỡi anh em yêu dấu, chúng ta cần phải chết. Nếu muốn sống trong sự yên nghỉ, sự bình an và suối ơn phước của Đấng Christ, nếu muốn sống một đời vui vẻ, kết quả, mạnh mẽ và đắc thắng, thì phải vào trong mồ mả với Đấng Christ. Đời sống của chúng ta phải dùng câu nầy làm khẩu hiệu: “Tôi là một người bị đóng đinh vào thập tự giá. Ngợi khen Đức Chúa Trời! Dầu trong tôi không có chi hết ngoài ra tội lỗi, nhưng tôi có Đức Chúa Jêsus hằng sống đời đời, luôn với sự chết và sự sống của Ngài, làm sự sống cho linh hồn tôi.”

        5. Tôi làm thế nào mà thông công với thập tự giá như vậy được?

        Chúng ta có một thí dụ trong truyện tích tên trộm cướp ăn năn. Trước khi Đấng Christ chịu chết, Thô-ma nói rằng: “Chúng ta cũng hãy đi tới đó đặng chết với Ngài.” (Giăng 11:16), còn Phi-e-rơ thưa với Chúa rằng: “Thưa Chúa, tôi sẵn lòng đi theo Chúa, đồng tù đồng chết.” (Luca 22:33). Nhưng hết thảy môn đồ đã sờn ngã. Chúa bèn chọn lấy một người, vốn là rác rến, cặn bã của thế gian, treo trên cây thập tự ở núi Gô-gô-tha, bên cạnh Ngài, rồi Ngài phán với Phi-e-rơ và mọi người rằng: “Ta sẽ tỏ cho các ngươi thấy thế nào là cùng chết với ta.” Ngày nay Ngài cũng phán như vậy với người yếu đuối và thấp hèn hơn hết; nếu anh em mong biết thế nào là bước vào trong sự chết với Đức Chúa Jêsus thì hãy đến nhìn xem tên trộm cướp ăn năn.

        Chúng ta thấy gì ở đó? Trước hết, chúng ta thấy tình trạng của một tấm lòng sẵn sàng đồng chết với Đấng Christ. Chúng ta thấy trong tên trộm cướp ăn năn đó có sự xưng tội một cách khiêm nhường và hết lòng. Kìa, hắn bị treo trên cây gỗ bị rủa sả, và đoàn dân đông đúc đang nói phạm thượng Đấng bị treo bên cạnh hắn; nhưng hắn không hổ thẹn mà xưng nhận trước công chúng rằng: “Tôi đang chịu sự chết xứng đáng; tôi chịu đau đớn là công bình lắm; thập tự giá nầy là phần tôi đáng chịu.”

        Đó là một trong những duyên cớ làm cho Hội thánh Đấng Christ ít bước vào trong sự chết của Đấng Christ; người ta không muốn tin rằng sự rủa sả của Đức Chúa Trời giáng trên bất cứ sự gì trong họ chưa chết với Đấng Christ. Người ta nói về sự rủa sả tội lỗi, nhưng họ không hiểu biết rằng tất cả bổn tánh thiên nhiên đã bị tội lỗi làm cho hư hoại, và sự rủa sả đã giáng trên mọi sự. Trí tuệ tôi đã bị tội lỗi làm cho ô uế. Sự rủa sả tội lỗi giáng trên trí tuệ tôi, nên trí tuệ tôi phải vào trong sự chết.

        Ôi! Tôi tin rằng Hội Thánh Đấng Christ ngày nay bị thiệt hại và quá tin cậy vào trí tuệ sáng suốt, vào văn hóa hay giỏi và vào đầu óc khôn ngoan, hơn mọi sự gì khác. Tinh thần thế gian xen vào, người ta muốn dùng sự khôn ngoan và tri thức của mình để giúp đỡ đạo Tin Lành; họ đã ăn cắp cái dấu hiệu đóng đinh vào thập tự giá của đạo Tin Lành. Đấng Christ đã truyền lệnh cho Phao-lô đi giảng Tin Lành về thập tự giá, nhưng “chẳng phải bằng bài diễn thuyết khéo léo của sự khôn ngoan.” (I Cô-rinh-tô 2:4).

         Sự rủa sả tội lỗi giáng trên mọi sự thuộc về bổn tánh thiên nhiên. Nếu có vị mục sư nào đã thích giảng đạo, đã gắng hết sức làm việc, đã dâng phần tốt nhất của tài trí và tư tưởng mình, rồi hỏi rằng: “Mọi sự đó có phải vào trong mồ mả chăng?” thì xin đáp: “Anh ơi, phải, cả người phải bị đóng đinh vào thập tự giá”.

        Về tình cảm cũng vậy. Còn gì tốt đẹp bằng sự yêu thương của con đối với mẹ? Dầu vậy, trong thiên tánh yêu thương tốt đẹp đó vẫn có một phần gì chưa được nên thánh, nên nó cũng phải phó vào sự chết. Đức Chúa Trời sẽ làm cho sự yêu thương đó sống lại từ trong kẻ chết và ban nó lại cho ta; bây giờ thì nó đã nên thánh và sống cho Đức Chúa Trời. Tất cả sự sống và cuộc đời tôi phải trải qua như vậy.

        Phó một điều nào vào sự chết là rất khó; hơn nữa, phó sự sống của tôi vào sự chết thì lại là khó hơn hết. Tôi sẽ chẳng bao giờ phó sự sống của tôi vào sự chết, trừ khi học biết rằng mọi điều thuộc về sự sống tôi đã in dấu vết tội lỗi; khi ấy, tôi sẽ phó sự sống mình vào trong sự chết, vì đó là phương pháp có một không hai để làm cho nó sống lại và nên thánh.

        Tên trộm cướp ăn năn đã xưng hết tội lỗi và nhận rằng mình đáng chết. Rồi hắn tin quyền phép toàn năng của Đấng Christ. Thật là một đức tin lạ lùng! Trong Kinh Thánh, không có đức tin nào sánh ngang với đức tin của hắn. Kìa, tên trộm cướp đáng bị rủa sả đồng bị treo với Đức Chúa Jêsus, mà hắn dám cất tiếng nói rằng: Tôi đang chết ở đây, dưới sự rủa sả công bình giáng trên tội lỗi của tôi, nhưng tôi tin rằng Ngài có thể đem tôi vào trong lòng Ngài. Vậy, khi Ngài vào trong nước Ngài, thì xin nhớ tôi. Ôi! Nguyện chúng ta học tập tin quyền phép toàn năng của Đấng Christ. Tên trộm cướp đó tin rằng Đấng Christ là Vua và có một nước; Ngài sẽ bồng ẵm hắn trong tay và trong lòng khi vào trong nước Ngài, thì Ngài sẽ nhớ hắn. Hắn tin như vậy và chết trong đức tin đó.

        Hỡi anh em, anh em và tôi cần phải để thì giờ bước vào một đức tin sâu rộng hơn đối với quyền của Đấng Christ, ngõ hầu Đấng Christ toàn năng thật bồng ẵm chúng ta trong tay Ngài, đem ta trải qua một đời chết và bày tỏ quyền phép sự chết của Ngài ở trong chúng ta. Nếu không hằng giờ, hằng ngày tiếp xúc thân mật với Đấng Christ, thì không thể sống một cuộc đời chết đó. Đấng Christ phải làm và có thể làm như vậy.

        Đấng Christ sẽ đưa anh em qua chính con đường mà Ngài đã trải qua; Ngài sẽ khiến sự chết của Ngài hành động trong anh em mỗi ngày suốt đời sống anh em.

        Tôi xin chú ý một điều nữa trong tên trộm cướp ăn năn; ấy là lời cầu nguyện của hắn. Hắn quả quyết nhìn nhận tội lỗi và có đức tin. Hắn lại bày tỏ đức tin ấy bởi sự cầu nguyện. Hắn đã quay về với Đức Chúa Jêsus. Hãy nhớ rằng cả thế gian (có lẽ chỉ trừ Ma-ri và mấy người đàn bà) đã quay lại phản nghịch cùng Đấng Christ trong ngày đó. Khi ấy, khắp cả thế gian, chỉ có tên trộm cướp nầy cầu nguyện với Đấng Christ. Anh em chớ chờ xem kẻ khác sẽ làm gì. Nếu chờ xem như vậy thì anh em sẽ không tìm thấy một bạn đồng tâm đồng chí trong Hội Thánh Đấng Christ.

        Hãy cầu nguyện không ngừng rằng: “Lạy Chúa Christ, nguyện xin quyền phép sự chết của Ngài vào trong tôi.” Nếu anh em muốn cuộc đời ở Thiên đàng, thì phải chết về tội lỗi bởi quyền phép của Đức Chúa Jêsus. Anh em phải tự phó linh hồn mình vào sự chết của Ngài về tội lỗi, phải tự mình bằng lòng để Đức Chúa Jêsus làm việc quyền năng đó.

        Chúng ta đã thấy tên trộm cướp nầy đã được dự bị thế nào; bây giờ đến điểm thứ hai: Chúng ta hãy xét xem Đấng Christ đối xử với hắn thế nào? Anh em hẳn đã biết: Ngài ban cho hắn lời hứa lạ lùng gồm có ba phần lạ lùng, rằng: “Hôm nay ngươi sẽ được ở với ta trong nơi Ba-ra-đi” (Luca 23:43). Ấy là một lời hứa cho hắn được thông công với Đấng Christ – “Ngươi sẽ được ở với ta”, cũng là một lời hứa cho hắn được yên nghỉ đời đời ở Thiên đàng; là nơi mà tội lỗi hằng muốn xua đuổi loài người, không cho họ vào đó. – “Với ta trong nơi Ba-ra-đi”. Và ấy cũng là một lời hứa ban phước ngay tức thì. “Hôm nay ngươi sẽ được ở với ta.”

        Đấng Christ đem ba ơn phước đó đến với anh em cùng tôi và Ngài phán rằng: “Hỡi tín đồ, ai muốn sống cuộc đời trên Thiên đàng là nơi ta cho các linh hồn ăn trái cây sự sống trong nơi Ba-ra-đi của Đức Chúa Trời, chăng? Ngươi có mong mỏi được thông công không dứt với Đức Chúa Trời, tức là sự thông công vốn có ở nơi Ba-ra-đi[4] trước khi A-đam sa ngã chăng? Ngươi có mong mỏi được thông công trọn vẹn với ta, mong mỏi sống nơi ta đang sống, mong mỏi sống trong sự yêu thương của Đức Chúa Cha chăng? Chính ngày hôm nay, chính ngày hôm nay, đúng như ta đã phán rằng: “Hôm nay ngươi sẽ được ở với ta!” Ngươi có mong mỏi được ta chăng? Ta mong mỏi được ngươi lắm đấy. Ngươi có mong mỏi được thông công với ta chăng? Ta luôn luôn mong mỏi được thông công với ngươi đấy, vì, hỡi con, ta cần được sự yêu thương của con làm thỏa lòng ta. Không gì có thể ngăn trở ta nhận con vào thông công với ta. Nếu ngươi muốn, thì hôm nay ngươi sẽ được ở với ta trong nơi Ba-ra-đi[5].”

        Cảm tạ Đức Chúa Trời, Đức Chúa Jêsus của tên trộm cướp ăn năn kia cũng là Đức Chúa Jêsus của tôi! Cảm tạ Đức Chúa Trời, thập tự giá của tên trộm cướp ăn năn kia cũng là thập tự giá của tôi! Nếu muốn thông công thân mật hơn hết với Chúa yêu dấu của tôi, thì tôi phải thú nhận địa vị tội lỗi của mình. Trong 33 năm Đấng Christ sống trên mặt đất, không một người nào được thông công kỳ diệu với Con Đức Chúa Trời cho bằng tên trộm cướp ăn năn, vì hắn đã cùng vào nơi vinh hiển với Ngài ngay lúc bấy giờ. Tại sao hắn khác hẳn với mọi người như vậy? Bởi hắn đã đồng ở trên thập tự giá với Đức Chúa Jêsus, nên đã cùng Ngài vào ở nơi Ba-ra-đi. Cũng một thể ấy, nếu tôi đồng chết trên thập tự giá với Đức Chúa Jêsus, thì cũng sẽ được đồng sống hằng ngày với Ngài ở nơi Ba-ra-đi.

        Bây giờ, Đức Chúa Jêsus đã ban cho tôi lời hứa ấy, thì tôi phải làm gì? Phải “nhổ neo buông dõi!” Kìa khi một chiếc tàu đậu ngoài bến, mọi sự đã sẵn sàng để khởi hành, và mọi người đã lên tàu rồi, thì thuyền trưởng cho rung hồi chuông cuối cùng, rồi có lệnh truyền rằng: “Hãy nhổ neo buông dõi đi!” Bấy giờ người ta mở dõi thì tàu bắt đầu chạy. Có nhiều điều ràng buộc chúng ta với thế gian, với sự sống của xác thịt và của bổn ngã; nhưng ngày nay có lệnh truyền rằng: “Nếu ngươi muốn đồng chết với Đức Chúa Jêsus thì hãy nhổ neo buông dõi đi”.

        Anh em không cần hiểu biết hết mọi sự. Có lẽ không phải hoàn toàn rõ rệt mọi điều; có lẽ tấm lòng có vẻ buồn tẻ, nhưng chớ e ngại. Đức Chúa Jêsus đã đem tên trộm cướp ăn năn kia qua sự chết đến sự sống. Tên trộm cướp không biết mình sắp sửa đi đâu, không biết sẽ xảy ra việc gì, nhưng Đức Chúa Jêsus là Đấng toàn năng đắc thắng trọn vẹn, bồng hắn trong tay và đặt hắn vào nơi Ba-ra-đi mà hắn không biết. Ôi! Thỉnh thoảng tôi nói trong linh hồn mình rằng: Ngợi khen Đức Chúa Trời vì cớ tên trộm cướp ăn năn kia không biết gì hết. Hắn không biết chi hết về việc sắp xảy ra, nhưng hắn đã tin cậy Đấng Christ.

        Dầu tôi không hiểu hết sự chịu đóng đinh vào thập tự giá với Đấng Christ, sự chết về tội lỗi, sự sống cho Đức Chúa Trời và sự vinh hiển tràn ngập vào lòng tôi, thì cũng không sao. Tôi cứ cậy lời hứa của Chúa; như một kẻ bất lực, tôi lăn vào cánh tay Ngài và cứ giữ vững địa vị của mình trên cây thập tự. Đã phó mình cho Đức Chúa Jêsus để đồng chết với Ngài, thì tôi có thể tin cậy Ngài sẽ dắt đem tôi bình an vô sự.

        Mỗi một chúng ta há chẳng nên bắt lấy cơ hội hạnh phước mà làm việc Ru-tơ đã làm sao? Nàng đã vâng lời khuyên dạy của bà gia, đã đến gieo mình bên chân Bô-ô, thì cũng một thể ấy, anh em hãy đến gieo mình nơi chân Đấng Christ, là Đấng cứu chuộc anh em, để thuộc trọn về Ngài. Chúng ta há chẳng nên tiếp xúc thân mật với Đức Chúa Jêsus hơn thế sao?

        Mỗi người chúng ta há chẳng nên nói những lời đơn sơ nầy trước mặt thế gian sao: “Lạy Chúa, trong sự sống của tôi đây có đầy bổn ngã, tội lỗi và ý riêng; nhưng tôi đến cùng Ngài; tôi muốn hoàn toàn vào trong sự chết của Ngài; tôi muốn biết rõ rệt rằng tôi đã bị đóng đinh vào thập tự giá với Ngài; tôi muốn sống cuộc đời của Ngài hằng ngày.” Rồi cũng hãy nói thêm rằng: “Lạy Đức Chúa Jêsus, tôi đã thấy sự vinh hiển của Ngài, thấy việc Ngài đã làm cho tên trộm cướp ăn năn ở trên cây thập tự bên cạnh Ngài. Tôi tin cậy rằng Ngài sẽ làm việc ấy cho tôi. Lạy Chúa, tôi xin lăn mình vào cánh tay Ngài.”

        Nầy, anh em yêu dấu ơi, anh em hãy nhớ kỹ rằng Đấng Christ sẽ làm trổi hơn vô cùng mọi sự suy tưởng và mọi sự hiểu biết của anh em, lại cũng làm trổi hơn vô cùng mọi sự cầu xin và mọi sự mong ước của anh em, miễn là anh em hoàn toàn sống một đời sống “Chúa ở trong tôi”.

                                                        H. Ế. T


[1] Cũng có thể dịch là: “Hãy chối bỏ bổn ngã của ngươi đi”

[2] Có thể dịch là: “Ta chẳng có chi quan hệ với người ấy”

[3] Tức là Đấng Christ

[4] Chỉ về vườn Ê-đen

[5] Chỉ về sự thông công với Chúa trong cuộc đời sống mới.